|
|
Mục
Lục
Trang
B́a
Ban
Biên Tập
Lá
Thư
Xuân
Nguyễn
Thị Lộc
Sớ
Táo Quân
Lê
Thị Ngọc
Hà
Lư Hổ
Nguyễn Xuân
Hoàng
Câu
Đối
Tết
Dương
Anh
Sơn
Câu
Đối
Tết
Vinh Hồ
Thần
Táo
Nguyễn Xuân
Hoàng
Chúc
Tết
Xoay
Người
Bạch Liên
Tết
Ta ?
Liên
Khôi
Chương
Ao
Ước Đầu
Xuân
Lư Hổ
Xuân
Bính Thân
Nguyên
Kim
Lời
Chúc Đầu Xuân
Nguyễn Thị
Lộc
Xuân
Bính Thân
Phan Phước
Huy
Chúc
Tết
Phong
Đàn
Khai
Bút Đầu Xuân
Quách Giao
Chúc
Xuân
Bính Thân
Sông Hồ
Chúc
Tết
Ninh-Hoa.com
Thi Thi
Tử
Vi
Tử
Vi Phong Thủy
Năm
Bính
Thân
2016
Phạm Kế
Viêm
Vận
Hạn
Năm
Bính
Thân
2016
Cho
Những
Người
Có
Tuổi
Cầm
Tinh
Con
Khỉ
Phạm Kế
Viêm
Hương Xuân
Hương
Xuân
Bạch Liên
Chuyện
Vui
Ngày
Tết
Lâm
Ngọc
Đêm
Giao
Thừa
Xa
Xứ
Lê
Thị
Ngọc
Hà
Phút
Giao Thừa
Vân Anh
Nét
Đẹp Văn Hóa
Tết Của
Người
Việt
Nam
Vơ Hoàng
Nam
Sinh
Hoạt
Niềm
Vui
Cuối
Năm
Hà Thị
Thu
Thủy
Xuân
Này
Em
Tṛn
20
Tuổi
Mai
Thị
Hưng
Hồng
Ngày
Họp
Mặt
Đồng
Hương
Nguyễn Thị
Đông
Cuối
Năm Ất Mùi
2015
Trâm Anh
H́nh
Ảnh
Hoa/
Nghệ
Thuật
Cắm
Hoa Trang Trí
Hải
Lộc
Hoa
Xuân Ngày Tết
Lê
Thị
Lộc
Trồng
Hoa
Ngày Tết
Nguyễn Thị
Kệ
Vài
Ḍng...
Vơ
Anh
Kiệt
Năm
Mới
Nhớ
Chuyện
Cũ
Đường
Xưa
Bạch
Liên
Đón
Xuân
Này
Nhớ
Xuân
Xưa
Lê
Thị
Thanh
Tâm
Nhớ
Trại Xuân Bán
Công
Lương
Lệ Huyền Chiêu
Xuân
Về, Tết Đến
Ngọc
Hương
Quà
Mùa
Xuân
Tặng
Cha
Nguyễn Thị Phương
Hiền
Vườn
Cau Nhà Ngoại
Quách Giao
Chuyến
Đ̣ Ngang Không
Cập
Bến
Trần
Hà
Thanh
Sắc
Màu Văn Hóa
Trong Tết
Cổ
Truyền
Dân
Tộc
Vơ Hoàng
Nam
Linh
Tinh
Chuông
Gió
Bạch
Liên
Đọc
Đường Hoa Vàng
Của
Nguyễn
Thị
Thanh
Trí
Dương Anh
Sơn
Nỗi
Ḷng
Đường
Hoa
Vàng
Nguyễn Thị
Thanh Trí
Gởi
Về
Anh
Nồng
Nàn
Đóa
T́nh
Xuân
Tiểu
Vũ
Vi
Ca
Hát/Nhạc
Nhạc
Thơ
Slideshow/YouTube
Kim
Thành
Xuân
Về
Ước Muốn
Đềm
Xuân
Lư
Hổ
Nha Trang Mến
Yêu
Nguyễn Thị
Kính
Ảo
Ảnh
Hà
Thu
Thủy
Tôn
Giáo
Sự
Cần
Thiết
Có
Một
Tôn
Giáo
Nguyên
Ngộ
Năm
Bính
Thân
Nói
Chuyện
Khỉ
Năm
BÍNH
THÂN (2016)
Nói
Chuyện
KHỈ
Nguyễn
Chức
Khỉ
Quê Tôi
Nguyễn
Xuân
Hoàng
Khỉ
Và Các
Loài
Linh
Trưởng
Vinh Hồ
d_bb
Đ.H.K.H
Liêu Trai Chí
Dị (252-253)
Đàm
Quang
Hưng
Theo Cha Hay
Theo Chồng?
Đàm
Quang
Hưng
Nữ
Tính Trong Thi Và
Họa
Lê Phụng
Cổ Thi Thập
Cửu Thủ
Nguyễn
Hữu Quang
Kết-Ngữ
Nguyễn
Hữu Quang
Về
Với
Mẹ
Nguyễn Quang
Tuyến
Tử
Vi Phong Thủy
Năm
Bính
Thân
2016
Phạm Kế
Viêm
Vận
Hạn
Năm
Bính
Thân
2016
Cho
Những
Người
Có
Tuổi
Cầm
Tinh
Con
Khỉ
Phạm Kế
Viêm
Y
Học
Bệnh
Do Thức Ăn
Nước
Uống
Bs Lê Ánh
Sự
Lan Truyền Và
Cơ Chế
Gây
Ra
Bệnh
Lao
Bs Nguyễn Vĩ
Liệt
Ẩm
Thực
Bánh
Tét Nấu Oven
Mai Thái
Vân Thanh
Kinh
Nghiệm
Cuộc Sống
Hương
Vạn Vật
Bạch
Liên
T́m
Người
Giải
Mộng
Đặng
Thị
Tuyết
Như
Mùa
Xuân
Với
Người
Cao
Tuổi
Mai
Thị
Tuyết
Hồng
Vui
Đón Tết Và
Giỗ Tổ
Nghề
May
Nguyễn Thị Phương
Hiền
Bỏ
"Tiên
Học
Lễ"
Th́
Đạo
Đức
Xă Hội
Sẽ
Ra
Sao?
Nguyễn Văn
Nghệ
Khám
Bệnh
Và
Chữa
Bệnh
Bảo
Hiểm
Trương
Khắc
Nhượng
Du
Lịch
Du
Lịch
Đường
Biển,
Vùng
West
Caribbean
Lê
Ánh
Buenos
Aires,
Bài
Tango
Cho
Em
Nguyễn Thị
Lộc
NhữngChiếc
Cầu
Yêu
Thương
Nguyễn Thị Phương
Hiền
Chuyến
Du
Xuân
CalTrain
San
Francisco
Thi Thi
Biên
Khảo/
Bút
Kư
Kinh
Tế
Hoa
Kỳ
Và
Thế
Giới
Năm 2015
Nguyễn Văn
Thành
Cái
Bẫy Nghèo
Phạm
Thanh
Khâm
Chút
Ư
Nghĩ
Về
Hai
Dịp
TẾT
Âm
Lịch
Và
Dương
Lịch
Việt Hải
Viết
về
ninh-hoa.com
Đoạn
Đường 12 Năm
Nh́n
Lại
Trần
Việt
Hải
Văn
Học
Lịch
Sử/Địa
Lư
Bắc
Hành Tạp Lục
(76-77)
Dương Anh
Sơn
Diễn
Giải Sấm Trạng
Tŕnh
Liên
Khôi
Chương
Việt
Nam:
Môn
Học
LỊCH
SỬ
Trong
Quá
Khứ,
Hiện
Tại
Và
Tương
Lai
Nguyễn Văn
Nghệ
Môn
Học Lịch Sử
Trần
Hà
Thanh
Văn
Học
Và
Chút
Ư
Nghĩ Riêng
Trần V́ệt
Hải
Xuân
Cảnh
(Trần
Nhân
Tông)
Trí
Bửu
Khỉ
Trong
Tục
Ngữ,
Thi
Ca
Và
Ca
Dao
Vinh
Hồ
Thơ
Đông
Quê Người
Bạch Liên
Quá
Nhiều Quá Đủ
Bạch Liên
Nỗi
T́nh
Cù Hà
T́nh
Quê Lắng Đọng
Hải
Lộc
Tết
Về
Bánh
Chưng
Bánh
Tét
Hoàng Bích
Hà
Cuối
Trời
Hương
Đài
Miền
Trung Quê Tôi
Lăng Du
Trần
T́nh
Lâm Thảo
Hoài
Niệm
Ngày
Thơ
Lê Hùng
Nhớ
Xuân
Quê
Hương
Lê
Thị
Ngọc
Hà
Bài
Thơ Ăn Tết
Sớm
Nguyễn
Hiền
Ninh
Ḥa Thương Nhớ
Nguyễn Ngọc
Thành
Vô
Nghĩa
Nguyễn
Thị
Khánh
Minh
Cảm
Hứng Đầu Xuân
Nguyễn Thị
Kính
Mừng
Xuân Vườn Tao
Ngộ
Nguyễn Thị
Thi
Đón
Xuân
Nguyễn Thị
Thu
Mừng
Năm Mới
Nguyễn
Văn
Ḥa
Nếu
Như -01
NhàQuê
Ngẫu
Hứng
Trên
Đồi
Nhất
Chí
Mai
Mùa
Xuân Nhớ Mẹ
Mùa
Xuân
Có
Em
Phan
Phước
Huy
Vườn
Xuân
Phong
Đàn
Cố
Hương
Quốc
Sinh
Cánh
Thiệp Mừng Xuân
Thi
Thi
Nghiêng
Thu
Bốn
Tiếng
Cười Em
Thủy
Khánh
Điền
Nắng
Xuân
Trần Phương
Tết
Về Giữa Mùa
Đông
Trúc Lan
Nha
Trang
Biển
Nhớ
Trương
Văn
Nghi
Kiếp
Người,
Đời
Hoa
Trương
Khắc
Nhượng
Tháng
Giêng
Xuân
Về
Bên
Anh
Tiểu
Vũ
Vi
Thiếu
Phụ Tha
Phương
Tứ Hải
Tôn
Ngộ Không
Vinh
Hồ
Tết
Quê
Vơ Hoàng
Nam
Văn
Kư
Ức Ngọt Ngào
An
Giang
Đông
Và Vạn Vật
Bạch
Liên
Tết
Đầu Đông
Bạch
Liên
Em
Ơi
Mùa
Xuân
Đến
Rồi
Đó
Hoàng Bích
Hà
Gởi
Hoàng
Lan
Người
Yêu
Của
Lính
Lâm Thảo
Ninh
Ḥa Cà Phê
Lương
Lệ
Huyền
Chiêu
Ninh
Ḥa Quê Tôi
Mai
Thị
Hưng
Hồng
Tiếng
Động
Cuối
Năm
Nguyễn
Thị
Khánh
Minh
Giấc
Mơ
Của
Chàng
Lính
Biển
- Kỳ 38
Nguyễn Văn
Thành
Đoản
Văn
Cho
Phương
Mai
Nguyễn Vũ
Trâm Anh
Tản
Mạn:
Viết
Cho
Ngày
Sinh
Nhựt
NhàQuê
(Trần
B́nh
Trọng)
Đen
Bạc Đỏ T́nh
Phan Kiến
Ưng
Tri
Ân Ba
Má
Phan Phước
Huy
Thư từ,
bài vở, h́nh ảnh hoặc
ư kiến xây dựng, xin liên lạc:
diem27thuy@yahoo.com
|
SỰ LAN TRUYỀN
VÀ CƠ CHẾ GÂY RA BỆNH LAO
Bác Sĩ
Nguyễn Vĩ Liệt
2013-2014
V
|
ào đầu năm 1978, tôi làm việc tại bệnh viện Đa Khoa Biên Hòa
(bệnh viện Đồng Nai) sau khi tốt nghiệp bác sĩ
y khoa. Một trong những kinh nghiệm thay đổi cuộc đời là lắng
nghe tiếng nói của bệnh nhân. Khởi đầu tôi làm việc tại khu nội
khoa do bác sĩ Vương Tú Toàn điều khiển. Trách nhiệm của tôi là
trông coi khu nội khoa nử. Một ngày kia, một bé gái 10 tuổi đứng
chờ ở cửa và xin tôi giúp đở. Cháu hỏi tôi:
bác sĩ có thuốc
gì cho cháu uống và chết nhanh lẹ! Tôi hỏi tại sao? Cháu trả
lời: Mẹ và cháu là những người duy nhất trong gia đình đi bán
hàng rong nuôi cả gia đình. Mẹ cháu đi nuôi cậu của cháu bị lao
