GS
Nguyễn
Quang Tuyến
Nguyên
Giảng viên Khoa Tâm lý chiến
Trường Võ bị Quốc gia VNCH Đà Lạt
LÃO TRÊ THẮNG KIỆN
Truyện ngắn:
10-
Lão Trê
Thắng Kiện
Bốn
Ngồi bên bờ chằm, nghe tiếng ểnh ương kêu oàm oạp bên hàng
dứa rậm nơi rảnh nước ri rỉ chảy, lão Thoảng chợt nhớ đến
ông thầy Việt văn năm học lớp sáu. Chỉ học hết năm lớp sáu
là lão nghỉ học, nhưng vốn gốc nông dân chân đất, lão rất
thích giờ văn, thầy dạy thơ trinh-thử, trê cóc, ca dao…
Cũng như lão đối mặt với bà Bảy và mấy ông trong ban hòa
giải của xã, cóc khổ tâm biết bao khi nhìn thấy con mình bị
trê kia cướp đoạt…
Lão lẩm bẩm : “Nhưng có sao đâu! Của cóc vẫn là của cóc!”
Dù cóc có nghiến răng, trợn dộc đôi mắt muốn nổ tròng vì
không tranh luận lại với trê …
Mụ cóc chồm đầu ra bên rìa ao, trố mắt nhìn đàn con đỏ hỏn
nhởn nhơ bơi quanh lão trê đang vểnh râu, mắt lim dim. Ao
nước lớn hơn nền nhà, có đám cây vả nghiêng mình soi bóng,
làm khung cảnh thật êm đềm. Mắt mụ cóc mọng nước mắt, răng
mụ nghiến lại, cổ họng như khô khốc, co thắt. Mụ quay về
hang, hai chân sau đập bành bạch xuống đất, cáu gắt.
- Lão trê khốn nạn! Con của ta mà nó dám dành là con nó. Ôi
lũ con bé bỏng của ta, nó ngây ngô bơi ngời ngời quanh cái
hàm răng lởm chởm của lão Trê! Ôi, bầy nòng nọc bé bỏng của
ta!!
Mụ đưa hai bàn tay trước tí tẹo lên chùi liên hồi trên đôi
mắt lồi mọng nước. Mụ khóc. Mụ nghiến răng kìn kịt, hai chân
sau đạp mạnh, cái bụng phì phò phình ra trong tiếng òng ọc,
khùng khục. Mụ giận. Cái thằng cóc chồng vô tích sự, cứ lim
dim đôi mắt, đùn mấy lá dứa khô che thân, chống đỡ sự phẫn
nộ của mụ vợ.
- Ông đi với tôi đến gặp bác ễnh ương hỏi cho ra lẽ – Mụ tru
tréo.
- Phải thôi! Phải thôi! Con của mình phải là của mình, con
có đẻ có đau, của có mất có tiếc! – Phải thôi, phải thôi.
Chú nhái bén láu lỉnh, xanh lè, ngồi trên tàu lá dứa nói
chen vào. Vợ chồng nhà cóc phải đến gặp bác ễnh ương thôi.
- Bày chuyện, vô ích! – Con kiến mà kiện củ khoai, lão trê
vẫy vùng trong ao, coi như ao làng là nhà của riêng lão, ai
làm gì được lão! Vô ích. Anh chàng hiêu, mốc xì màu lá úa,
nằm bẹp dí trên cành khô ầm ừ những suy nghĩ cẩn trọng.
Vợ chồng cóc cùng nhái bén đến nhà ễnh ương. Lão ểnh ương bệ
vệ phình to bụng oàm oạp một tiếng như đánh trống khai tòa
phân xử. Mụ cóc vừa khóc, vừa nghiến răng tức tưởi.
- Ông coi, con tôi mà lão trê dưới chằm nước nó nói là con
nó!
- Thật bậy! Lão trê ngang ngược, hỗn xược, đi với ta! Ta
phải xử thằng này!
Lão ễnh ương cầm lá môn che dù, ì à ì ạch lê cái bụng tròn
trùng trục khệnh khạng bước xuống bờ ao. Ễnh ương hít một
hơi dài, gầm ba tiếng oàm oạp lấy uy – Lấy hai bàn tay trước
ngắn củn cỡn đập bành bạch xuống hồ:
- Bớ lão trê!, Bớ lão trê! Trả con cho mụ cóc.
