
Trước
tiên khi nói về nghệ thuật ca trù th́ ca trù có nhiều tên gọi, tùy từng
địa phương, từng thời điểm mà hát ca trù c̣n gọi là hát ả đào, hát cửa
đ́nh, hát cửa quyền, hát cô đầu, hát nhà tơ, hát nhà tṛ và hát ca công.
Đây là một loại h́nh nghệ thuật có từ lâu đời, độc đáo và có ư nghĩa đặc
biệt trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, gắn liền với lễ hội, phong tục,
tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lư sống của người Việt.
Ca trù là một h́nh thức “ca nhạc thính pḥng”, thịnh hành từ thế
kỷ 15, vốn là một loại ca nhạc trong cung đ́nh, được sử dụng cho
các buổi hát chúc thọ vua chúa và các buổi lễ trong triều đ́nh,
qua thời gian, ca trù dần dần phát triển rộng ra dân gian qua
giới quan lại, đại gia, một số tầng lớp sĩ phu nho học giàu
sang… và trở nên thông dụng. Tuy vậy ca trù khác với các loại
h́nh dân ca khác ở chỗ nó có yêu cầu rất nghiêm ngặt quy định về
số câu, số chữ, lời văn, quy định về đối ngẫu … có lẽ v́ vậy mà
ca trù vẫn được thưởng thức tập trung phần lớn ở tầng lớp có học
thức cao rộng trong xă hội xưa.
Chữ trù có nghĩa là thẻ tre. Những người đào hát thường dùng các
thanh tre làm phách khi hát và người nghe dùng “trù” (cái thẻ
tre) để thưởng cho những chỗ hát hay, cuối cùng đếm thẻ để b́nh
giá và thưởng tiền, v́ thế mà có tên gọi là Ca trù. Tư liệu sớm
nhất có nói đến những chữ Ca Trù và Ả Đào là vào thế kỷ XV, căn
cứ vào bài thơ Nghĩ hộ tám giáp bài văn thưởng cho cô đào được
giải sáng tác trước năm 1500 của Tiến sĩ Lê Đức Mao, người làng
Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Bài thơ này chép trong Lê tộc
gia phả (A.1855) có hai lần nhắc đến 2 chữ ca trù, cho biết: hát
cửa đ́nh là hát để thờ thần trong dịp đầu xuân và việc hát ca
trù đă có dùng thẻ để thưởng cho đào nương (ả đào). Như vậy,
đ́nh Đông Ngạc, Hà Nội là nơi diễn ra lệ hát Cửa đ́nh từ rất sớm.
Và đây cũng là nơi ǵn giữ được tục lệ thưởng đào rất đặc sắc.
Nghệ thuật ca trù được quốc tế công nhận:
Ca trù đă được Hội đồng thẩm định di sản của UNESCO đánh giá như sau:
Ca trù đă trải qua một quá tŕnh phát triển ít nhất từ thế kỷ 15 đến
nay, được biểu diễn trong không gian văn hóa đa dạng gắn liền, ở nhiều
giai đoạn lịch sử khác nhau. Ca trù thể hiện một ư thức về bản sắc và sự
kế tục trong nghệ thuật biểu diễn, có tính sáng tạo, được chuyển giao từ
thế hệ này sang thế hệ khác thông qua các tổ chức giáo phường. Những
giáo phường này đă duy tŕ các cộng đồng có quan hệ mật thiết, tạo nên
nét đặc trưng cho ca trù. Mặc dù trải qua nhiều biến động lịch sử, xă
hội nhưng ca trù vẫn có một sức sống riêng bởi giá trị nghệ thuật của nó
đối với văn hóa Việt Nam.

Ca trù độc đáo ở không gian nghệ thuật riêng, nhạc cụ và
thể thơ riêng biệt. Theo các nghệ nhân dân gian, ca trù có 56
thể thức hoặc giai điệu khác nhau, mỗi loại này được gọi là thể
cách. Kỹ thuật hát rất tinh tế, công phu như thể ca sĩ nắn nót,
trau chuốt từng chữ. Nhạc cụ được tinh giản với sự tương phản âm
sắc đă làm tôn vẻ đẹp của từng thành phần tham gia hoà tấu.
Tham gia biểu diễn ca trù có ít nhất 3 người:
Một ca sĩ luôn là nữ (gọi là “đào” hay “ca nương”) hát theo lối nói
và gõ phách lấy nhịp (phách là một nhạc cụ làm bằng gỗ hoặc tre, được
gơ bằng 2 que).