phổi trong bệnh viện. Giờ đây cậu của cháu đã chết và mẹ của
cháu lại bị mắc bệnh lao. Cháu là người duy nhất trong gia đình
đi làm để nuôi mẹ và em của cháu. Nay cháu đã mắc bệnh lao
phổi và phải nằm trong bệnh viện. Mẹ của cháu
vẫn còn bệnh
nhưng ráng đi làm nên không đủ sức để nuôi cả gia đình. Cháu không
muốn trở thành gánh nặng cho gia đình. Em của cháu còn nhỏ,
mới 5 tuổi, cần miếng ăn. Nếu nuôi cháu trong bệnh viện, em cháu
sẽ
bị đói. Tôi nghẹn lời không biết phải trả lời làm sao nhưng cố
gắng an ủi cháu bé 10 tuổi này. Riêng tôi đi làm
bác sĩ với
đồng lương 51 đồng. mỗi ly cà phê là 2 đồng 50 xu thì làm sao
cứu riêng bản thân của mình chứ đừng nói đến cứu người khác!
Cháu gái 10 tuổi đã dạy cho tôi bài học “Bệnh lao là một bệnh
liên quan đến sự nghèo khổ”. Theo sự tiên đoán xa xưa của những
nhà dịch học là bệnh lao có lẽ sẽ biến mất nhưng bệnh lao đã
trở lại một cách hùng hậu vào những thập niên 1980s và 1990s,
đặc biệt nhiều nhất ở những quốc gia còn nghèo lan qua các quốc
gia thịnh vượng do di dân và phương tiện giao thông tốt hơn. Làm
sao diệt bệnh lao? Đó là diệt sự nghèo khổ. Tôi không có tài
kinh luân tế thế, thôi thì mình phải làm giỏi những cái gì mình
có thể làm được. Ý nghĩ đến với tôi là vượt biên để học hỏi
thêm.
Sau nửa năm làm việc tại bệnh viện Biên Hòa, bác sĩ
Trần Văn
Khâm đã 71 tuổi muốn về hưu nhưng chưa có ai thế chỗ. Anh Khâm đã
hỏi ý kiến tôi có muốn thay thế anh ấy không? Tôi chấp nhận lời
đề nghị. Tôi được BS Khâm dạy dỗ
thêm về bệnh lao một thời gian
để ngồi khám ngoại chẩn. Anh Khâm tận tình dạy dổ tôi về những
kinh nghiệm về bệnh lao. Thế là tôi làm trưởng khoa lao với 100
giường bệnh, lúc nào cũng không có giường trống. Tôi được chào
đón với những tràn ho của bệnh nhân không che miệng. Câu chào
bệnh nhân của tôi với những bệnh nhân mới này “Xin che miệng khi
ho. Nếu ai không làm sẽ
bị xuất viện ngay!”.
Với những kiến thức học được từ nhà trường và từ người anh
trong nghề nghiệp, tôi bắt đầu làm việc với những khó khăn về
mặt kỷ thuật. Tôi không có được máy chụp hình phổi (chest x ray)
vì chính quyền lúc đó không có tiền mua phim. Mọi chẩn đoán và
theo dỏi đều được thực hiện bằng rọi kiếng (radioscopy). Mỗi
lần làm cho 3 bệnh nhân, tôi mệt giống như đang chạy đua nước rút
vì ảnh hưởng của phóng xạ nguyên tử.
Cái vui của tôi lúc đó là làm việc sát cánh với một cô chuyên
viên phòng quang tuyến xinh đẹp và hấp dẫn, chưa có ai trong đôi
mắt xanh và luôn nở trên môi một nụ cười thật duyên dáng. Nó
ảnh hưởng đến chẩn đoán của tôi không ít! Cái thích thú của
tôi là đi theo sau cô nàng để được nhìn đường cong chữ
S hoàn
hảo. Nhưng cái vui nhất của tôi là sự khám phá ra rằng tôi có
thể chữa trị cho những người còn trẻ với bệnh lao chỉ trong 3
tháng. Khi soi quang tuyến, những vết nám trong phổi của họ biến
mất đi. Tôi cho họ xuất viện với thêm 3 tháng thuốc chống lao
nữa. Theo sự học hỏi của tôi tại trường y khoa Sài Gòn vào
thời còn sinh viên là trị bệnh lao mất 2 năm. Sự thực hiện
chương trình của bác sĩ Trần Văn Khâm là các y tá tận tay bỏ
thuốc vào miệng bệnh nhân phải nuốt và bắt bệnh nhân hả miệng
cho y tá xét lại sau đó (giở lưỡi lên), đã giúp sự hết bệnh
nhanh chóng. Những ý niệm trong đầu tôi: phải chăng bệnh nhân
không uống thuốc đều đặn nên thời gian kéo dài đến 2 năm? Những
phỏng vấn bệnh nhân và quan sát của tôi đã đưa tôi đến kết luận
như sau:
1.
Sự
nghèo khổ và những biến chứng của thuốc đã làm cho bệnh nhân
ngưng thuốc khi đã cảm thấy khỏe hơn. Tiền mua thuốc là cả một
gia tài của những người mua thúng bán bưng như cháu gái 10 tuổi
xin được chết khi gặp tôi ở khu bệnh nội khoa nữ! Điều này cũng
đưa đến thãm họa của sự kháng thuốc lao.
2. Người
xét nghiệm viên phòng thí nghiệm lao (đảng viên cộng sản từ miền
Bắc vào) đã không làm đúng theo những luật lệ trong phòng thí
nghiệm. Khi tôi lên tiếng cảnh báo cô ta những sai phạm. Cô ta
bảo tôi: bác sĩ
mới ra trường đã biết gì nhiều mà ra điều dạy
dỗ
tôi! Hơn nữa,
tôi đã được tiêm phòng BCG đến 4 lần cơ mà! Chỉ sau khi cô ta đối
đáp với tôi chừng một tháng, cô ta gặp tôi xin
chữa trị nhức
đầu. Tôi khám phá ra rằng cô ta bị lao màng óc nặng. Chuyển
về bệnh viện Hồng Bàng trị lao ở Sài Gòn và cô ta đã qua đời
một tháng sau đó. Ngoài ra, nhiều bệnh nhân được nhập viện cũng
đã được chủng ngừa BCG. Theo sự học hỏi tại trường y khoa Sài
Gòn và đọc trong những sách báo, BCG giúp cho người ta tránh
được những thể bệnh lao nặng nguy hiễm. Rút ra từ những kinh
nghiệm này, tôi biết rằng BCG không giúp được gì cả mà còn làm
dương tính giả (false positive) của phản ứng thử nghiệm tuberculin
(Mantoux test). Một thử nghiệm rẻ tiền và để làm để phát hiện
người chưa phát ra bệnh nhưng đã có vi khuẩn trong người rồi.
Thử nghiệm này có thể được
xử dụng bởi các bác sĩ gia đình.
Nó giúp bác sĩ điều trị bệnh nhân sớm.
Bây giờ chúng ta nên tìm hiểu bệnh lao từ đâu mà có?
Bệnh lao gây ra bởi nhóm vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis hổn hợp
(M. tuberculosis complex). Chúng bao gồm 7 loại vi khuẩn,
thuộc giống (genus) Mycobacterium, gia đình (family) Mycobacteriaceae,
họ (order) Actinomycetales. Chúng gây ra bệnh lao ở người và động
vật. Hổn hợp loài M. tuberculosis chia xẻ 99.9% dây chuyền di
truyền; có lẽ chúng phát xuất từ một loài thủy tổ sinh sản vô
tính. Có giả thuyết cho rằng cách đây 3 triệu năm, Mycobacterium
bovis gây bệnh chính ở động vật đã nhiễm trên loài người. Từ
đó, Mycobacterium bovis biến hóa trở thành loài Mycobacterium
tuberculosis chuyên nhiễm bệnh ở loài người. Loài M. tuberculosis
gây ra bệnh hầu hết bệnh lao ở loài người. M. bovis gây bệnh ở
gia súc và lan truyền qua loài người (do tiếp xúc trực tiếp và
uống sửa không được khử trùng theo phương pháp Pasteurized milk).