Lão trê bơi sát bờ ao, làn da đen nhớt ánh lên sau cú vẫy
đuơi uốn vòng ngoạn mục.
- Con mụ cóc ở đâu, ta đâu có biết!
Mụ cóc chồm đầu tới thiếu điều rơi tỏm vào cái mồm hoác
rộng, xừng ria mép của lão trê:
- Đồ gian xảo! Đồ lừa lọc, bầy nòng nọc non dại của tao
quanh quẩn sau lưng mày kia kìa! Ôi, các con ơi! – Tiếng
nghiến răng trèo trẹo, tiếng khòn khọt trong cổ họng của mụ
vợ cóc, cùng tiếng phì phò của tay chồng cóc nhút nhát núp
sau lưng ễnh ương.
- Này, lão trê, theo lý thì nòng nọc là con của cóc! Ểnh
ương lên tiếng.
- Lý lẽ cái khỉ khô! Cá con bơi trong ao ông là con ông, cóc
bốn chân sống trên bờ làm gì có con dưới nước. Nằm trong ao,
quyền cho sống cho chết là của ông, vậy nó là con ông! Giỏi
thì xuống đây đòi con. Ông cho một cú táp là cắt đứt một
giò!
Lão trê nhảy cao lên, thả thân đánh bùng xuống mặt nước, lão
diệu võ dương oai!
- Nhưng nó là nòng nọc, là con của tui, tôi đẻ, tôi đau, tôi
biết! – Mụ cóc nhì nhằng.
Lão ễnh ương lờ đờ, trừng mắt nhìn bên nguyên cáo, bên bị
cáo rồi khục khặc trong cổ ra điều đang động não, suy tư
trong cái đầu trống rỗng:
- Trê có lý của trê, cóc có lý của cóc. Nếu là con của cóc
sao không sống trên bờ chồm hổm mà nhảy như họ nhà cóc mà
lại uốn éo bơi lượn quanh trê! Nếu là con của trê sao lại có
lúc nòng nọc đứt đuôi lên bờ làm cóc! Oằm oặp, thật là phức
tạp! Cần nghiên cứu! Cần nghiên cứu! Luật pháp ta không
thiếu gì, nhưng cần nghiên cứu thêm… nghiên cứu thấu đáo
thêm… Ta cần động não !
- Dẹp! Chẳng nghiên chẳng cứu gì hết! Trong ao ta là của ta,
nó là con ta. Ta có quyền sinh quyền sát! Ta hỏi ngươi coi,
có quyền gì quý hơn quyền được sống, muốn sống ta cho sống,
muốn ăn thì ta cho ăn, nó được sống như vậy là quý lắm rôi,
chẳng có quyền đòi hỏi gì cả. Còn muốn đòi hỏi quyền gì khác
thì bước ra khỏi cái ao này. Mụ cóc coi thử này :
Lão trê vểnh râu, há ngoác mồm ra bơi một vòng quanh bầy
nòng nọc bé tí, cả bầy nòng nọc con bị lão trê hớp vào đầy
cái hàm đỏ hỏn răng trắng xỉa lởm chởm của lão.
Lão khép miệng lại rít lên:
- Sao mụ cóc! Mụ muốn ta nuốt chửng cả bầy con này hay thả
nó ra! Kẻ có quyền giết, quyền tàn sát sạch mà chẳng sợ ai,
Ta chính là kẻ làm ra luật. Ta nói tụi này là con ta, có
được không? Làm gì nhau nào ? Nói nghe coi?
Mụ cóc đưa hai bàn tay nhỏ xíu bê bết nhớt lên đắp kín đôi
mắt lồi, run lẩy bẩy:
- Dạ phải, dạ phải, xin ông tha cho, nó là con ông. Đúng
rồi, đúng rồi, nó là con ông Trê!! Nó rất sung sướng, hạnh
phúc sống trong ao của ông ! Hu hu !
- Giỏi! Giỏi! Nhớ đấy, có ông ễnh ương và cô nhái bén làm
chứng; từ nay đừng có dở trò đòi con, đòi cái, đòi quyền
này, quyền nọ… .
Lão trê hoát mồm, nhổ toẹt bầy nòng nọc bơi ra khỏi cái hang
mồm đỏ hỏm của lão. Lão vễnh râu cười :
- Thấy chưa! Chỉ có con của trê, chỉ có có luật nhà trê, chỉ
có vinh quanh muôn năm của họ nhà trê, chúng mới thong dong
lội dọc, lội ngang trong hồ nước mát mẻ này.