Một nhạc công nam giới (gọi là “kép”) đệm đàn đáy cho người hát. Đán đáy
là một loại đàn cổ, dài, với 3 sợi dây tơ và 10 phím đàn.
Ngoài ra, c̣n có một người chơi trống hoặc đánh trống chầu (gọi là “quan
viên”, thường là tác giả bài hát). Sự tán thưởng mà “quan viên” dành cho
người hát, hoặc bài hát được biểu lộ qua cách đánh trống. “Quan viên”
đánh vào thành trống nhiều lần biểu lộ chỗ đắc ư. Nếu không hài ḷng với
người hát, “quan viên” đánh hai nhịp trống.
Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang
hai bên. Không gian tŕnh diễn ca trù có phạm vi tương đối nhỏ
và sự tham gia từ phía khán giả là rất cần thiết. Hát ca trù là
nghệ thuật hát thơ, có một hệ bài bản phong phú quy định cho
từng lối hát thờ, hát chơi và hát thi. Lời lẽ, ca từ của ca
trù mang tính uyên bác, ít lời mà nhiều nghĩa, giàu
chất thơ, mang nhiều cảm xúc, trầm ngâm, sâu lắng. Ca trù
có đủ các thể loại từ trữ tình lãng mạn đến sử thi
anh hùng, triết lý giáo huấn… đã thu hút sự tham gia
sáng tác, thể nghiệm tài năng của nhiều văn sĩ và trí
thức. Có hiểu thấu nội dung và nghệ thuật ngôn từ trong các bài
ca cùng sự biểu hiện tinh tế của các ca nữ trong sự phối hợp
nhịp nhàng với ngón đàn, khổ phách… mới thấy hết vẻ đẹp và giá
trị của loại h́nh nghệ thuật này.
Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, đến giữa năm 2009 có 63
câu lạc bộ với khoảng 769 người (bao gồm 513 đào nương và 256
kép đàn và người đánh trống chầu) ở 14 tỉnh, thành phố (Hà Nội,
Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Pḥng,
Thái B́nh, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng B́nh, TP.
Sài G̣n) trên cả nước có hoạt động thường xuyên và có kế hoạch
luyện tập truyền nghề ca trù. Tuy nhiên, số nghệ nhân có thể hát
được từ 10 làn điệu trở lên là rất hiếm. Tại Viện Âm nhạc hiện
đă lưu trữ được 7 điệu múa ca trù và 42 bài bản ca trù. Các văn
bản Hán Nôm về ca trù là 26 bản và khoảng 25 cuốn sách về ca trù.
Ca trù được công nhận là đă có đóng góp lớn vào văn hóa Việt
Nam. Từ ca trù, một thể thơ độc đáo ra đời và trở nên có vị trí
sáng giá trong ḍng văn học chữ Nôm của dân tộc. Đó là thể thơ
hát nói, được ưa chuộng qua nhiều thế kỷ. Ngoài ra, đàn Đáy và
Phách đă trở thành những nhạc khí đặc trưng của ca trù, góp phần
đưa ca trù trở nên một thể loại thanh nhạc kinh điển của Việt
Nam. Với chiều dài về lịch sử, chiều sâu của nghệ thuật và mang
bản sắc dân tộc rơ rệt ca trù đă khẳng định được vị trí quan
trọng không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới.
Lối hát Ca Trù được công nhận là Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể: (L'opéra
de Ca Tru est un patrimoine culturel immatériel):
Ca trù là một loại h́nh nghệ thuật có từ lâu đời, độc đáo và có
ư nghĩa đặc biệt trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, gắn liền với
lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng,
triết lư sống của người Việt. Theo các nhà nghiên cứu khảo cổ,
lịch sử, mỹ thuật, âm nhạc, vào thế kỷ XV, Ca trù đă có mặt
trong văn hóa Việt Nam. Trải qua quá tŕnh phát triển lâu dài,
Ca trù đă ngày càng thẩm nhập vào hầu hết các cuộc diện của đời
sống từ quá khứ và hẳn đă khẳng định tư cách độc lập và độc đáo
của nó trong bức tranh chung của văn hóa dân tộc. Nghệ thuật Ca
trù diễn ra trong các không gian ở đ́nh làng, đền thờ thần, nhà
thờ tổ nghề, dinh thự và ca quán thính pḥng. Cùng với đó là các
h́nh thức hát thờ, hát thi, hát cúng tế lễ lạc, hát ca tài tử,
không những đóng góp vào sinh hoạt của cộng đồng làng xă, của
giới trí thức mà c̣n góp phần vào các hoạt động lễ tiết của quốc
gia trong khuôn khổ của văn nghệ đón tiếp ngoại giao.