Mới đây, người Anh Quốc đã chứng minh được rằng M. bovis có thể
lan truyền từ người sang người. M. africanum và M. canetti hiếm khi
nhưng gây ra bệnh lao ở Phi Châu. M. caprae là một vi khuẩn gây
bệnh lao ở gia súc. M. microti gây bệnh lao ở loài gậm nhấm. Và
M. pinnipedii là loài vi khuẩn gây bệnh lao ở loài hải cẩu. Tất
cả các vi khuẩn gây bệnh lao ở các động vật có thể gây bệnh ở
loài người (zoonotic tuberculosis). Ngoài ra, có những vi khuẩn
mycobacteria không gây bệnh lao như M. Leprae
(gây bệnh cùi), M. avium hay intracellulare (gây bệnh ngoài da, hạch bạch
huyết, hay một thể bệnh khác trong phổi mà ta quen gọi là lao da, lao hạch
hay một thể lao khác của phổi), M. kasasii (một thể bệnh giống như lao
phổi). Hiện nay có người đă chứng minh được Mycobacterium tuberculosis
không phải do sự tiến hóa từ loài Mycobacterium bovis.
Vào thời đồ đá mới (Neolithic), thời trước khi người Âu châu đến
Châu Mỹ, và những xác ướp từ lâu ở Ai Cập đã cho thấy loài
người đã có lao xương sống. Bệnh này vẫn không gây nhiều tai
họa cho loài người cho đến thời cách mạng kỷ nghệ bắt đầu.
Dân số trên thế giới bắt đầu gia tăng nhanh và con người bắt đầu
tập trung nhiều ở thành phố. Họ sống tập trung trong những
căn nhà chật hẹp và kém vệ sinh, sự bùng phát của bệnh lao bắt
đầu là tai họa cho nhiều người.
Vào thế kỷ thứ 17, 18, và 19, dân số ở các nước Tây Âu và Mỹ di chuyển từ
thôn quê lên thành thị để làm việc do cuộc cách mạng kỹ nghệ bùng phát,
bệnh lao bắt đầu gia tăng do điều kiện sống chật hẹp, đông đảo, thiếu vệ
sinh và suy dinh dưỡng. Cùng lúc đó, người da trắng di hành khắp thế giới
và đem theo sự truyền nhiễm bệnh lao khắp thế giới. Cho nên, ngày xưa
người ta gọi là dịch bệnh của người da trắng. Vào cuối thế kỷ thứ mười
chín và đầu thế kỷ hai mươi, điều kiện sống của các quốc gia Tây Âu và Mỹ
đă khá hơn rất nhiều, bệnh lao của những quốc gia này cũng giảm theo rất
nhiều và tiếp tục giảm. Trong khi đó, các quốc gia đang phát triển khác
trên thế giới lại bị dịch bệnh lao hoành hành v́ những điều kiện sống
giống như các quốc gia Tây Âu và Mỹ vào thế kỷ thứ 17, 18, và 19. Đến nay
sự phát triển kinh tế của những quốc gia này vẫn chưa được phát triển như
Tây Âu và Mỹ nên bệnh lao vẫn c̣n hoành hành. Một phần do chiến tranh,
tham nhũng, tăng dân số quá nhanh.
Vào thế kỷ 17 và 18, khi chưa có trụ sinh, bệnh lao đã gây ra
nhiều tử vong. Một phần tư những cái chết ở Âu Châu vào
thời đó bị gây ra bởi bệnh lao. Điều trị vào lúc đó là
tập trung vào những nhà điều dưỡng (sanatorium) để tránh lây lan
cho những người khác và không có những đặc trị nào. Do đó,
tỉ lệ tử vong rất cao. Họ bơm hơi vào phổi của bệnh nhân
làm cho phần phổi bệnh xẹp xuống không giúp được gì nhiều cho
bệnh nhân.
H́nh
1:
Vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis được nhuộm trong đàm có màu đỏ đưới
kính hiển vi quang học.
Phương pháp nhuộm bằng phenochrome với auramine hay auramine-rhodamin
H́nh
2:
H́nh dạng vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis dưới kính hiển vi điện tử
(H́nh ảnh lấy từ Wikipedia, the free encyclopedia)
Năm 1882, bác sĩ
Robert Koch, người Đức, khám phá ra vi khuẩn
Mycobacterium tuberculosis. Ông tên là Heinrich Herman Robert Koch sinh
ngày 11 tháng 12 năm 1843 và mất vào ngày 27 tháng 5 năm 1910. Ông
ta lănh giải thưởng Nobel về Y Khoa cho việc khám phá ra vi khuẩn
lao vào năm 1905. Nhưng bác sĩ
Koch không tìm ra được phương pháp
trị bệnh này. Cho mãi đến năm 1946, sự phát minh ra streptomycin,
bệnh lao đã bắt đầu có biến đổi. Sau đó, INH (isoniazid) được
tìm ra năm 1952 và rifampin được tìm ra năm 1970, việc điều trị lao
trở nên hiệu quả khi người ta phối hợp 3 loại thuốc này trong
trị liệu.
M. tuberculosis là một loại vi khuẩn nhỏ, hiếu khí (thích dưỡng
khí), nằm bất động, hình que (bacillus), có màng bao với
2
lớp mỡ dày với mycolic acid. Loài vi khuẩn này sinh sản chậm.
Mất 15 đến 20 giờ mới sinh sản ra một con khác, so với các vi
khuẩn gây bệnh khác chỉ mất 1 giờ là có thế hệ khác xuất
hiện. Khi cấy trong môi trường thích hợp, vi khuẩn này tạo thành
những cụm nhỏ (colony) màu vàng xậm sau 3 đến 8 tuần lễ. Vì
thế, vi khuẩn M. tuberculosis thường gây những sang thương ở đỉnh
những lá phổi (apex of lungs), nơi có nhiều dưỡng khí.
Hiện nay, người ta đã giải mã (decoding) được toàn bộ nhân di
truyền của loại vi khuẩn này (dòng vi
khuẩn phòng thí nghiệm
H37Rv của M. tuberculosis, dòng XDR/Extended Drug Resistance, của M.
tuberculosis và M. bovis dùng làm thuốc ngừa BCG) và khám phá
rằng số lớn những nhân di truyền (genes) dính líu vào việc tạo
ra 2 phân hóa tố (enzymes) tạo ra
mỡ (lipogenesis)
và làm tan mỡ
(lipolysis) liên quan đến việc tổng hợp và bảo trì cho màng bao
của vi khuẩn. Một trong hai nhân di truyền này tạo ra
52% chất đạm và một nhân di truyền thứ hai này tạo ra 40%
số chất đạm c̣n lại trong vi khuẩn này.
8%
chất đạm c̣n lại của vi khuẩn được tạo ra bởi những nhân di truyền khác
của vi khuẩn không có chức năng bảo vệ chúng. 92% những chất đạm của vi
khuẩn được tạo ra bởi hai phân hóa tố này, giúp vi khuẩn có thể sống
trong những điều kiện thiếu dưỡng khí và giúp vi khuẩn nằm bất
động trong nhiều năm tháng và đợi thời cơ chúng
sẽ vùng dậy và
gây bệnh ở loài người. Làm sao phá vỡ
được hai phân hóa tố này hay cái vỏ bọc của M. tuberculosis thì
chúng ta
sẽ
chữa
lành bệnh lao vừa nhanh lại vừa ngắn hạn!
Người ta đã nhận diện được những sản phẩm nhân di truyền
độc đáo của M. tuberculosis quan trọng cho sự sống còn và có thể
làm thay đổi sự đáp ứng miễn nhiễm của ký chủ.
H́nh này cho thấy những nơi tác dụng của thuốc trị lao trên vi khuẩn
lao Mycobacterium tuberculosis.
Biết Vi Khuẩn Lao Gây Bệnh Do Lan Truyền!
Vậy
Lan Truyền Như Thế Nào?
Chúng ta t́m hiểu về những yếu tố truyền nhiễm và diển tiến bệnh trong một
người bệnh giúp cho sự ngăn cản và điều trị cho bệnh nhân. Người ta t́m
thấy sự lan truyền bệnh thường xuất phát từ một hay nhiều bệnh nhân nào đó
mà người ta gọi là trường hợp bệnh gốc.
Từ những bệnh nhân gốc này, người ta điều tra sự tiếp xúc và dẫn đến sự
ngăn chận sự lan truyền xa hơn nửa.
Sự lan truyền của M. tuberculosis bị ảnh hưởng bởi những đặc điểm của
trường hợp gốc, đặc biệt là
lượng vi khuẩn,
sự gần gủi của người tiếp xúc với vi khuẩn
của bệnh gốc, và điều kiện của
không khí trong môi trường mà họ chia xẻ. Một yếu tố có thể
giúp sự lan truyền hơn nửa là tính nhiễm
của vi khuẩn: mức độ mà M.
tuberculosis có khả năng phát triển và thành lập nơi cư ngụ bên trong phổi
hay những địa điểm khác trên cơ thể trong một bệnh nhân mới một khi sự
truyền nhiễm đă xăy ra.
Trường Hợp Bệnh Gốc:
Gần như hầu hết người ta hít vào những giọt
nhỏ có vi khuẩn lao lơ lửng trong không khí nên người ta mắc bệnh.
Những giọt nhỏ nhiễm khuẩn lơ lửng trong
không khí phát xuất từ một hay nhiều người bệnh được gọi là bệnh gốc.
1/ Sự truyền nhiễm của M. tuberculosis là một ví dụ điển h́nh của nhiễm
trùng qua không khí. Trong gần như tất cả các trường hợp, nhiễm lao được
mắc phải bởi sự hít vào của một hay nhiều vi khuẩn lao được chứa
trong những hạt lơ lững trong không khí nhỏ đủ (1 đến 5 µm) để
đi
vào
một phế nang phổi. Những ống cuống phổi rất nhỏ khi dẩn đến gần phế nang.
Những
hạt nhỏ lơ lững có thể hít vào chứa vi khuẩn M. tuberculosis hiếm khi có
thể được tạo ra từ những nguồn khác: ví dụ, như từ túi mủ lao khi chúng ta
hút ra trong lúc điều trị. Sau khi những chất bài tiết từ đường hô hấp
biến thành những hạt nước nhỏ lơ lững được bắn ra ngoài cơ thể qua mủi hay
miệng do ho hay hắt hơi. Nước trong những giọt này bốc hơi nhanh chóng,
để lại những nhân hạt nhỏ, có thể bao gồm những vi khuẩn lao và có thể vẩn
lơ lững trong không khí cho nhiều giờ. Một vi khuẩn đơn độc trong một
giọt
lơ lửng
nhỏ là nguy hiểm hơn nhiều vi khuẩn trong những hạt lơ lửng lớn trong
không khí. Khi chúng ta hít vào có khunh hướng dính lại ở đường hô hấp
hơn là đi xuống tận phế nang. Những hạt lơ lững này thường bị tách ra
khỏi đường hô hấp một cách nhanh chóng. Chất đàm bắt dính những hạt này.