Bầy nòng nọc trẻ thơ tự nhiên nhởn nhơ bơi lội mặc cho mẹ
cóc lã chã nước mắt và tiếng nghiến răng trèo trẹo. Chúng
đâu có biết buồn, chỉ thấy được nhởn nhơ trong vũng nước
quanh lão Trê mà ca, mà hát, mà nhảy múa là vui rồi ! Chúng
có biết gì đâu!
- Tòa đã xử đúng như sự việc! Đúng như lý luận! Con trê là
của trê. – Oằm oặp, lão ễnh ương trí thức mang cái bụng ỏng
ì ạch quay về hang để nghiên cứu luật pháp. Vợ chồng cóc
nhảy lên gò cao nhìn bầy con vui đùa, ca hát quanh lão trê
mà buồn nẫu ruột.
- Ông thấy chưa? Mụ cóc chì chiết. Đã bảo không đưa trứng
xuống ao lão Trê mà cứ bảo: “Có sao đâu, cóc con rồi cuối
cùng là con của cóc, ở đâu cũng vậy”. Rõ là đồ vô tích
sự, đất rộng sông dài, sao cứ phải ở riết cái góc chằm này?
Phải sinh con đẻ cái trong cái góc ao này để lão Trê vểnh
râu vẻ tròn bóp méo con cái chúng ta? Lúc nào ông cũng ca
cẩm tình quê hương, nơi chôn nhau cắt rún. Ông cứ sa sả bảo
tôi “Là người phải biết yêu quê hương, phải sống trên
mảnh đất mình, con cái phải được tắm gôi trong nền văn hóa
của dân tộc. Sống tha hương đâu còn có ý nghĩa gì?” Giờ
ông đã sáng mắt ra chưa?
Tay cóc chồng nổi giận xung thiên, nhưng chúi đầu tìm một
cái lá khô che mặt, im thin thít, làn da sần sùi có mấy vết
đỏ gạch. Nó quay đầu, xoải chân nhảy về hang. Cô nhái bén
nhỏ nhẹ:
- Chị à, trước mắt bây giờ tụi con chị là con của lão trê.
Trong hoàn cảnh của chị, tui mừng vui hơn là tức giận.
- Nó cướp con tui sao tui lại vui? Mụ cóc hỏi.
- Nếu lão trê chẳng thèm nói một câu, rỉ rả xơi tái con chị
thì chị làm gì lão? Đằng này lão có niềm vui bầy đàn, lão
vui vì quây quần bên lão có đông đúc lớp con, lớp cháu vây
quanh hoan hô cổ vũ. Lão muốn giết con nào mà chẳng được, ai
cản lão, chị nghiến răng chửi rủa thì làm được gì lão! Lão
có cái sung sướng của kẻ nắm quyền lực tối thượng trong cái
ao này. Con chị vẫn thoải mái vùng vẫy trong nước và vẫn mau
ăn chóng lớn. Sao chị không vui?
- Sống trong ao của lão trê, kề cận ngày đêm bên trê, do lão
dạy cho bơi, dạy cho hả mồm táp trái, táp phải, dạy cho tung
hô “muôn năm” theo cách của bầy đàn… Ôi, nó còn gì
tập tính của loài cóc. Chúng nó sẽ biến thành trê hết cô
nhái bén ơi.
Mụ lại khụt khẹt khóc. Nhái bén hết lời khuyên nhủ và kéo
chị cóc về, vì trời đã về chiều bóng tối lên cao dần và dưới
ao chỉ còn vọng lên tiếng lập bập của lão trê táp nước.
- Chị cóc ơi, trời tối rồi, về hỏi bác chàng hiêu xem có
cách gì không.
Mụ cóc nặng nề nhảy về hang cùng nhái bén. Chàng hiêu, được
tiếng là “cập thời vũ”, lim dim mắt nằm dán mình trên
một nhánh cây mua bông tím. Tay chân dài lèo khèo, chàng
hiêu vòng tay lại gối đầu lên, chậm rãi nói bâng quơ:
- Trước khi chị cóc đi tôi đã bảo, kiện thì có ích gì, chỉ
vỗ mập cái lũ thầy cãi, quan tòa… Chậc, có gì thay đổi đâu?
Ôi thôi động vào lũ quan quyền, chỉ tổ nuôi béo chúng!