Ca trù được UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật
thể (intangible cultural heritage) cần bảo vệ khẩn cấp của nhân
loại năm 2009. Phú Thọ nằm trong 17 tỉnh, thành vùng lan tỏa của
Ca trù. Phú Thọ là một trong những vùng sớm được tiếp nhận và sử
dụng lối hát Ca Trù trong các dịp lễ hội, đ́nh đám, vui chơi
giải trí và nó cũng là một sản phẩm tinh thần trong đời sống
sinh hoạt văn nghệ dân gian của công chúng, tồn tại song hành
với các làn điệu Hát Xoan, Hát Ghẹo ở vùng trung du đất Tổ.
Trong 2 năm (năm 2013 - 2015), địa bàn tỉnh Phú Thọ thực hiện
việc kiểm tra di sản văn hóa trong phạm vi tỉnh, trong đó có sự
kiểm nhận đối với di sản Ca trù. Kết quả kiểm tra này cho thấy
di sản văn hóa phi vật thể Ca trù đang được lưu giữ, thực hành ở
thôn Trinh Nữ, xă B́nh Bộ, huyện Phù Ninh và một số Câu lạc bộ
hát dân ca địa phương.
Về Lịch Sử Và Nghệ Thuật Ca Trù...
Lịch sử và Nghệ thuật ca trù là công tŕnh nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Xuân Diện, ca trù được tŕnh bày khá rơ nét, nhiều chi tiết quan trọng
cần biết về ca trù, được ghi nhận trong luận án tiến sĩ của ông, in lần
đầu năm 2007. Quyển sách này đă được tái bản ra mắt bạn đọc toàn quốc
nhân kỷ niệm tṛn 1 năm ngày nghệ thuật ca trù được UNESCO công nhận là
di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại (vào
01/10/2009). Thư tác này của nhà biên khảo Nguyễn Xuân Diện đă cho biết
thêm rất nhiều chi tiết về loại hát Ca trù trong thư mục mà tác giả đă
cho biết thêm bảy quyển sách khác có nội dung về nghệ thuật ca trù theo
những thể thức khác, và lại c̣n liệt kê ra trên bảy chục văn bia viết
bằng chữ Nôm đang được tàng trữ tại Viện Hán Nôm.
Nhờ đó, có nhiều khám phá mới mà từ trước đến nay chúng ta chưa được
biết. Có những nghi vấn về Ông Tổ của Ca trù, về lúc nào danh từ “Ca trù”
được dùng lần đầu tiên th́ luận án văn hóa âm nhạc này đă đưa ra những
bằng chứng đáng tin cậy. Mặc dầu đề tài luận án đặt trọng tâm vào nguồn
tư liệu Hán Nôm về việc nghiên cứu ca trù, có lẽ tác giả sách nên ghi
thêm một phụ lục vào những bài viết đáng kể về ca trù của các tác giả
ngoại quốc như Samuel Baron vốn am tường về nghệ thuật ca trù, và cũng
nên có một bảng ngữ vựng về những thuật ngữ chuyên môn trong nghệ thuật
ca trù.
Ca trù chỉ một lối hát cổ truyền của người Việt. Tên gọi ca trù
cũng đă được tài liệu cổ ghi nhận. Trên các tài liệu Hán Nôm chữ
“trù” trong “ca trù”
歌
籌đều
dùng chữ “trù”
籌.
Theo đó Trù籌là
thẻ làm bằng tre, trên thẻ có ghi số tiền (hoặc quy định ngầm
với nhau là mỗi thẻ tương ứng với một khoản tiền), dùng để
thưởng cho đào và kép ngay trong khi biểu diễn thay cho việc
thưởng bằng tiền mặt; cuối chầu hát sẽ căn cứ vào số thẻ mà tính
tiền trả cho đào và kép hoặc giáo phường. Người quyết định việc
thưởng này chính là vị quan viên (khách nghe hát), sử dụng trống
chầu (gọi là cầm chầu). Đó là nguồn gốc của tên gọi ca trù; cũng
là thuật ngữ sử dụng trong chuyên khảo này. Tuy nhiên ca trù,
với ư nghĩa là một lối hát có dùng thẻ để thưởng như đă nói ở
trên th́ chỉ có ở hát ca trù ở đ́nh đền, tức là hát thờ.