Những sợi lông nhỏ trong cuống phổi giúp cho chất đàm đi ra khỏi phổi nhờ
vào cơ chế ho hay hắt hơi.
2/ Ho là một cách hiệu quả nhất cho sự
tạo ra những giọt lơ lửng nhỏ cho ra những nhân lơ lửng trong không
khí.
Những phương cách khác như thở ra mạnh khác hơn là ho, như nhảy
mủi, la hét, ca hát, và nói to tiếng. Tất cả liên quan đến mức
độ lớn hơn hay nhỏ hơn. Ho tạo ra sự tăng tốc độ th́nh ĺnh của không
khí đẩy mạnh hay nhẹ những chất bài tiết trong đường hô hấp ra trong
bầu không khí. Ho hay hắt hơi tạo ra bởi sự hít không khí vào của bệnh
nhân làm xáo trộn chất lỏng trên bề mặt hay những sợi chất
nhầy, do đó làm ra những giọt chất lỏng hòa lẩn không khí
(aerosol).
Những bài tiết dịch mỏng dể trở thành những giọt nhỏ hô hấp hơn
là chất nhầy nhớt. Giai đoạn thứ hai của ho hay hắt hơi là tống mạnh
lượng không khí có trong phổi.
Chất bài tiết càng lớn, có số giọt lơ lửng nhiễm trùng càng
nhiều. Một cái ho cho ra
3,000 giọt nhỏ lơ lửng trong không khí. Nói chuyện trong 5 phút
cho ra cùng số lượng giọt nhỏ lơ lửng. Một cái hắt hơi cho ra số lượng
càng nhiều hơn nửa,
40,000
giọt lơ lửng. Người có bệnh đang hoạt động đi ra khỏi pḥng của họ, không
khí trong pḥng vẩn c̣n lây nhiễm.
Những hạt nước nhỏ lơ lửng trong không khí, mang vi khuẩn lao, là
những xe vận chuyễn vi khuẩn vào trong đường hô hấp của những người không
có bệnh lao. Những yếu tố môi trường rất là quan trọng trong sự
ảnh hưởng lên sự truyền nhiễm của vi khuẩn lao. Những nghiên cứu
bởi Dr. Loudon và những cộng sự viên đã cho thấy rằng, dưới
những điều kiện tiêu chuẩn của nhiệt độ và độ ẩm bên trong nhà
ở, 60% đến 71% của những vi khuẩn lao trong những giọt nước nhỏ
lơ lửng trong không khí, có thể sống sót được 3 giờ, 48% đến 56%
trong 6 giờ, và 28% đến 32% trong 9 giờ.
Ngoài ra, những yếu tố ảnh hưởng tính truyền nhiễm của những vi
khuẩn trong một nhân của giọt nước nhỏ lơ lửng trong không khí là
sự tách rời môi trường của chúng bởi máy hút hơi hay máy lọc
không khí và sự giết chết những vi khuẩn khi tiếp xúc với đèn
tia sáng tử ngoại
(ultraviolet light).
Những yếu tố môi trường này làm biến đổi bằng cách làm loảng
nồng độ những vi khuẩn lao trong không khí là lọc một cách hiệu
quả, cộng với giết chúng với đèn tia tử ngoại phần vi khuẩn c̣n lại
trong môi trường. Tia sáng tử ngoại (ultraviolet) có nhiều trong ánh sáng
mặt trời cho nên vi khuẩn lao không có khả năng lây truyền ngoài nắng.
Tôi thường có thói quen bắt những bệnh nhân tôi ra sân trống bên ngoài
nắng đi dạo hay vận động tay chân nhẹ giúp bệnh nhân khỏe hơn và có tính
sát trùng trên cơ thể của họ.
3/
Người ta đã chứng minh tính biến đổi trong khả năng nhiễm của bệnh
nhân lao một phần có lẽ được liên hệ với
tính nặng nhẹ của ho. Một bệnh
nhân với bệnh nhiễm nặng không chỉ đã có lao phổi nặng nhưng lao
cổ họng nửa. Bệnh nhân này lây nhiễm như một đứa trẻ bệnh sởi
(measle)
đối với những trẻ khác. Người ta cũng nghiên cứu tương tự để mô
tả tính lây nhiễm của những bệnh nhân với HIV và bệnh lao. Tính
nhiễm trùng không giống nhau. Với 97 bệnh nhân (118 nhập viện)
được nhập viện trong khu bệnh nhân lao với HIV, 10 người đã gây ra
90% của nhiễm trùng cho guinea pigs được tiếp xúc với không khí
thoát ra từ không khí của khu bệnh này. Với 10 người bị nhiễm,
6 người đã có lao kháng thuốc MDR
(MutiDrugResistance)
mà đã không được điều trị đầy đủ; thêm vào có lao MDR, phết mẩu
nghiệm đàm dương tính và trị liệu không đủ, đều đóng góp vào
mức độ nhiễm trùng.
Làm một điều đơn giản, như che miệng khi ho, cũng có thể làm
giảm sự thành lập những giọt nhỏ với nhân bởi sự ngăn cản
những giọt nhỏ vào dòng không khí.
Tương tự, bệnh nhân mang
mặt nạ có hiệu quả vì những giọt lơ lửng nhỏ
sẽ bị dính lại
trong khi chúng còn lớn,
trước khi thành phần nước bốc hơi. Mặc nạ (dụng cụ thở có thể
bỏ đi được) được mang bởi những người được tiếp xúc với một
nguồn nhiễm trùng ít hiệu quả hơn mặt nạ được mang bởi bệnh
nhân, bởi vì hầu hết nhân của những giọt nhỏ bay trong không khí
là nhỏ hơn những giọt lơ lửng nguyên thủy. Tuy nhiên, được chế
tạo đúng cách, những mặt nạ khít khao là rất hiệu quả trong
việc loại bỏ những hạt từ 1 đến 5µm.
4/ Một yếu tố quan trọng được kể đến trong sự quyết định tính
nhiễm trùng là số vi khuẩn được chứa
trong phổi của trường hợp bệnh gốc. Chúng ta có thể
biết được tính lan truyền nhiều hay ít qua cái nhìn vào hình
quang tuyến phổi và đồng thời nhìn số vi khuẩn trong phết đàm
trên kính. Canetti đã chứng minh rằng số vi khuẩn của sang thương
lao biến đổi nhiều, tùy thuộc hình thái của sang thương. Số vi
khuẩn trong những sang thương đặc chắc (solid lesion) khoảng từ
100-10.000
vi khuẩn trong mỗi mililitre, trong khi đó trong những sang thương hang
lao, dân số vi khuẩn là trong khoảng 10 triệu đến
10 ti
̉vi khuẩn cho mỗi mililitre. Nhiều chuyên gia về lao đã chứng minh
rằng sự lan tràn của những phản ứng tuberculin dương tính trong
những người trẻ tiếp xúc với bệnh nhân với bệnh lao mới khám
phá, đã gia tăng khi sự lan rộng của hình quang tuyến những sang
thương trong phổi của người bệnh nhân gia tăng. Vậy, trong phòng ngừa
lao, những người tiếp xúc bệnh nhân với lao lan rộng hơn phải
được sắp thứ tự ưu tiên cao hơn trong điều tra dịch học hơn là
những người tiếp xúc với bệnh ít nặng hơn.
Hầu hết những phương tiện trực tiếp nhất của sự ước tính vi
khuẩn là khám dưới kính hiển vi của những phết đàm trên kính.
Một số vi khuẩn trung bình
quan trọng
khoảng 5.000 đến 10.000 vi khuẩn cho mỗi millilitre
đàm cần cho vi khuẩn kháng acid mới thấy được trong phết đàm trên
kính được nhuộm. Số vi khuẩn được quan
sát trong đàm trên kính càng cao, tính truyền nhiễm càng mạnh.
Nếu phết đàm trên kính không tìm thấy được vi khuẩn lao hình như
không có khả năng truyền nhiễm.
5/ Một yếu tố quan trọng thứ ba trong sự quyết định tính lây
nhiễm của một trường hợp nguồn gây bệnh được
điều trị bằng thuốc chống lao.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới về những yếu tố ảnh hưởng tính
truyền nhiễm của vi khuẩn lao, đã ghi nhận rằng những bệnh nhân
đã có những phết đàm dương tính nhưng họ đã đang được trị bằng
thuốc chống lao đã là ít lây nhiễm hơn cho guinea pigs so với
những bệnh nhân không được trị. Tỉ lệ những bệnh nhân không được
trị liệu trong sự so sánh với những bệnh nhân được trị liệu đã
là 50:1. Dr. Escombe và những đồng nghiệp cùng nghiên cứu, cho
rằng một khi trị liệu đối với những vi khuẩn nhạy
cảm với
thuốc bắt đầu, tính truyền nhiễm của M. Tuberculosis
giảm nhanh
chóng. Sự xác định số lượng của tính lây nhiễm của giọt lơ
lửng trong không khí, tạo ra do ho đã cho thấy cùng kết qủa. Sự
hiệu quả của trị liệu có thể thấy trong
tuần lễ đầu khi cấy
những giọt lơ lửng trong không khí trước
và sau khi trị liệu một
tuần. Nếu vi khuẩn lao nhạy cảm với thuốc điều trị.
Cơ
chế quan trọng nhất mà theo đó hóa trị làm
giảm tính lây nhiễm
là tác dụng trực tiếp của thuốc trên dân số vi khuẩn trong
phổi. Hobby và các cộng sự viên đã tìm thấy rằng, sau trung
bình 15.6 ngày của trị liệu với nhiều thuốc, đã có một sự
giảm trong số lượng vi khuẩn cho mỗi millilitre của đàm rất nhiều,
từ khoảng 1triệu vi khuẩn xuống đến khoảng 10 ngàn
(giảm
2
con số
0, có
nghỉa
giảm
một
trăm
lần
ít
hơn
),
hay một cái giảm 99%.
