|
|
|
HỒ XUÂN HƯƠNG
Nếp Sống Hiện Sinh
Lê
Phụng
|
Quyển 1
Kỳ 8:
II
Trong cu ộc
sống hàng
ngày, tự
do của con người, theo Jean Paul Sartre bị
giới
hạn v́
sự
bất lực của con người.
Jean Paul Sartre viết16:
Je ne suis « libre » ni d’echapper au sort de ma classe,
de ma nation, de ma famille, ni même d’édifier ma
puissance ou ma forrtune [...] Encore faut-il « obéir à la
nature pour la commander », c’est à dire insérer mon
action dans les mailles du déterminisme.
Ti ếp
theo Jean Paul Sartre
đưa
ra
ẩn dụ17:
Le coefficient d’adversitivité des choses, en particulier,
ne saurait être un argument contre notre liberté, car
c’est par nous, c’est à dire par la position
préalable d’une fin, que surgit ce coefficient
d’adversité. Tel rocher, qui manifeste une résistance
profonde si je veux le déplacer, sera, au contraire, une
aide précieuse si je veux l’escalader pour contempler le
paysage.
Tr ở
lại thơ
Hồ
Xuân Hương,
người
đọc thấy dựng
như
để nối tiếp tinh
thần
vị
tha
hằng
có
trong văn
học
Việt Nam của Ôn Như
Hầu
Nguyễn Gia
Thiều
nói ra nỗi cô đơn
của
người cung nữ trong cuốn Cung Oán Ngâm
Khúc, cũng
như
Chinh Phụ
Ngâm của Đặng Trần Côn và
bản
dịch của
Đ oàn
Thị
Điểm, kể tâm sự của người vợ lính thởi chinh chiến, Hồ Xuân
Hương
viết
bài
:
Đồng Tiền Hoẻn
C ũng
ḷ cũng
bễ cũng cùng
than
M ở
mặt vuông tṛn
với
thế gian
Kém c ạnh
cho nên
mang tiếng
hoẻn
Đủ dồng ắt củng đáng n ên
quan
để nói l ên
cảnh
đáng thương
của
ngưới con gái nghèo.
Bài thơ
như
cùng một
đề tài
với
áng thơ
Bần
Nữ Thán
quen thuộc
trong văn học đại chúng.
R ồi
tới bài:
T hân
Phận
Người Đàn
Bà
H ỡi
chị em ơi
có biết
không
M ột
bên
con khóc một
bên
chồng
B ố
cu lổm
ngổm ḅ
trên bụng
Th ằng
bé hu hơ
khóc dưới
hông
T ất
cả chỉ là
thu với
vén
V ội
vàng
nào những
bế cùng
bồng
Ch ồng
con cái nợ
là
như
thế
H ỡi
chị em ơi
có biết
không.
Bài th ơ
tŕnh bày cảnh
làm
vợ
và
làm mẹ.
Người chồng giành
phần
chồng,
con giành phần
con. Người vợ chỉ c̣n
cách
thu với
vén,
người
mẹ chỉ c̣n
việc
bế
với bồng.
Người
đàn
bà làm vợ
và
làm mẹ
trong bài
thơ
không c̣n
t ự
do
cho chính ḿnh.
Đằng khác h ́nh
ảnh chồng con trong bài
thơ
của
Hồ
Xuân Hương
gợi
cho
người
đọc
câu ca dao quen thuộc18:
Đươ ng
khi bếp
tắt cơm
sôi
Con ng ồi
khóc đói chồng đ̣i
ṭm tem
Bây gi ờ
bếp đă
cháy lên
C ơm
đà
sắp
chín ṭm
tem th́ ṭm.