Ca trù sử dụng ba nhạc khí đặc biệt (không chỉ về cấu tạo mà c̣n
về cách thức diễn tấu) là đàn đáy, phách và trống chầu. Về mặt
văn học ca trù làm nảy sinh một thể loại văn học độc đáo là hát
nói. Đây là một bộ môn nghệ thuật ca nhạc “thính pḥng” được
h́nh thành trên nền tảng âm nhạc dân gian Bắc phần, người nghe
cũng tham gia vào cuộc hát bằng việc cầm chầu. Ca trù c̣n có
những cái tên khác như: hát cửa đ́nh, hát nhà tṛ (hát ở đ́nh,
đền, miếu), hát cửa quyền (trong cung phủ), hát nhà tơ (hát ở
dinh quan, tư gia các gia đ́nh quyền quư), hát ả đào, hát cô đầu
(hát ở các ca quán)...
Nhiều nhà nghiên cứu đă khẳng định ca trù là một bộ môn nghệ
thuật lâu đời, độc đáo và có ư nghĩa đặc biệt trong kho tàng ca
nhạc của người Việt Nam. Ca trù gắn liền với lễ hội, phong tục,
tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lư sống của
người Việt. Do vậy nghiên cứu ca trù cũng là góp phần vào việc
nghiên cứu các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam. Thật
vậy, nghệ thuật ca trù là một di sản văn hóa đặc trưng của Việt
Nam. Đặc sắc ở sự phong phú làn điệu, thể cách, cả không gian,
thời gian biểu diễn và phương thức thưởng thức; đặc sắc c̣n v́
từ cội nguồn nó gắn bó mật thiết với lễ nghi, phong tục, với
những sinh hoạt dân gian, với công chúng. Ca trù làm người ta
nhớ tới những tao nhân mặc khách với lối chơi ngông, chơi sang,
rất tinh tế và giàu cá tính sáng tạo của những danh nhân như
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến,
Dương Khuê, Tản Đà…Và cùng với đó là mối quan hệ giữa văn nhân (nhà
thơ, nhà báo, họa sĩ) với Ả đào - mối quan hệ quan trọng nhất
của lối thưởng thức ca trù. Bởi quá tŕnh tham gia sinh hoạt ca
trù là quá tŕnh văn nhân sáng tạo, thể nghiệm và thưởng thức
các tác phẩm của ḿnh.
Cũng theo TS. Nguyễn Xuân Diện trong tác phẩm khảo cứu Vị Trí
Của Hát Nói (hay Ca Trù) Trong Ḍng Văn Học Chữ Nôm, do Viện
Nghiên cứu Hán-Nôm/ Hội thảo Quốc tế về chữ Nôm, Huế, 2006, các
chi tiết quan trọng vê ca trù được ghi nhận như sau...

Nguồn gốc Hát nói:
Hát nói là một thể thi ca dân tộc được sinh ra từ nhu cầu của bộ môn
nghệ thuật ca trù và trở nên một thể thơ độc đáo trong nền văn học Việt
Nam nói chung, văn học chữ Nôm nói riêng. Trước nay cũng đă có một số
công tŕnh bài viết nghiên cứu về thơ hát nói ca trù và cũng đă có nhiều
vấn đề của hát nói được làm sáng tỏ và khẳng định. Tuy nhiên vị trí và
tầm vóc của hát nói trong văn học sử nói chung và trong ḍng văn học chữ
Nôm nói riêng th́ vẫn chưa được khẳng định một cách mạnh mẽ.
Tên gọi, gốc gác, đặc điểm của thể hát nói
Trước đây, học giả Nguyễn Văn Ngọc trong Đào nương ca nhắc rằng có người
cho là hát nói là lối nói sử. Trương Tửu trong Văn nghệ b́nh dân Việt
Nam cũng viết rằng điệu hát nói là những điệu nói sử. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Đức Mậu cho biết năm 1900 đă có tài liệu nói về ca trù và gọi hát
nói là nói Nôm. Tuy nhiên, về vấn đề này, các tài liệu Hán Nôm cũng vẫn
c̣n cho những thông tin đáng chú ư, góp phần làm sáng tỏ hơn nữa về tên
gọi, gốc gác, đặc điểm của thể loại này. Sách Ca trù thể cách viết về
hát nói như sau:
“Tiếng đàn của hát nói thuộc cung Nam. Nếu nữ hát th́ gọi là hát
nói, nam hát th́ gọi là Hà nam. Lối văn này, xưa và nay đều có.