Một nghiên cứu khác của Jindani và những người cùng nghiên cứu, đã
chứng minh một sự giảm nhiều nhất cho
mỗi ml của đàm trong hai
ngày đầu tiên của trị liệu, và một sự
giảm thiểu hơn nửa trong
12 ngày kế tiếp. Vậy, trong hai tuần đầu trị liệu, đã có một
giảm thiểu từ khoảng 10 triệu đến 10 ngàn vi khuẩn
mỗi ml đàm,
hay một sự giảm 99.9%. Tuy nhiên, ngay với sự
giảm thiểu sâu đậm
này trong số vi khuẩn, số còn lại của vi khuẩn (1,000 vi khuẩn/ml
của đàm) vẫn sẽ đủ để cho ra phết đàm dương tính. Thêm vào sự
giảm số vi khuẩn còn sống, hóa trị cũng làm
giảm ho. Loudon và
Spohn đã ghi nhận rằng ho đã được
giảm bởi 40% sau một tuần trị
liệu và bởi 65% sau 2 tuần lễ.
Nói chung là sự điều trị bằng thuốc kháng lao giúp giăm sự lan truyền bệnh
lao rất quan trọng. Sự giảm thiểu trong tính truyền nhiễm được gây
ra bởi hóa trị với thuốc kháng lao, đặc biệt là isoniazid.
Những chế độ thuốc không bao gồm isoniazid không làm bệnh nhân
không lây nhiễm nhanh chóng như chế độ trị liệu với isoniazid. Như
vậy, sự giảm thiểu liền trong tính lây nhiểm không thể
xảy ra ở
bệnh nhân chứa vi khuẩn đề kháng isoniazid.
Những chỉ dấu thực dụng này lên hệ đến tính lan truyền của bệnh lao.
Thay đổi t́nh trạnh sống và làm việc giúp giăm sự lan truyền. Nếu người
tiếp xúc là vợ chồng hay t́nh nhân th́ tính lây nhiểm cao. Trái lại,
những người tiếp xúc chỉ thoáng qua nhanh và không đụng chạm đến người
bệnh hay không ở trong cùng khoảng không khí chung lâu sẻ có tính lây
nhiễm thấp.
6/ Những dữ kiện từ nhiều nguồn cho
thấy rằng những dòng vi khuẩn M. Tubercuosis đề kháng isoniazid
có lẽ ít gây bệnh lý hơn những vi khuẩn hoàn toàn nhạy
cảm với
thuốc này.
Những nghiên cứu phân tử dịch học cho rằng đột biến cho sự kháng
thuốc có thể có một vai trò trong tính gây bệnh của vi khuẩn
lao, đặc biệt những đột biến được đi đôi với sự đề kháng
isoniazid. Những vi khuẩn lao cô lập được chứa đột biến thông
thường nhất, katG
S315T và inhA promoter 15c-t, đã có
thể gây ra những trường hợp lây nhiễm của bệnh lao (được
định nghỉa bởi định kiểu di truyền của các dòng vi khuẩn trong
dân chúng). Trái lại, những đột
biến trong katG khác hơn đột biến thông thường S315T đã không
gây ra những trường hợp lao bị lây.
Có lẻ do sự tiếp xúc của người với
miễn nhiễm kém như những người
vô gia cư, những người nghiện rượu. Những bùng phát của bệnh lao gây
bởi những dòng vi khuẩn lao kháng thuốc MDR và XDR (EXtendedDrugResistance)
của vi khuẩn lao đã xảy ra trong bệnh viện hay những nhà tù đã
được ghi nhận rỏ ràng.
Về Dịch Học:
Bệnh lao cho số tử vong chỉ đứng hàng thứ hai sau HIV như một
nguyên nhân tử vong do một nhiễm trùng đơn độc gây ra.
1/3
dân số thế giới,
2 tỉ
người nhiễm lao nhưng gây ra
9
triệu trường hợp bệnh lao đang hoạt động
mỗi năm và
2
triệu người chết vì bệnh này.
miễn nhiễm yếu là rủi ro cao bị
mắc bệnh lao. Đặc biệt những người bị
miễn nhiễm yếu do HIV bị
bệnh lao nhiều nhất trong những người này và có
200.000
người có HIV chết vì lao. Trong sự cạnh tranh kinh tế toàn cầu, cắt
giăm chi tiêu về y tế công cộng hàng năm của các quốc gia kinh tế đă phát
triển trên thế giới do nạn thâm thủng ngân qủy quốc gia cũng đă giúp cho
sự bộc phát mạnh trở lại của bệnh lao trên toàn cầu vào đầu thập niên
1990s.
Với các quốc gia chậm phát triển cộng với chiến tranh như Việt Nam đă đưa
những làn sóng người tị nạn đi khắp thế giới và cũng đưa những người mang
bệnh lao đang hoạt động hay bệnh lao tiềm ẩn lan tràn khắp năm châu.
Ngoài ra, khoảng
500.000 người
bị nhiễm lao kháng thuốc
(MDR: multidrug resistance) mỗi
năm trên toàn thế giới.
Một trong hai yếu tố cho sự lan truyền bệnh lao là
1.
Nghèo
khổ:
sống đông đúc trong những ngôi nhà chật hẹp và cơ thể thiếu dinh
dưỡng đi đôi với những bệnh đau khác.
2.
Một
dân
số
thiếu sự miễn nhiễm
tự nhiên.
Từ khi nền kỹ nghệ cơ khí phát triển ở thế kỷ
17,
đến thế kỷ thứ
19, người
nghèo tập trung ở những khu kỹ nghệ đông đúc và sống với những
điều kiện khổ cực. Hơn nữa, họ là những người chưa có những
đề kháng tự nhiên
(những
thế hệ mới tiếp xúc với bệnh lao).
Nên tỉ lệ tử vong cao với
¼
dân số người trưởng thành ở Âu Châu chết vì bệnh lao. Những
người thiếu miễn nhiễm tự nhiên hay có bệnh làm yếu đi sự
miễn
nhiễm của cơ thể dể có bệnh lao phổi với hang lao. Bệnh lao
phổi với hang lao sẽ
gây ra truyền nhiễm cao vì số lượng vi khuẩn
trong hang lao cực kỳ cao và bệnh nhân có khuynh hướng ho nhiều.
Do đó, bệnh lao được truyền nhiễm cho nhiều người khác. Đặc
biệt là trong dân số nghèo khổ và tập trung mật độ cao.
Ở thế kỷ
21, sự
kiện này
được
lập lại ở những quốc gia
đang phát triển. Vì sự cạnh tranh toàn cầu, chính phủ sở tại
áp lực nhân công lảnh số lương quá thấp để sống với điều kiện
đông đúc và nghèo khổ. Đây là những vùng đất màu mở cho bệnh
lao phát triển mạnh. Với sự xuất hiện những người bị nhiễm HIV
giúp sự trở lại của bệnh lao và sự truyền nhiễm mạnh mẻ.
Chiến tranh luôn là nguồn gia tăng bệnh tật, riêng bệnh lao được gia tăng
mạnh mẻ. Ngoài việc nghèo khổ, thiếu ăn, và sống chung chật hẹp, sự thay
đổi chổ ở từ vùng mất an ninh đến vùng an ninh hơn tạo ra cơ hội cho sự
truyền nhiễm và lan tràn của bệnh lao mạnh hơn. Sài G̣n là một bằng
chứng. Riêng ở Sài G̣n, Việt Nam, tôi được học y khoa và đầu thập
niên
1970s,
tỉ lệ bị nhiễm lao
(bao
gồm lao tiềm ẩn và lao đang hoạt động)
là
1% của
dân số. Đến khi tôi bắt đầu hành nghề vào năm
1977, tôi
được thông báo là tỉ lệ bị nhiễm lao lên đến
10%
ở Sài G̣n, Việt Nam. Cùng lúc đó, có những vùng dân chúng bị
chết vì đói và đời sống dân chúng tại miền
Nam thiếu thốn cùng
cực. Tôi không ngạc nhiên con số được thông báo.
Ngoài ra, bệnh lao kháng thuốc
(MDR-TB)
xuất hiện cũng giúp chứng minh rằng các nhà dịch học vội vả
tiên đoán bệnh lao sẽ giảm xuống thấp vào cuối thế kỷ
20.
Điều này đã xảy ra ngược lại.
Tỉ Lệ Tử Vong Và Tỉ Lệ Bệnh Mới Đây:
Ở Canada, tỉ lệ mắc bệnh lao cao ở những người di dân, nhất là từ những
quốc gia đang mở mang và chiến tranh kéo dài. Người thổ dân luôn là dân
số sinh tại Canada có tỉ lệ mắc bệnh lao cao nhất v́ nghiện rượu và ma
túy, có nguồn lợi tức thấp nhất. Ở Mỹ, ta có thể chia ra làm
2
thời kỳ vào cuối thế kỷ
20.
Sự đi xuống của bệnh lao đều đặn đã đạt đến một điểm thấp
nhất tạm thời vào năm 1984.
1.
Từ năm 1985 đến 1992 số trường hợp cao hơn những năm trước
1985 là
64,000 trường hợp (được so với sự đi xuống được dự trù).
Đã đạt đến đỉnh ở 10.5 trường hợp được tường trình cho
mỗi
100,000 dân số. Những yếu tố gây ra sự gia tăng này đã bao gồm
những người nhập cư từ những quốc gia có chiến tranh như Việt Nam, Lào,
Kampuchia..., những người vô gia cư ở thành thị, nghiện thuốc
chích tỉnh mạch, sự gia tăng sự sao lãng của những chương trình
kiểm soát lao, và nổi bật nhất dịch AIDS.
2.
Sau năm 1992, những trường hợp đã
giảm đến 4.4 trường hợp
cho mỗi 100,000 dân số vào năm 2007, thấp nhất trong lịch sử bệnh
được ghi chép. Tỉ lệ bệnh lao ở những người sinh ra ở nước
ngoài Mỹ đã là 10 lần hơn những người sinh ra ở Mỹ. Những
người di dân gây ra hầu hết những trường hợp được tường trình ở
Mỹ. Điều này phản ảnh sự gia tăng di dân từ những quốc gia với
sự lưu hành cao của lao, như Mexico, Phillipines, Việt Nam, Ấn Độ,
và Trung Quốc. Định kiểu di truyền dòng vi khuẩn cho rằng bệnh
lao trong những người sinh ra ở ngoại quốc là từ sự tái hoạt
động của bệnh lao tiềm ẩn mắc phải trước khi đến Mỹ. Hơn nửa,
rủi ro đi xuống với khoảng thời gian cư trú, cũng cho thấy rằng
hầu hết nhiễm trùng được mắc phải trước khi đến Mỹ. Sự có
thể đúng của sự phát triển bệnh lao sau khi di dân biến đổi cả
bởi quốc gia gốc và khoảng thời gian từ lúc đến Mỹ. Sau đây là
những thống kê để chứng minh những điều trên:
H́nh 1: Số những trường hợp được tường tŕnh của lao
ở Mỹ theo quốc gia được sinh ra đời, 1993-2007.