- Tức lắm bác à! Cả bầy con của tôi cứ nhởn nhơ bơi lượn
quanh lão, quanh cái mồm đầy răng sắc nhọn, quanh hàng ria
đen óng của lão trê. Tức lắm! Mụ gầm lên, răng nghiến trèo
trẹo… làm trời đất như căng cứng mây đen và các lằn chớp
liên hồi… Trời cũng muốn mưa!
- Thế chị cóc mất cái gì? Chàng hiêu chậm rãi hỏi.
- Thì bác biết, em mất cả bầy con, mất chỗ rìa nước em ấp
cho chúng nở… Coi như em mất con, mất cái, mất cả quê hương,
mất tất cả!
- Vậy lão trê được gì nào?
- Lão chiếm ao nước, lảo chiếm bầy con trẻ, lão cướp hết cả
quê hương và cả gia đình em… khổ thân em.
- Lão còn đòi nhai nháo nhào cả bầy nòng nọc đỏ hỏn của chị
cóc – Chị nhái bén xen vào.
Trời như lác đác có vài hạt mưa mát rượi lộp bộp trên mấy
tàn lá dứa gai. Đám lá rún rẩy lên xuống như lũ trẻ đùa
nghịch trần truồng tắm mưa bên hiên nhà. Bác chằng hiêu nhỏ
nhẹ :
- Thật ra thì chị cóc tức vì quyền lực của lão trê vùng vẫy
trong ao nhà của chị, hay giận vì chị bị cướp mất con? Lịch
sử đời nhà cóc đã bao năm tháng, theo tự nhiên, thì đẻ khô
nở nước, đứt đuôi con nòng nọc thì thành cóc con, có gì lạ
đâu mà tranh kiện hử? Kẻ đáng thương là lão Trê chứ không
phải là nhà họ cóc!
- Tui bị cướp con, cướp nhà mà bác lại bênh lão trê. Mụ cóc
bù lu bù loa rướn cổ lên gầm.
- Lão Trê đáng thương ở chỗ: Lão tham quyền lực mà mau quên.
Trong lịch sử có bao biết nhiêu bài học cho kẻ mới nắm quyền
mà đã tham quyền cố vị thì chẳng tồn tại được bao lâu. Lão
không còn nhớ, đây đâu phải là lần đầu khi lão ôm một bầy
nòng nọc đỏ hỏn xun xoe, vui sướng, nhảy cỡn lên mà la lối
khoe khắp nơi đây là con của lão. Theo ngày tháng, đám trẻ
sẽ trưởng thành, nó sẽ hiểu đâu là sự thật, đâu là những
điều dối trá, lừa bịp. Rồi chúng sẽ lú hai chân đỏ hồng như
hai hạt gạo dưới đuôi của bầy con lạc dòng này, lão giận
đời, lão mắng chửi cái lũ phản bội, cái lũ vong ân bội
nghĩa, “tại sao con lão lại có chân?” Lão càng chửi
thì chân bầy con lại càng dài thêm ra, lại mọc thêm hai tay
trước… rồi một ngày, chúng lặng lẽ đứt đuôi, chúng nhảy tót
lên bờ… lão cặm cụi ghi vào biên niên sử đời lão: “Bọn
phản động, bọn vong bản ! Lại đứt đuôi con nòng nọc…
Chúng nó, bọn vong ân, bội nghĩa đã đào thoát…”
Rồi lão lại quên tất cả, lão lại sẳn sàng tay đôi với mụ cóc
khác, đấu tranh đến cùng để giành quyền làm cha một bầy nòng
nọc mới… Chị cóc không thấy vậy là đáng thương sao ?
Lão cứ thích đi ngược lại qui luật của đất trời, lão cứ tự
vạch ra qui luật của mình và buộc tất cả phải phục tùng lão.
Lão muốn mọi người phải nhớ lịch sử của lão, còn lão thì
muốn quên béng mọi sự thật và lịch sử khách quan khác, là đã
từng có những bầy con hờ của lão mọc chân nhảy lên bờ.