Lối văn này, mối bài chỉ có 11 câu mà thôi. Câu 1 và 2 gọi là
tổng mạo. Câu 3 và 4 gọi là Thừa đề. Câu 5 và 6 th́ dùng lối
thất ngôn, hoặc cổ thi, hoặc quốc âm; như là treo cái ư của toàn
bài vào giữa bài thơ, để nói hết cái đại ư của toàn bài. Các câu
7, 8, 9 đều nối theo cái ư của câu 5 và 6 mà phô diễn thêm ra,
để làm rơ ư nghĩa. Câu 11 là tổng kết ư nghĩa trong cả bài, mà
cũng là một câu kết thúc. Cũng có khi đến đây, lại thêm hai câu
hoặc 4 câu nữa, liền sau đó nói dông dài thêm cái dư ư của bài
thơ, ấy là muốn dẫn cho dài thêm. Người trong làng ca gọi là Hát
nối.” (trang 12b)..."
Theo sách trên th́ thể thơ lục bát là một thể thơ được sử dụng
phổ biến trong ca trù. Và thể thơ này lại được sử dụng chủ yếu
trong làn điệu hát của ca trù. Các điệu hát được các nhà nghiên
cứu ghi nhận là các điệu ca trù cổ đều có ca từ là thơ lục bát.
Đó là các làn điệu: Bắc phản, Chừ khi, Cung bắc, Dịp ba cung bắc,
Đại thạch, Hăm, Hồng hạnh, Non mai, Thư pḥng, Mưỡu, Ngâm vọng
và Thổng.
Trong các lối hát truyền thống như chèo, quan họ cũng sử dụng
thơ lục bát trong nhiều làn điệu. Điều này càng cho thấy sự gần
gũi của ca trù với các lối hát chèo và quan họ, nếu xét dưới góc
độ thanh điệu ca từ. Tuy vậy cùng sử dụng thể thơ lục bát, nhưng
các lối hát truyền thống này cũng đă tạo nên những vẻ đẹp khác
nhau trong nhạc điệu làm phong phú cho vốn âm nhạc cổ truyền
Việt Nam, và càng khẳng định sức sống của thơ lục bát trong văn
học và văn hóa Việt Nam. Trong số các thể thơ được dùng trong ca
trù, thể hát nói để lại số lượng tác phẩm lớn nhất, được ưa
chuộng nhất. Hát nói đă gắn với những tên tuổi lớn trong lịch sử
văn học Việt Nam như: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh
Trinh, Tản Đà, Phan Bội Châu, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, …

Nói thêm về thi nhân Dương Khuê là người văn hay, chữ tốt. Năm 1864, ông
đỗ Cử nhân (cùng khoa này có Nguyễn Khuyến đỗ Giải nguyên). Năm Mậu Th́n
(1868), thời vua Tự Đức, ông dự thi Đ́nh đỗ Tiến sĩ. Đường hoạn lộ, thuở
ban đầu, Dương Khuê được bổ làm Tri phủ B́nh Giang (Hải Dương), rồi
thăng làm Bố chính. Vào đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ 19, tay lái
buôn Jean Dupuis uy hiếp các quan chức người Việt ở Bắc Kỳ để tự do sử
dụng sông Hồng, ông ở trong nhóm những sĩ phu cương quyết chống lại. Ông
dâng sớ về triều xin có thái độ quyết liệt với người Pháp, bị vua Tự Đức
phê là "bất thức thời vụ" (không biết thời cuộc), rồi bị giáng xuống
chức Chính sứ sơn pḥng lo việc khai hoang. Năm 1873, quân Pháp đánh Bắc
Kỳ lần thứ nhất. Sau khi thương thuyết, họ chịu trả lại bốn thành cho
triều đ́nh Huế, th́ Dương Khuê được điều động làm Án sát Hải Pḥng. Năm
1878, nhân lễ "ngũ tuần khánh thọ " của ḿnh, vua Tự Đức xuống chỉ cho
ông làm Đốc học Nam Định. Sau đó, ông lần lượt trải các chức vụ quan
hành chính như: Bố chính, Tham tá Nha kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Nam
Định-Ninh B́nh. Năm 1897, Toàn quyền Paul Doumer xóa bỏ điều 7 của Ḥa
ước Giáp Thân 1884, đặt cơ sở cho guồng máy cai trị của Chính phủ bảo hộ,
th́ Dương Khuê xin cáo quan, lúc 58 tuổi, được tặng hàm Thượng thư bộ
Binh.
Khi ông mất (ngày 6 tháng 3 năm Nhâm Dần, 1902), nghe tin buồn bạn thân
ra đi, Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đă làm bài thơ bất hủ Khóc Bạn (Khóc
Dương Khuê) khi tang viếng. Bài thơ được vào văn học sử. Bài thơ có thể
xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát,
giọng thơ réo rắt thấm đầy lệ ḷng, gồm có 38 câu thơ. Mở đầu bài thơ là
một tiếng than thở xót xa bùi ngùi:
Bác Dương thôi đă thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi ḷng ta.
Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) khóc bạn cũng là tự khóc ḿnh, giọng
thơ u uẩn thiết tha. Ông trách bạn “vội đi xa” để ḿnh lẻ loi,
cô đơn. Cuộc sống trở nên chán chường, vô nghĩa:, nhất là 2 câu
sau rất phổ thông ở các bàn tiệc sau này:
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đă mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Khóc Dương Khuê (1839-1902) cho thấy một t́nh bạn đẹp và cảm động của
giới nho gia thuở trước. Sau hơn một thế kỷ, chúng ta vẫn thấy nỗi bùi
ngùi xúc động khi đọc bài thơ này. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là khóc
cho một thế hệ nhà nho và cũng là tự khóc cho minh: “Ai chẳng biết chán
đời là phải”...
Tác phẩm của Dương Khuê để lại có một số bài ca trù, bài văn, câu đối,
trướng... Có lẽ nên đề cập bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết,... bài ca trù nghe
thanh thoát, bông đùa, dí dỏm và hóm hỉnh. Giới thiệu một bài ca trù
dưới đây là bài ca trù tiêu biểu và nổi tiếng của nhà thơ Dương Khuê:
Gặp Lại Cô Đầu Cũ
Hồng Hồng Tuyết Tuyết,
Mới ngày nào chửa biết cái chi chi.
Mười lăm năm thấm thoắt có xa ǵ!
Ngoảnh mặt lại, đă tới kỳ tơ liễu.
Ngă lăng du thời, quân thượng thiếu,
Kim quân hứa giá, ngă thành ông
Cười cười nói nói thẹn thùng,
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại.
Riêng một thú Thanh Sơn đi lại,
Khéo ngây ngây dại dại với t́nh.
Đàn ai một tiếng dương tranh...
Hà Nội tức cảnh
Phất phơ ngọn trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Tiếng chày An Thái, mặt gương Tây Hồ.
(bài thơ này nằm trong cuốn Vân Tŕ thi thảo).
Tham khảo một số sách báo và tiếp xúc với các nghệ nhân ca trù chúng ta
được biết, trên thực tế ngoài hát nói đủ khổ (11 câu thơ) th́ thể hát
nói c̣n có một số biến thể khác như: Hát nói thiếu khổ (bài hát chỉ có 6
câu thơ); Hát nói dôi khổ tức là dôi thêm một hoặc nhiều khổ (mỗi khổ 4
câu thơ), Hát nói gối hạc (một vài câu thơ kéo dài ra, số chữ trong một
câu thơ có thể lên tới 12, 18 hoặc thậm chí 24 chữ). Và hát nói thường
hay đi kèm với hát mưỡu. Hát mưỡu ít khi được hát riêng rẽ với tư cách
một bài hát trọn vẹn, mà thường được hát mở đầu hoặc kết thúc cho một
bài hát nói. Do vậy khi hát mưỡu kết hợp với hát nói lại có các dạng Hát
nói mưỡu tiền (hát mưỡu mở đầu rồi vào hát nói), Hát nói mưỡu hậu (hát
mưỡu kết thúc sau khi hát nói); Hát nói mưỡu đơn (hát mưỡu bằng một câu
thơ lục bát), Hát nói mưỡu kép (hát mưỡu bằng hai câu thơ lục bát).
Thể hát nói trong thơ ca trù:
Trong nghệ thuật ca trù, thơ là một thành tố quan trọng. Ca trù có nhiều
làn điệu, nhiều thể ca trù sử dụng các thể thơ quen thuộc và thuần Việt
như lục bát, song thất lục bát. Trong số 34 thể ca trù mà thư tịch Hán
Nôm có ghi nhận về lời thơ, th́ các thể thơ được dùng là:
- Thể lục bát: dùng trong 17 thể ca trù
- Thể song thất lục bát: dùng trong 1 thể ca trù
- Thể hát nói là thể riêng của ca trù
- Thể thơ 7 chữ và một câu lục cuối bài: dùng trong 3 thể ca trù
- Thể thơ 7 chữ và một câu lục bát cuối bài: dùng trong 1 thể ca trù
- Thể thơ Đường luật (thất ngôn, tứ tuyệt): dùng trong 8 thể ca trù
- Thể phú: dùng trong 1 thể ca trù
- Thơ Đường luật trường thiên: dùng trong 2 thể ca trù (trong đó có bài
Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị).