Tỉ lệ cho mỗi 100,000 dân số.
(Adapted from Centers for Disease Control and Prevention. Trends in
Tuberculosis—United States, 2007. MMWR Morb Mortal Wkly Rep.
2008;57;281-285.)
H́nh 2:
Những Tỉ Lệ Trường Hợp Lao Được Tường Tŕnh Trong Những Người Di Dân Theo
Quốc Gia Sinh Ra Được Xếp Loại Theo Thời Gian Đến Mỹ
Adapted from Cain KP, Benoit SR, Winston CA, MacKenzie WR. Tuberculosis
among foreign born persons in the United States. JAMA 2008;300;405-412.
15
quốc gia thường được người bệnh khai là nơi sinh ra.
Trên
một mức độ toàn cầu, bệnh lao có một tác động tàn phá trong
những quốc gia đang phát triển, với
12
quốc gia có
70%
của các trường hợp. Vào năm 1993, WHO đã tuyên bố bệnh lao là
một khẩn cấp của y tế công cộng thế giới và sáng kiến chính
tăng cường để đáp ứng vấn đề. Một khiá cạnh quan trọng của
chiến lược này là trị liệu phải được giám sát, mà có thể bao
gồm trị liệu được quan sát trực tiếp, ngắn hạn (DOTS: Directly
Observed Treatment, Short course). Tại thành phố Biên Ḥa, Việt Nam, bác
sĩ Trần Văn Khâm đă có chương tŕnh này trước khi tôi đến làm việc tại đây
vào năm
1978. Tại Biên Ḥa vào thập niên 1970s,
bác sĩ Khâm cho y tá giám sát bệnh nhân uống thuốc
mỗi buổi sáng. Bệnh
nhân đứng trước pḥng phát thuốc há miệng to, tự bỏ thuốc vào miệng. Y tá
nh́n thấy đủ những viên thuốc trong miệng trước khi nuốt. Sau đó, y tá
dùng que đè lưởi
(tongue depressor) và xem xét coi bệnh nhân có làm ảo thuật dấu thuốc dưới
lưởi hay bên trong g̣ má hay không trước khi về lại trại bệnh lao. Bệnh
nhân ra khỏi trại bệnh phải mang mặt nạ che miệng mủi và cầm theo lon để
nhổ đàm sau khi ho.
V́
uống thuốc nhiều phản ứng phụ và ít nhất là 3
tháng dể nản lòng người bệnh. Nghèo khó cùng cực, đại dịch HIV,
những cuộc nội chiến, và di dân tị nạn tất cả ngăn chận sự
thành công. Vài quốc gia đã có tiến bộ đáng kể trong những năm
vừa qua. Ở Trung Quốc, vào được trong trị liệu được quan sát
trực tiếp (DOTS) đã được bành trướng từ 31% các trường hợp bệnh
lao vào năm 2001 đến 80% vào năm 2005. Tiến bộ gây ấn tượng sâu
sắc cũng đã được làm ở Ấn Độ, quốc gia với số lớn nhất của
những trường hợp bệnh lao. Từ năm 2001 đến năm 2006, DOTS được bao
gồm từ 12% đến 64%, cứu hàng trăm của hàng ngàn mạng sống. Châu
Phi, chịu thiệt hại những tỉ lệ HIV và lao cao nhất thế giới, đã
không thấy sự tiến bộ như vậy, với sự phát hiện các trường hợp
thấp, sự bành trướng của DOTS thấp, và những tỉ lệ chửa hết bệnh
thấp.
TABLE 250-4 -- Reported Tuberculosis Cases among Countries
That Account for 70% of Reported Cases Worldwide, 2006
Quốc Gia |
Trường Hợp |
Tỉ Lệ mỗi 100,000 Người |
India |
1.228.827 |
107 |
China |
940.889 |
71 |
South Africa |
303.114 |
628 |
Indonesia |
277.589 |
121 |
Pakistan |
176.678 |
110 |
Philippines |
147.305 |
171 |
Bangladesh |
145.186 |
93 |
Russian Federation |
124.689 |
87 |
Myanmar |
122.472 |
253 |
Ethiopia |
122.198 |
151 |
Kenya |
108.342 |
296 |
Vietnam |
97.363 |
113 |
Adapted from World Health Organization: Global Tuberculosis Database.
Available at
http://www.who.int/research/en/.
Hơn
30
triệu người khắp thế giới bây giờ đang sống với HIV/AIDS. Tiềm
năng cho tác động qua lại được tiếp tục giữa AIDS và bệnh lao do
đó là quá rộng lớn. Trong vài quốc gia đang phát triển nơi mà hầu
hết những người chứa vi khuẩn lao trước khi trưởng thành, sự lan
tràn của nhiễm HIV trở nên chỉ là yếu tố quyết định của sự
cùng nhiễm của hai bệnh này. Hoàn cảnh là tệ hại nhất ở vùng kế
cận Sahara Châu Phi, nơi mà phạm vi tác động của bệnh lao hơn gấp
đôi từ 149 lên đến 343 cho mỗi 100,000 dân số. Trong năm 2006, 85%
của những trường hợp bệnh lao dương tính HIV đã là ở Phi Châu.
Nó được ước tính rằng 30% đến 40% của tất cả tử vong AIDS ở Phi
Châu là từ bệnh lao. Sự gia tăng đột ngột này ở gánh nặng đã
áp đảo khả năng y tế có giới hạn của vùng. Nhiều những vùng
khác cũng là bị ảnh hưởng sâu đậm bởi những dịch cùng xảy ra
của bệnh lao và AIDS.
VI KHUẨN LAO GÂY RA BỆNH LAO NHƯ THẾ NÀO?
Con người sinh ra đời có hệ thống miển nhiễm tổng quát. Chúng ta khởi đầu
chỉ tiết ra những kháng thể tổng quá, chung chung. Khi gặp một vi khuẩn
đặc biệt như vi khuẩn lao, chúng ta mất vài tuần lể mới thực sự tạo ra
kháng thể đặc biệt để chống lại vi khuẩn lao. Sau đây tôi sẻ dẩn dắt qúi
vị đi qua từng bước của cơ thể từ lúc gặp vi khuẩn lao cho đến lúc cơ thể
chúng chống lại được vi khuẩn này.
Trong vài tuần lễ đầu, cơ thể của ký chủ chưa xác nhận được hay
chưa kịp tạo ra những sự đề kháng dịch thể hay tế bào đặc biệt
cho vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis
(vi khuẩn
lao).
Những vi khuẩn lao nằm trong những giọt hắt hơi, ho, hay nói lớn,
bay lơ lững trong không khí. Khi người tiếp xúc hít vào, những
giọt nước có cở lớn chứa nhiều vi khuẩn lao
sẽ bị chận lại và
người ta hắt hơi hay ho để đẩy chúng ra ngoài. Riêng những giọt
nước thật nhỏ chỉ chứa
1 hay 2 vi khuẩn
sẽ đi thẳng vào đến phế nang
(alveoles). Chúng
bị những thực bào
(phagocytes)
nuốt vào
(phagocytosis).
Sự đi vào những thực bào liên quan đến những vi khuẩn lao tiếp xúc
với những bộ cảm nhận trên màng thực bào: bộ
cảm nhận bổ xung
(complement receptors) như
bộ cảm nhận mannose và bộ cảm nhận Fc. Trong giai đoạn này, sự
ảnh hưởng bởi tính kiềm hãm vi khuẩn trong thực bào
có lẽ tối
thiểu.
Vi khuẩn lao xử dụng nhiều phương cách để sống sót trong những
túi diệt trùng của thể thực bào
(phagosome)
trong khi đó làm chậm lại hay ngăn ngừa hửu hiệu những đáp ứng
miễn nhiễm. Vi khuẩn lao tiết ra urease
(như
vi khuẩn helicobacter pylori cũng làm)
trung hòa sự acid hóa của thể thực bào.
Do đó nó giới hạn những phân hóa tố diệt khuẩn. Hơn nửa, vi
khuẩn trốn trong thực bào tránh được sự nhận diện và lôi kéo
của những phản ứng CD8+
cytotoxic T-cell
đi qua đường dây phản ứng dây chuyền proteosome của sự phơi bày
kháng nguyên
(vi
khuẩn lao).
Ngoài ra, vi khuẩn lao cũng tiết ra
superoxide dimutase, catalase, thioredoxin, và những chất antioxidants
một cách thừa thải để giải độc những
chất reactive oxygen
(oxygen,
ions, peroxide)
được tạo ra bởi thực bào.
Không những chống lại các chất oxít
hóa, những chất này còn ức chế những phản ứng
miễn nhiễm
được dàn xếp bởi những chất oxít hóa cần cho sự trưng bày vi
khuẩn một cách hửu hiệu bằng cách khởi động các thực bào mới
và những thực bào bị nhiễm vi khuẩn có phản ứng tự chết
(apoptosis)
để phơi bày vi khuẩn từ trong thực bào ra trong máu. Điều này,
vi khuẩn tiếp tục ẩn trốn trong thực bào và tránh sự phát
triển và tấn công của T-cells
(killers)
vì chúng nhận ra thực bào là phe ta. Khi phát hiện một cách
sáng tỏ cơ chế gây bệnh, nó giúp các nhà khoa học tìm cách chế
tạo thuốc chủng ngừa một cách hửu hiệu.
Sau đây là những phản ứng dây chuyền tạo ra những chất oxít hóa
trong thực bào và các tế bào khác.
Vi khuẩn sinh sản không bị giới hạn trong nhiều
tuần lễ trong
những nơi tập trung khởi đầu và lan theo đường bạch huyết và
máu. Những chất hemagglutinin
(chất
giúp kết tụ hồng cầu của máu)
của vi khuẩn lao dính vào chất heparin
(chất
làm loảng máu)
giúp vi khuẩn dể dàng đi xuyên qua lớp biểu mô
(epithelium)
của phổi để đi ra bên ngoài
(epithelial transcytosis). Cuối
cùng tính miễn nhiễm tế bào
(cellular immunity) xảy ra
không ngờ trước. Tính quá
nhạy cảm
(hypersensitivity)
của các mô tế bào bùng lên so với những nhiễm trùng khác.
có lẽ chất mỡ trên màng vi khuẩn lao
(mycobacterial lipids) giúp
làm mạnh hơn những phản ứng này.