Trời chiều tháng ba, sau mùa gặt sớm, đồng quê ngan ngát
hương lúa chín còn đọng lại nơi hốc cây ngọn cỏ, chỉ chờ cơn
gió dìu dịu lùa qua là hương lúa chín lượn lờ thơm mượt mà
cả lối nhỏ vào xóm. Cơn mưa giông chưa tới, một lớp váng mây
chì ôm sát dãy Trường Sơn, một sợi mây hồng mỏng manh ôm sát
viền đen sậm, thoảng hoặc chợt lóe lên những tia chớp ngoằn
ngoèo đi sau là tiếng ì ầm như tiếng rên nặng nề của các
tảng đá dựng trên đỉnh cao. Lũ cóc, ễnh ương, nhái bén bên
chằm nước thi nhau nghiến răng trèo trẹo, thi nhau oàm oạp
như phẩn nộ gìùm cho sự bất công mà mụ cóc gánh chịu; hay
chúng đánh trống thúc trận cho lớp mây chì và tiếng thần
công ầm ì của hùng binh nơi xa xa hãy gấp rút lùa mưa về tắm
gội nắng hạ tháng ba.
Đầu này, đầu kia chằm nước và mấy thửa ruộng trơ gốc rạ, đám
sinh vật đủ loại, trong hốc trong hang, trong bờ cỏ cho đến
con niềng niểng ôm sát gốc bèo ở đáy chằm cũng trồi đầu lên
quơ quơ đôi càng răng cưa mà kêu như rên âm thanh: “Kít
kít… kít kít”
để hòa trong dàn đại đồng ca chờ mưa giông mùa nắng hạ.
Rồi tiếng sấm ầm ì chạy lùa cùng đám mây đen dần đến gần,
nghe như trên bầu trời có nhiều cái trống chầu từ núi lăn
xuống bể, vừa lăn vừa thúc trận ầm ầm kèm theo chớp và tiếng
sấm sét đâu đâu. Sau đoàn quân, tiếng sấm trời hùng hổ, là
vẻ ẻo lả dịu mát của cơn gió lùa đến trong khi cả trời đất
như khựng lại, căng tròn, chỉ chực chờ nổ tan… Chút gió mát
mơn man vuốt ve cơn giận dữ căng cứng của đất trời, hòa nhịp
với gió là ngàn vạn tiếng rối rít của muôn loài, vỡ òa ra…
rồi khắp nơi nơi mưa đổ sầm xuống, mưa ôm chầm lấy mặt đất,
mưa không còn là hạt nước mỏng manh nữa, mà như là tấm vải
nước trắng xóa phủ xuống ôm kín sự hoan lạc tột độ của đất
trời.
Như một tiếng thở dài khinh khoái tuôn chảy từ đỉnh cao của
núi đến tận chân trời biển đông; vẫn còn những tiếng gầm ầm
ừ từ tận đỉnh phía tây nhưng là tiếng ầm ầm mãn nguyện của
núi xanh vì đã hoàn tất việc xua mây đen phủ trắng xóa đất
trời.
Mụ cóc ướt đẫm nước mưa và chen lẫn nước mắt. Trước mắt mụ,
chằm nước sáng lên trong các lằn chớp, sau đó là hàng vạn
bong bóng nước phập phò trong cơn mưa giông. Mụ mãi tắc lưỡi
xót xa nghĩ đến đám con sợ hãi quây quần quanh lão trê vì
chúng lạ lẫm trước cơn mưa đầu đời. Ông chằng hiêu, liên tục
đưa đôi tay vuốt đôi mắt long lanh nước:
- Bà cóc à, thôi đừng khóc nữa. Có ích gì?
- Ông đâu có mất con, ông đâu có xót! Mụ cóc cằn nhằn.
- Người ta cứ mãi khổ tâm vì rằng mình mất đi một cái gì.
Đây là chuyển tiếp chứ không phải là mất mát. Hoa rụng có
phải là mất đi không? Đâu có mất, trái cây là đích đến của
cánh hoa. Lịch sử là vậy, cái này đang thay thế để hình
thành một thực tại tốt đẹp hơn. Hiện tại thối rửa ta càng
mừng vì nó đã khởi đầu cho một mầm xanh mới ; nếu hạt thóc
không thối rã thì đâu có chỗ cho sự nảy mầm của một đồng lúa
xanh!
Mụ cóc đập bành bạch chân trước xuống đám lá khô ủng nước;
cổ họng mụ giật liên hồi:
- Tôi không cần biết mai sau nó thế nào! Tôi đang than khóc
cho bầy con nòng nọc đỏ hỏn của tôi! Trời ơi, bầy con tui.
- Thật là đàn bà! Vậy khi bầy con mụ nó rụng đuôi nhảy lên
bờ thì mụ nghĩ lão Trê sẽ ra sao? Lão đang huyênh hoang ôm
sự tàn lụi, sự thay đổi từ bản chất, vậy thì lão vui sướng
nổi gì?