Nhắc lại, về thành phần tŕnh diễn ca trù, với một chầu hát cần có ba
thành phần chính:
Một nữ ca sĩ (gọi là "đào" hay "ca nương") sử dụng bộ phách gơ lấy nhịp,
Một nhạc công nam giới (gọi là "kép") chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng
hát
Người thưởng ngoạn (gọi là "quan viên", thường là tác giả bài hát) đánh
trống chầu chấm câu và biểu lộ chỗ đắc ư bằng tiếng trống. V́ là nghệ
thuật âm nhạc thính pḥng, không gian tŕnh diễn ca trù có phạm vi tương
đối nhỏ. Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch
sang hai bên. Khi bài hát được sáng tác và tŕnh diễn ngay tại chỗ th́
gọi là "tức tịch," nghĩa là "ngay ở chiếu."
Âm nhạc ca trù hay hát nói th́ ca trù vừa là loại thanh nhạc
(vocal music), vừa là loại khí nhạc (instrumental music). Có một
ngôn ngữ âm nhạc tế nhị, khá độc đáo và tinh vi. V́ là yếu tố
thanh nhạc nên ca nương phải có giọng ca thanh thoắt, cao vút và
âm vực rộng để ngân vang xa, khi hát phải biết ém hơi, nhả chữ
và hát tṛn vành rơ chữ, biết nảy hạt (đổ hột), đổ con kiến. Ca
nương vừa hát, vừa gơ phách. Phải biết rành 5 khổ phách cơ bản,
đánh lưu không, tiếng phách phải chắc và gịn, lời ca và tiếng
phách phải ăn khớp với nhau.
Và v́ sử dụng âm khí nhạc nên kép đàn dùng đàn đáy phụ họa. Bản đàn
không nhất thiết phải đi theo bài hát, v́ phải theo khổ đàn, nhưng khổ
đàn – khổ phách – tiếng ca hợp nhau, hài ḥa nhuần nhuyễn. Có những cách
đàn ca chân phương- theo lề lối hay hàng hoa- sáng tạo và bay bướm. Quan
viên là người cầm chầu, tiếng trống chầu vừa chấm câu khi tham gia vào
cuộc diễn tấu, nhưng có tính chất phê phán, khen chê đúng chỗ, để khích
lệ ca nương – kép đàn, giúp cho thính giả biết được đoạn nào hay - thật
hay và như thế được giáo dục âm nhạc trong cách nghe.
Xét về một số tác phẩm nổi tiếng như sau...
Bài bản ca trù có nhiều loại. Phổ thông nhất là hát nói, một thể văn vần
có tính cách văn học cao. Những bài hát nói nổi tiếng phải kể đến:
- Cao Bá Quát với "Tự t́nh", "Hơn nhau một chữ th́", "Phận hồng nhan có
mong manh", "Nhân sinh thấm thoắt"...
- Nguyễn Công Trứ với "Ngày tháng thanh nhàn", "Kiếp nhân sinh", "Chơi
xuân kẻo hết xuân đi", "Trần ai ai dễ biết ai"...
- Dương Khuê với "Hồng hồng, tuyết tuyết" tức "Gặp đào Hồng đào Tuyết".
- Chu Mạnh Trinh với Hương Sơn phong cảnh.
- Tản Đà với "Gặp xuân", "Xuân t́nh", "Chưa say"
- Nguyễn Khuyến với "Hỏi phỗng đá", "Duyên nợ"
- Nguyễn Thượng Hiền với "Chơi chùa Thầy";
- Trần Tế Xương với "Hát cô đầu".
Ngoài ra c̣n có những làn điệu cổ điển khác như "Tỳ bà hành" (bản
diễn Nôm của Phan Huy Vịnh theo cổ bản của Bạch Cư Dị). Những
điệu huê t́nh, gửi thư, bắc phản, hát giai... cũng thuộc thể ca
trù.
Theo như đă tŕnh bày trên, thể thơ lục bát là một thể thơ được
sử dụng phổ biến trong ca trù. Và thể thơ này lại được sử dụng
chủ yếu trong làn điệu hát của ca trù. Các điệu hát được các nhà
nghiên cứu ghi nhận là các điệu ca trù cổ đều có ca từ là thơ
lục bát. Đó là các làn điệu: Bắc phản, Chừ khi, Cung bắc, Dịp ba
cung bắc, Đại thạch, Hăm, Hồng hạnh, Non mai, Thư pḥng, Mưỡu,
Ngâm vọng, Thổng.