và ph ải
chăng chính v́
những
h́nh
ảnh trong câu ca dao này
mà người
đọc
thơ
thấy
là
cảnh
chồng con đối với người thơ
mà chỉ
là
những
thực cảnh
trong
đời sống hàng
ngày cũng
vẫn c̣n
những
giở phút đáng vui sống
Hồ
Xuân Hương
c̣n viết
về thân phận người đàn
bà trong cảnh
:
Làm L ẽ
Chém cha cái ki ếp
lấy chồng chung
K ẻ
đáp chăn
bông kẻ
lạnh lùng
N ăm
th́ mười
họa nên
chăng
chớ
M ột
tháng đôi lần có cũng không
C ố
đấm ăn xôi xôi
lại
hẩm
C ầm
bằng làm
muớn
mướn không công
Thân này ví bi ết
dường này
nhỉ
Thà tr ước
thôi đành
ở vậy xong.
Bài th ơ
dường
như
chỉ
muốn mô tả cảnh làm
lẽ.
Cả sáu câu đầu đều mô tả
cảnh
làm
lẽ,
hai câu cuối cùng
tỏ
ư tự trách ḿnh
trước
khi đi làm
lẽ
đă
không biết
tới nỗi cơ
cực
của người làm
lẽ,
để ngày
nay không c̣n cách nào khác cứu
văn
một
quyết định trong quá khứ, ngoài
việc
than văn.
Bài thơ
không có một
lời cho hay ư định của ngưởi làm
lẽ
trước hiện cảnh sẽ xử
sự
ra sao, ngoài
lời
chửi bới cảnh làm
lẽ
trong câu thứ hai.
Có m ột
thời nhiều người đă
căn
cứ
vào
ba bài thơ
trích dẫn
trên
đây
để kết
luận
là
Hồ
Xuân Hương
là người
tranh đấu cho nữ quyền hay, xa hơn
nữa,
muốn
đả phá tệ đoan đa thê.
Nhưng
nếu
nh́n
theo quan
điểm
tự do của Jean
Paul Sartre, người
đọc thơ
chỉ
thấy nội dung ba bài
trích dẫn
trên
đây
dường
như
gợi
lên
cái thế
bất lực của người trong thơ
không c̣n cách nào làm thay
đồi hoàn
cảnh
của ḿnh
hay thay
đổi chính bản thân ḿnh.
Trở
lại
ba bài thơ
trích dẫn
trên
đây,
không có lời
nào
bày tỏ
ư muốn cũng như
hành
động của người trong cuộc muốn
ra khỏi
cảnh
kém cạnh
của
Đồng
tiền
Hoẻn, cảnh
những
thu cùng
vén, những
bế cùng
bồng
của
cảnh làm
vợ
làm mẹ
và
cảnh
làm
lẽ
ăn
xôi hẩm
và
làm mướn
không công.
Phải
chăng,
trong những
hoàn
cảnh
của người thơ
trong ba bài trích dẫn
trên
đây,
tự
do
lựa
chọn
với
người thơ
chỉ
c̣n
tự
do than thở?
Người
thơ
viết
thành
thơ
c̣n có người
nghe, người đọc. Phải chăng, cảnh đó c̣n
hơn
cảnh
người
lính thú trong bài ca dao Lính Thú
Đời Xưa:
Nh ững
giang cùng
nứa
biết lấy ai bạn cùng.
Ph ải
chăng trong hoàn
cảnh
của người tự ví ḿnh
với
Đồng Tiền Hoẻn,
người
sống trong Thân Phận Người Đàn
Bà và trong cảnh
Làm
Lẽ,
chữ tự
do quả
khác với lời Jean Paul Sartre
19:
« Être libre » ne signifie pas « obtenir ce qu’on a voulu
», mais « se déterminer à vouloir (au sens large du mot)
par soi-même ».
Gi ới
nghiên
cứu
thường dẫn chứng một câu mà
Jean Paul Satre viết
trên
báo Les Lettres Francaises số
phát hành
vào tháng chín năm
1944, do ông cùng Louis Aragon và Jean Paulhan chủ
trương,
như
sau
20:
Jamais nous n’avons été plus libres que sous l’occupation
allemande.