- Vậy bao giờ con tui mới là con tui?
- Lão Trê thắng, bà Cóc ơi, hãy chịu đựng nỗi khổ trước mắt,
hãy vui lòng trước cảnh trái tai gai mắt, nhìn những gì thân
thương nhất của mình quẩn quanh bên kẻ ngang ngược. Bà hãy
để cho thời gian nó làm tròn cái sứ mệnh tất định của nó, là
đưa mọi sự tồn tại về đúng với qui luật tự nhiên. Chẳng ai
có thể ngu ngốc nóng lòng đập vỡ quả trứng gà lộn để lôi gà
con bé bỏng ra mà nuôi nấng; Hãy để cho chú gà con có đủ
thời gian. hãy để thời gian hoàn tất sứ mệnh của nó: Khi
thời điểm đến, chú gà sẽ tự xé toạc vỏ trứng và bước vào
đời ; bầy nòng nọc sẽ lú chân trước, chân sau, cắt đứt cái
đuôi quá khứ mà nhảy lên bờ. Lúc bấy giờ nó là cóc, nó có
cuộc đời của cóc, nó bỏ lại sau lưng hàng triệu điều lừa mị
của trê, bỏ lại sau lưng cái môi trường sống óc ách nước của
lão Trê, bỏ lại sau lưng hàng ngàn nền giáo dục bơi kiểu này
kiểu nọ của ông bố Trê đã ghè đầu dạy dỗ. Măc cho lão Trê
huyênh hoang thắng kiện. Bầy cóc con bỏ lại sau lưng tất cả
thứ quá khứ bệnh hoạn đó để bước vào một cuộc đời mới đúng
bản chất tồn tại của mình. Xin nhớ cho, mọi biến chuyển, mọi
đổi thay từ trong mỗi sự vật đều có tiếng nói nhò nhẹ của
thời gian.
Bà cóc nghĩ sao? Lúc ấy bà có nhảy ra nhận họ hàng, nhận mẹ
con với chúng được không? Hay bà sẽ mãi thút thít ca cẩm
cảnh mang nặng đẻ đau của bà để chỉ bảo cho lũ cóc con cách
sống sao cho giống bà, cho phải đạo đất trời kiểu của bà?
Không đâu bà cóc, nó bung ra như các tia pháo hoa, cả bầy
cóc con sẽ nhảy tung khắp nơi và tìm cách sống, tìm thấy cái
đúng, cái hay, cái cách kiếm sống theo bà mẹ thiên nhiên vĩ
đại đã đánh dấu trong mã di truyền của chúng. Dưới ánh sáng
mặt trời, cái quý nhất của mỗi sinh vật là quyền tự do sống,
quyền được tự do làm chủ định mệnh của mình. Bầy con bà sẽ
như vậy, bà và lão trê sẽ không có thể nào cản trở được bầy
con của đất trời được.
Mụ cóc lặng im khi bóng đêm tràn về, mụ suy ngẫm những điều
ông chàng hiêu giảng giải với mụ. Nhái bén hổn hển xen vào.
- Ông ơi, vậy phải thản nhiên chờ đợi sao ông?
- Không phải thản nhiên chờ đợi, mà thản nhiên sống như đang
sống, không thể mỏi mòn chờ, hay hấp tấp hối thúc cho bầy
nòng nọc sớm đứt đuôi được!
Mụ cóc chậm rãi nói như tiếng thở dài :
- Phải đó bác chàng hiêu ạ, tui cũng phải biết lắng nghe
tiếng thời gian trở mình trong chằm nước; từng khắc từng
ngày đêm… bầy con tôi đang trở mình, đang biến chuyển…và rồi
Lão trê cũng chỉ còn là giai đoạn tối tăm của lịch sử chằm
nước này.
Ông chàng hiêu hạ giọng trầm trầm:
- Lão trê tự cho mình là tất cả, lão không lý đến sự trở
mình và biến chuyển chung quanh lão, lão đã tự hạ huyệt cho
mình giữa cuộc sống, trong chằm nước mát lạnh.
oOo
ĐÓN XEM
PHẦN 10 - Bốn: Lão Trê Thắng Kiện
GS
Nguyễn
Quang Tuyến
Nguyên
Giảng viên Khoa Tâm lý chiến
Trường Võ bị Quốc gia VNCH Đà Lạt
www.ninh-hoa.com |