Trong các lối hát truyền thống như chèo, quan họ cũng sử dụng thơ lục
bát trong nhiều làn điệu. Điều này càng cho thấy sự gần gũi của ca trù
với các lối hát... Xét tiếp về lối hát Ca trù - Hát dân ca Bắc Ninh. Ca
trù hay Hát nói là biến thể của song thất lục bát. Các nhà viết sách
thời xưa cho rằng Hát nói là một h́nh thức biến đổi của thể ngâm Song
thất lục bát: Trong hát nói có Mưỡu là những câu thơ lục bát, nhiều câu
7 chữ có vần bằng, vần trắc, có cước vận, yêu vận. Nhưng khi đă phát
triển, Hát nói là một thể tài hỗn hợp gồm: thơ, phú, lục bát, song thất,
tứ tự, nói lối,... Trong lối Hát ca trù có nhiều loại như: Dâng hương,
Giáo trống, Gửi thư, Thét nhạc th́ Hát nói là lối thông dụng và có tính
văn chương lư thú nhất.
Hát kể trong ca trù thường được mô tả là hát kể chuyện về một
chuyện t́nh cảm trong thi ca văn học dân gian Việt Nam. Nói đến
hát kể chuyện trong ca trù ví dụ như là bài Bèo Dạt Mây Trôi.
Cốt truyện được kể lại bằng lối hát của ca trù trong bài Dân Ca
Quan Họ tiêu biểu này như sau:
Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi,
Anh ơi, em vẫn đợi... í i ́... bèo dạt
Mây í i ́... trôi,
chim sa, tang tính t́nh... í i ́..., cao vời
Ngậm một tin trông, hai tin đợi, ba bốn tin chờ
sao chẳng thấy anh...
Một mảnh trăng treo, suốt năm canh,
Anh ơi, trăng đă ngă... a á à... ngang đầu
Thương nhớ... ờ ơ... ai, sao rơi... đêm sắp tàn... í i ́...
trăng tà,
Người ra đi có nhớ, (hay người xa có nhớ)
là nhớ ai ngồi trông cánh chim trời,
sao chẳng thấy anh...
Ṃn mỏi thâu đêm, suốt năm canh
Anh ơi, em vẫn đợi... í i ́... mỏi ṃn
Thương nhớ... ờ ơ... ai
Sao rơi, trăng sắp tàn .. í i ́... trăng tà
Cành tre đu trước ngơ
Là gió la đà em vẫn mong chờ, sao chẳng thấy anh...
Thương nhớ.. ờ ơ... ai
Sao rơi, trăng sắp tàn .. í i ́... trăng tà
Cành tre đu trước ngơ
Là gió la đà em vẫn mong chờ, sao chẳng thấy anh.

Hát dân ca Quan Họ vốn thịnh hành trong những ngày lễ Tết, v́ cứ vào dịp
trung tuần tháng giêng, khoảng từ 12 đến 14, ngay sau Tết Nguyên Đán,
người dân vùng đất Quan Họ Bắc Ninh lại tổ chức lễ hội vui xuân đầu năm,
là dịp để các liền anh, liền chị gặp mặt chúc tụng, hội hè và cũng là
lúc để tiếng hát Quan Họ ở vùng đất kinh Bắc được ca vang khi du khách
từ khắp nơi thưởng ngoạn văn nghệ qua âm thanh Quan Họ vào mùa Xuân về,
mùa Xuân cũng bao hàm ư nghĩa là mùa lễ hội Quan Họ, là không gian vui
tươi của Quan Họ; môi trường trẩy hội tưng bừng Quan Họ là vào mùa Xuân.
Việt Hải và Khánh Lan đại diện Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng
Thời Gian xin kính chúc quư đồng hương Một Năm Mới nhiều hạnh phúc, an
lành và thịnh vượng.
Việt Hải và Khánh Lan.

* Nguồn:
- Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm.
- Dương Khuê, GS. Nguyễn Duy Diễn, NXB Nguồn Sống.
- Vai tṛ ca nương trong nghệ thuật ca trù, Science and Technology.
- Ca Trù – Nơi Gặp Gỡ Giai Nhân, Tài Tử- Đỗ Ngọc Thạch.
- Hát nói, thời điểm h́nh thành và quá tŕnh phát triển, Nguyễn Đức Mậu.
- Giới thiệu chung về nghệ thuật ca trù, Hoàng Anh Đức.
- Ca Trù Một Thời Vang Bóng, Trần Nhật Kim.
- Đại Học Paris đón nhận C a Trù, Vơ Quang Yến.
- Lịch sử nghệ thuật ca trù Việt Nam, Nguyễn Xuân Diện.

(H́nh ảnh tham khảo internet).
 

Xuân
NHÂM DẦN 202 2
Tác giả Việt Hải và Khánh Lan.


|