Trong cu ốn
L’Être
et Le Néant, ông tự
hỏi21:
Ôtez la défense de circuler dans les rues après le
couvre-feu et que pourra bien signifier pour moi la
liberté (qui m’est confiée par exemple, par un sauf
conduit) de me promener la nuit?
Nh ư
vậy,
hoàn
cảnh
không đóng khung được tự do; hoàn
cảnh
cho thấy
giới
hạn mà
khi vượt
qua giới hạn đó là
có tự
do. Đó là
sự
tự do chọn lựa và
tự
do thực hiện điều ḿnh
lựa
chọn.
Trong s ự
tự do lựa chọn và
hành
động này,
Jean Paul Sartre nhấn
mạnh là
sự
lựa chọn phải đồng nhất với hành
động và
như
vậy
có sự khác biệt giữa
ư
đồ
và
hành
động.
Jean Paul Sartre
đưa
ra thí dụ
một
tù nhân. Tù nhân không
đuợc
tự do ra khỏi khám, cũng như
không phải
lúc nào
cũng
có thể
vượt
ngục được. Nhưng
tù nhân có thể
luôn luôn nghĩ tới và
thực
hiện mọi
mưu
toan
để được ân xá hoặc phóng thích.
Tr ở
lại ba bài
thơ
trích dẫn
của Hồ Xuân Hương,
thở
than cùng
người
đă
giúp cho kẻ
sống trong cảnh
kém cạnh
của
Đồng Tiền Hoẻn, thấy ḿnh
nh́n lên th́ chẳng
bằng ai, nh́n
xuống
cũng chẳng có ai bằng ḿnh,
để
người
sống
với
những vất vả của Thân Phận Đàn
Bà cũng
không nản ḷng
chiều
chồng thương
con,
và người
sống trong cảnh Làm
Lẽ
cũng có lúc
thấy
ḿnh
không phải
là
tấm
phản gỗ long đanh?
Phải
chăng than thở như
vậy
giúp
cho người
trong cảnh Đồng Tiền Hoẻn, trong cảnh làm
vợ
làm
mẹ,
hay trong cảnh làm
lẽ
thấy kiếp sống bớt nặng nề. Nhưng
phải
chăng cả
ba người
không ai có ư đồ cũng như
không ai có hành
động đi ra khỏi cảnh
sống
trói buộc? Như
vậy,
phải chăng cả ba người cùng
không sống
tự do,
theo
định nghĩa chữ tự do của Jean paul Sartre?
Đằng khác, thời Hồ Xuân Hươ ng,
thời
Lê
mạt
Nguyển sơ,
thời
chưa
có những
phong trào
xuống
đường,
hô khẩu
hiệu, đả đảo, ủng hộ, một người
nữ
làm
thơ
nói lên t́nh cảnh
của giới phụ nữ,
dầu
chỉ để thở than cho vợi
nỗi
buồn, phải chăng đó đă
là hành
động đáng khâm phục của một người
yêu chuộng
tự do và
dám hành
động tự do?
16 Jean Paul Sartre, L’Être et le Néant, sách
đ ă
dẫn, p. 526
17 Jean Paul Sartre, L’Être et le Néant, sách
đă
dẫn,
p. 327
18 Nguy ễn
Văn Ngọc, Tục Ngữ Ca Dao, quyển 2, Cơ
Sở
Xuất Bản Sống Mói, tái bản tại Hoa Kỳ, 1997,
tr. 96.
19 Jean Paul Sartre, L’Être et le
Néant, sách đ ă
dẫn,
p.
528.
20 Jean Paul Sartre, Situation III, Gallimard, Paris, 1949,
p.11
21 Jean Paul Sartre, L’Être et le Néant, sách
đă
dẫn, p. 531
Xem Kỳ 9
LÊ
PHỤNG
www.ninh-hoa.com |
|
|
|
|
|