Trong những người bình thường, những tế bào
CD4+
T cells mang những bộ cảm nhận α và β.
Nhờ vào những bộ cảm nhận này, chúng có khả năng nhận ra được
những kháng nguyên của mycobacteria đã được chế biến và trưng bày
bởi những thực bào. Sau khi tiếp xúc những kháng nguyên của
mycobacteria, những lymphocytes
(CD4+ T cells)
bắt đầu hoạt động và sinh sản ra những dòng vô tính
của những lymphocytes có những đặc tính tương tự. Ngoài ra,
lymphocytes cũng tiết ra những chất đạm khác nhau, được gọi là
lymphokines
(chất
lôi cuốn các tế bào bạch huyết).
Những chất đạm này có khả lôi cuốn, giữ lại và khởi động
những thực bào tại nơi có kháng nguyên.
Những thực bào bị kích động tích lũy những liều lượng cao của
những phân hoá tố ly tán
(lytic enzymes) và
những chất biến dưỡng phản ứng
(reactive metabolites),
làm gia tăng mạnh mẽ khả năng diệt mycobacteria của chúng. Những
thực bào được khởi động cũng bài tiết ra những phân tử điều
hành,
như yếu tố hoại tử
(TNF-α),
yếu tố tăng trưởng đến từ các tiểu cầu
(platelets),
những yếu tố chuyển biến tăng trưởng β
(transforming growth factor β), và
yếu tố tăng trưởng fibroblast.
Trong sự hoạt động cộng hưởng
(synergic action)
của những yếu tố vừa kể với những chất đạm tiết ra từ
lymphocytes, như interferon-γ, yếu tố ức chế
sự di chuyển
(immigration-inhibitory factor)
quyết định sự đáp ứng sinh bệnh lý học và lâm sàng.
Những tế bào thuộc dạng biểu mô
(epithelioids)
có nhiều trong những mô hạt
(granuloma)
bị kích thích rất mạnh bởi những thực bào.
Nhiều thực bào kết hợp lại thành những
tế bào thật lớn có nhiều nhân tế bào, được gọi là Langhan giant
cells, di chuyển hướng về những kháng nguyên lao và bao quanh chúng
lại tạo thành vòng đai kiểm soát những vi khuẩn lao. Đây
là một đáp ứng thành công nhất của ký chủ. Những tế bào
lymphocytes chuyên tiêu diệt những tế bào đã bị nhiễm vi khuẩn như
thực bào
(cytotoxic CD8+ T cells),
được tạo ra trong lúc nhiễm trùng, có khả năng làm ly tán những
thực bào đơn nhân đã bị nhiễm vi khuẩn lao
(infected mononuclear phagocytes).
Khi số
lượng được khởi động đạt đến một số lượng nào đó, khả năng
phản ứng chậm ngoài da
(delayed
skin reaction)
đối với chất tuberculin xuất hiện. Thường
là trong vòng
3-9
tuần sau khi bắt đầu nhiễm trùng lao.
Cùng lúc đó khả năng diệt vi khuẩn lao của thực bào cũng xuất
hiện. Những đặc điểm bệnh lý của lao là do mức độ quá
nhạy cảm
(hypersensitivity)
và mức độ kháng nguyên
(vi
khuẩn lao)
hiện diện tại chổ. Nếu lượng vi khuẩn lao nhỏ và tính quá
nhạy cảm cao của mô tế bào cao,
tổ chức của lymphocytes, thực
bào, Langhans giant cells, fibroblast, và những mao quản
(capillaries)
tạo thành mô hạt
(granuloma).
Những nơi này thành những u hạt cứng
(Ghon lesion)
hiệu quả tạo thành sự ngăn chận nhiễm trùng thành công của phản
ứng mô tế bào. Sự lành bệnh dẩn đến sự hóa sợi, gói lại
nhiễm trùng, và tạo ra vết sẹo. Nếu Ghon lesion nằm kế cận những
hạch bạch huyết cũng hóa vôi ở vùng rốn phổi sẻ tạo thành
hỗn hợp Ranke
Complex.
Khi số vi khuẩn lao và tính quá nhạy
cảm đều cao, những tế bào
dạng biểu mô
(epithioid cells) và
Langhans giant cells hiếm hoi hay thiếu hoàn toàn; lymphocytes, thực
bào, và những bạch cầu đa nhân trung tính
(granulocytes)
hiện diện ít có tổ chức. Và sự hoại tử
(necrosis)
mô tế bào xảy ra một phản ứng mô tế bào cho ra dịch dò rỉ
(exudative).
Nếu không có sự hoại tử xảy ra, những vết thương dò rỉ của mô
tế bào có thể lành lại hoàn toàn hay sự hoại tử mô tế bào có
thể kéo dài. Sự hoại tử trong bệnh lao có khuynh hướng không
hoàn hảo đưa kến kết quả những vật liệu nửa cứng nửa mềm
giống như phó mát. Môi trường hóa chất và nồng độ dưỡng khí
trong môi trường phó mát cứng có khuynh hướng ức chế sự sinh sản
của vi khuẩn lao. Tuy nhiên, sự hoại tử như phó mát không bền
vững, đặc biệt trong phổi, nơi có khuynh hướng làm lỏng ra và đưa
vào cuống phổi, tạo ra hang lao. Hang lao có những điều kiện về
dưỡng khí và chất dinh dưỡng giúp số lượng vi khuẩn lao sinh sản
nhanh. Những hang lao có số lượng vi khuẩn từ
10 triệu
đến
1
tỉ cho mỗi millilitre so với số lượng vi khuẩn trong những nơi như
phó mát chừng
100
cho đến
10
ngàn vi khuẩn trong
1
millilitre.
Những vật liệu tróc ra từ một hang lao tạo ra những trung tâm dò
rỉ mới ở những phần khác của phổi qua cuống phổi. Nếu chúng
ta cắt ngang một hang lao cho thấy phần kiểm soát nhiễm trùng từ
ít nhất đến hiệu quả nhất của phản ứng bệnh lý. Tại trung tâm
hang lao, có vô số vi khuẩn lao, được bao quanh bởi chất sền sệt
như phó mát chứa số vi khuẩn lao ít hơn. Lớp bên ngoài chất như
phó mát, chứa những thực bào và lymphocytes với những cơ cấu đơn
sơ nhưng vẫn có ít vi khuẩn lao hơn lớp chất như phó mát. Bên
ngoài của lớp này chứa những tế bào dạnh biểu mô
(epithelioid
cells)
và Langhans giant cells chứa số vi khuẩn lao thật thấp. Lớp bên
ngoài cùng, không có vi khuẩn lao có cơ cấu sự hóa sợi hoàn
toàn, gói kín hang lao.
Ở trong cơ thể những người bị nhiễm HIV, số lượng
CD4+ T cells
bị giảm nhiều, mức độ của tính quá nhạy
cảm rất thấp, phản
ứng mô tế bào không đặc sắc. Nó bao gồm một ít những bạch cầu
đa nhân và đơn nhân với số lượng khổng lồ của những vi khuẩn
lao. Nó được gọi là bệnh lao không phản ứng. Sự kiện này cũng
được thấy ở bệnh cùi.
Bất
cứ tính miễn nhiễm nào, theo sự nhiễm trùng tự nhiên hình như
được giữ bởi tính bền bỉ của những vi khuẩn lao sống được và
gia tăng trong cơ thể. Trong những người có thử nghiệm tuberculin
dương tính, những đáp ứng trong cơ thể tái hoạt động nhiều lần
và sự theo dỏi của
CD4+ T cells
giúp bao vây và giữ nhiễm trùng im lặng. Sự tái hoạt động của
monocytes với TNF-α chứ không phải interferon-γ, ức chế hiệu quả
nhất trong sự sinh sản của vi khuẩn lao. Trái lại, những sản
phẩm này đi theo sự khởi động về sinh học của yếu tố tăng
trưởng β được chuyển biến giúp sự sống còn và sự sinh sản của
vi khuẩn lao. Vì lý do này, vi khuẩn lao được tồn tại trong cơ
thể của loài người. Ở loài người, sự đáp ứng hiệu quả với vi
khuẩn lao theo khuynh hướng kiểu mẩu Th1
với sự xuất hiện một cách thuận lợi cho interferon-γ, interleukin-2
và
12
(IL-1 và
IL-12).
Khi thực
bào của những bệnh nhân lao đã được thành lập, gặp vi khuẩn lao,
chúng tạo ra cytokines làm biến đổi sự hoạt động của
CD4+ T cells.
Những tế bào này là căn bản cho hoạt động diệt vi khuẩn lao tốt
nhất. Những cytokines được tạo ra bởi thực bào như IL-1,
TNF-α,
và IL-6,
làm khởi động
CD4+ T cells và
cảm ứng sự tạo ra interferon-γ. Nhưng cũng chính những thực bào
tiết ra những cytokines giúp chuyển biến yếu tố tăng trưởng β và
IL-10,
làm
yếu đi sản lượng interferon-γ, ức chế sự sinh sản phôi bào của CD4+
cells, và
ngăn cản sự hoạt động của IL-12.
Vi khuẩn
lao
có thể ức chế sự sản xuất cytokines và ức chế sự phản ứng
của CD4+
T cells làm
ức chế tính miễn nhiễm. Điều này làm mất tác dụng của sự
kích thích của thực bào và giúp bệnh lao phát triển mạnh. Hai
yếu tố tăng trưởng và IL-10
giúp cho vi khuẩn lao tồn tại lâu dài trong cơ thể vì chúng làm
cơ thể con người tưởng rằng vi khuẩn lao là một bộ phận thuộc cơ
thể. Điều này cũng xảy ra trong bệnh viêm loét dạ dày do vi
khuẩn H. Pylori. Do đó hai bệnh này biến thành bệnh kinh niên
trong cơ thể con người.
Những kháng nguyên khác nhau của vi khuẩn lao giúp thống trị tính
miễn nhiễm con người được nhận ra là ESAT-6
và kháng nguyên
30kD (hay 85B).
nhưng những kháng nguyên giúp cho cơ thể con người có phản ứng
miễn nhiễm bảo vệ cơ thể vẫn chưa được biết. Hiện nay, người ta
chưa có những chất chỉ dấu (marker) hay thử nghiệm giúp nhận ra
tính miễn nhiễm bảo vệ của cơ thể con người khi gặp vi khuẩn
lao.
Phỏng theo bài Tuberculosis của Textbook of Lung Disease viết bởi
Philip C. Hopewell, MD & Midori Kato-Maeda, MD
BỆNH LAO ĐỀ KHÁNG THUỐC
Bệnh lao kháng thuốc đă được biết khi người ta phát hiện streptomycin trị
được lao vào năm
1946. British Medical Research Council (BMRC) thử
nghiệm trị lao chỉ với streptomycin. Sau vài tháng trị liệu, người ta bắt
đầu thấy hiện tượng vi khuẩn lao kháng thuốc này. Khi tôi đi thực tập tại
bệnh viện Hồng Bàng năm
1974, bác sĩ Trung đă cho chúng tôi biết tất cả các thuốc trị lao đều có
chỉ số kháng thuốc. Như INH đă là khoảng 1 trong 1triệu
hay 10 triệu vi khuẩn sẻ bị kháng thuốc. V́ lư do này, chúng ta phải trị
lao bằng hỗn hợp ít nhất là 3 loại thuốc khác nhau và kéo dài thời gian
trị liệu lên đến 2
năm để chắc chắn rằng không có sự tái phát.
Theo quan sát của tôi, sự kháng thuốc của lao đă xăy ra ở miền
Nam Việt
Nam do sự nghèo khổ. Một người mắc bệnh lao với đời sống khó khăn và vẩn
tiếp tục làm việc để nuôi sống gia đ́nh. Họ tiếp tục làm việc cho đến khi
nào bệnh phát ra nặng làm cho họ mệt mỏi không chịu nổi nửa, họ đi đến các
y tá trong xóm
(những
nhân viên y tế ít được đào tạo và thiếu những kiến thức điều trị lao)
mua vài mủi thuốc streptomycin và có thể vài viên isoniazid. Khi bệnh có
tiến triển khá hơn, họ ngừng điều trị v́ hết tiền. Mặc dù, bệnh viện Hồng
Bàng và các khu bệnh lao trực thuộc các bệnh viện chính ở các tỉnh thành,
chuyên trị về lao, trị thuốc miễn phí nhưng bệnh nhân phải theo điều kiện
trị liệu bắt buộc. Do đó, những người nghèo khổ sợ phải nằm lại trong
bệnh viện để điều trị cho đến nơi đến chốn. Hơn nửa, thuốc trị lao được
bán tự do trong các tiệm thuốc (pharmacy)
và ngoài chợ trời nên người bệnh nghèo khổ đă làm những việc đưa đến kháng
thuốc và lan truyền bệnh nhanh chóng. Tại Sài G̣n trước năm
1975,
khi phỏng vấn bệnh nhân
(trường
hợp bệnh gốc),
các nhân viên y tế cũng buộc tất cả những người sống chung trong gia đ́nh
và những người có liên hệ thân mật phải đi khám bệnh tại bệnh viện Hồng
Bàng hay các khu bệnh lao ở các tỉnh.
Mọi người tại miền nam Việt Nam trước năm 1975
biết là bệnh lao lây lan qua không khí nên người bệnh dấu diếm bệnh lao
của ḿnh v́ sợ nổi cô lập trong xă hội. Theo ư kiến của tôi đây là những
yếu tố đưa đến bệnh lao kháng thuốc và truyền nhiễm mạnh ở miền nam Việt
Nam trước năm
1975. Sự
giáo dục và thông tin về thuốc trị lao được phát miển phí do Tổ Chức Y Tế
Quốc Tế
(WHO)
của Liên Hiệp Quốc tài trợ không đến tai của người dân. Ngay cả tôi làm
bác sĩ điều trị lao tại Biên Ḥa, Việt Nam từ
1978-1979,
tôi cũng không biết là thuốc được phát do WHO tài trợ. Cho đến khi tôi
làm việc tại Winnipeg, Manitoba, Canada
vào
năm
1986, một
giám mục của khu vực St. Boniface hỏi tôi xin thuốc lao và cùi để họ giúp
đỡ người tại Việt Nam, tôi mới biết rằng các loại thuốc này ngay cả tại
Canada cũng được tài trợ bởi WHO.
Bệnh lao kháng thuốc đưa ra một thách thức rất to lớn cho sự kiểm
soát bệnh lao. Sự đề kháng với những thuốc chống lao có thể
hiện hữu trước khi khởi đầu trị liệu và do sự lan tràn của một
dòng M. tuberculosis đề kháng thuốc, hay thứ cấp, chỉ dấu sự
xuất hiện của sự đề kháng thuốc được ghi trên danh sách theo
sau. Những dòng đề kháng với ít nhất INH
(isoniazid)
và Rifampin (RMP) được định nghỉa như MDR. Những dòng đề kháng
với ít nhất INH, RMP, một fluoquinolone, và một aminoglycoside được
định nghỉa như XDR.
MDR: Multi Drug Resistance:
Đề kháng nhiều loại thuốc trị lao
XDR: Extended Drug Resistance: Đề kháng những thuốc trị lao và những
thuốc khác nữa.
Những Hoàn Cảnh Dịch Học Mà Một Người Bị Tiếp Xúc Là Bị Rủi Ro Gia Tăng
Của Nhiễm Lao Kháng Thuốc.
• Tiếp xúc với người bệnh lao kháng thuốc đă biết rơ
• Tiếp xúc với người có bệnh lao đang hoạt động mà họ đă có điều trị
trước đây nhưng thất bại và thử nghiệm kháng thuốc của họ chưa có kết
quả.
• Tiếp xúc với bệnh nhân có lao đang hoạt động trong vùng có tỉ lệ lao
kháng thuốc cao.
• Tiếp xúc những bệnh nhân có dương tính phết đàm sau 2
tháng trị liệu với hóa trị hỗn hợp.
• Du lịch trong những vùng có tỉ lệ cao bệnh lao kháng thuốc
|
WHO đã tường trình thường xuyên những tỉ lệ sự đề kháng thuốc
toàn cầu từ
1994.
Trong 93 nơi được điều tra trên thế giới, một tỉ
lệ khoảng gia tăng từ 1% trong năm 1999, 4.8% của tất cả những
trường hợp xảy ra trong năm 2006 đã là MDR. Những nơi có lao MDR
cao như Estonia, tỉnh Hồ Nam ở Trung Quốc, Latvia, và những vùng
Nga của Ivanovo và Tomsk, mà trong đó tỉ lệ quá 5%.
Những quốc gia với những trường hợp lao kháng thuốc lan rộng (XDR TB)
trong
tháng
12, 2006, và tháng 6, 2008
Mỹ
đă được xếp vào quốc gia có tỉ lệ lao thấp, mới đây đă được xếp lại
1·9% những trường hợp bệnh lao kháng thuốc MDR là bệnh lao kháng thuốc lan
rộng XDR. Sáu quốc
gia Phi Châu có thể thử vi khuẩn lao kháng thuốc, tất cả những trường hợp
được ghi chép của lao kháng thuốc lan tràn XDR. Nhiều điều tra những quốc
gia với bệnh lao lan tràn quanh năm như Trung Quốc đă không cho thấy
trường hợp nào của
bệnh lao kháng thuốc lan rộng XDR. Dữ kiện h́nh như đánh gía thấp sự thật
sự xuất hiện
của bệnh lao
này khắp thế giới.
Điều quan trọng trong việc ngăn chận lao kháng thuốc và bệnh lao không
kháng thuốc là sự chẩn đoán nhanh chóng mà hiện nay trong những quốc gia
như Canada và Mỹ đều có trang bị và huấn luyện tại từng tỉnh hay địa
phương lớn. Hệ thống cấy và thử sự kháng thuốc mới,
hiện nay,
có thể cho kết quả trong một tuần lể. Hệ thống này giúp sự quyết định trị
liệu và làm giăm sự lan truyền bệnh lao và nhất là bệnh lao kháng thuốc
MDR và bệnh lao kháng thuốc lan tràn.
Hiện nay, nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu
những thuốc mới để điều trị bệnh lao kháng thuốc.
Chúng ta đào tạo nhiều bác sĩ giỏi về trị lao vẩn không ngăn chận được
bệnh này. Thiết lập hệ thống y tế với đào tạo nhiều y tá công cộng
(public health nurses)
giỏi thay v́ đi chế thuốc ngừa BBG có quá nhiều khuyết điểm trong những
tiến tŕnh chế biến. Khi xử dụng BCG gây ra những sự phá triển yếu tố
tăng trưởng (growth factor) và interleukin-10
(IL-10) có thể làm ngăn chận sự phát triển các kháng thể
chống lại vi khuẩn lao. Điều này làm cho bệnh trở nên kinh niên. Hiện
nay người ta đang t́m cách chế biến ra những thuốc thử mới tránh được
những khuyết điểm của BCG. T́m cho ra những trường hợp gốc và giáo dục
cho người dân biết cách ngừa và tránh gây truyền nhiễm cho người khác.
Ngoài ra, ngăn ngừa bệnh lao c̣n là một đấu tranh lớn, với và của, các
lảnh đạo thế giới và từng quốc gia, đem lại cơm no áo ấm cho mọi người
trên thế giới. Chúng ta nên tránh những “tiến bộ” như từ thập niên
1980s cho
đến nay về vấn đề kinh tế thế giới và nạn ô nhiễm. Những điều này đưa đến
sự bóc lột tồi tệ và nghèo đói càng lúc càng trầm trọng. Bệnh lao sẽ t́m
cách phát ra những thể bệnh mà chúng ta có thể không chữa
trị được!
References:
1.
Tuberculosis, Wikipedia, The free Encyclopedia
2. Tuberculosis
Phillip C. Hopewell, MD
Midori Kato-Maeda, MD
Mason: Murray and Nadel’s Textbook of Respiratory Medicine, 5th Edition,
Copy right© Saunders
3. Mycobacterium tuberculosis
Daniel W. Fitzgerald
Timothy R. Sterling
David W. Hass
Mandell: Mandell, Douglas, and Bennette’s Principles and Practice of
Infectious Diseases, 7th Edition © Churchill Livingston
4.
Advances in Immunotherapy for Tuberculosis Treatment
Gavin J. Churchyard, MD
Gilla Kaplan, PhD.
Dorothy Fallows, PhD.
Robert S. Wallis, MD, FIDSA
Phillip Onyebujoh, MD
Graham A. Rook, MD
Bs Nguyễn Vĩ LIỆT
Viết xong ngày 24 tháng 2 năm 2014
|
|
|