D |
 |
anh
từ "bảo ḥa" được nói đến trong dăy từ "nước muối bảo-ḥa", đó là dung
dịch nước muối có 360g muối/lít, dung dịch muối này không thể ḥa tan
thêm lượng muối nào trong dung dịch, danh từ "bảo ḥa" rất đơn giản theo
lối giải thích này.
"Bảo ḥa" được hiểu như là "sự thấm thấu".
Đây là cách nh́n mơ hồ và g̣ bó trong khoa học, làm cho chúng
ta khó nhận rơ tiến tŕnh của hiện tượng phát sinh, mà chỉ
thấy đó là một sự ḥa tan đơn giản giữa vật thể trong dung
dịch, khoa học vô t́nh làm chậm lại kiến thức nhân loại, đây là
cái nạn chung của con người sống trên Địa cầu ngày nay.
Sự bảo-ḥa không nằm trong định nghĩa hạn hẹp như trên, mà là
một hiện-tượng tự-nhiên trong Vũ trụ có liên quan đến cuộc sống,
là một khoa Học Tự Nhiên.
Không khí Địa cầu (1.O2+4.N2) là
một bảo-ḥa tự nhiên, có mol.w m=28+1.
Khi ta gọi A là O2 có phân-tử lượng (mol.w) a=32
B là N2 có phân-tử-lượng
(mol.w) b=28
Số 4 trong hệ thức "1.O2+4.N2"
là kết qủa của "a-b" và m=b+1=29.
Nhận xét trên cho chúng ta định nghĩa "bảo ḥa" theo hệ thức:
M(A+B)= a+(a-b)b và m=b+1 ( thực ra b<m<b+1). (1)
Nói lên "Sự bảo ḥa trong Vũ trụ là sự cân bằng vật lư giữa 2
chất hợp thành, phân lượng rơ ràng, vẫn giữ nguyên đặc tính hóa
học của từng nguyên tố hợp thành".
Hiện tượng Bảo-ḥa không khí không thay đổi do bởi N2 vùng Ozone
(m=28) thấm thấu vào không khí (m=29), tự nhiên này cho chúng ta
kết luận:
-Trong thể khí:chất có mol.w nhỏ thấm thấu vào chất có mol.w
lớn.
-Nói rơ O2 không thể thấm
thấu vào vùng Ozone N2.(Địa
cầu sẽ không c̣n O2).
Bảo ḥa trong Vũ trụ là ngành "Hóa-học vật lư", vật thể vẩn
trong trạng thái tự nhiên, như không khí, nước muối
bảo-ḥa (360g muối/lít) và nước biển tính từ hệ thức (1):
NaCl+41.H2O
có m=18+1=19.
Gồm 58.5g NaCl (khoảng 55cc NaCl) trong 738 cc nước.Tính ra thể
tích thật của dung dịch bảo-ḥa 58.5g muối là 793 cc, xác
nhận nước biển có 74g NaCl/lít.
Thực nghiệm nước muối bảo-hòa 360g muối/lít là kết
qủa 7.NaCl trong 41.H2O có
trọng khối m=18+7=25 tính ra từ kết qủa:
*7.Nacl=409.5g (khỏang 383cc NaCl) trong 41.H2O=738cc,
vậy thể tích nước muối bảo-ḥa là 1.121cc, suy ra mổi lít có
365g muối (5g muối hơn khoảng 0, 01% muối/lít).Thực nghiệm
trong 100 lít nước biển (74g/lít), cho thấy khi cô động lại th́
khoảng 20.6 lít nước muối bảo-ḥa (360g muối/lít). Kết qủa
trùng hợp với O2 trong
không khí chiếm 21%. Điều này chứng minh Bảo-Ḥa tại Địa cầu
theo hệ thức:
M(A+B)= n.a+(a-b)b và m=b+n (2)
*Hệ thức (2) được bảo chứng qua Đất hiếm "V+Bi+F2" Núi-Pháo.
Đất hiếm gồm có V(vanadium) m=51, Bi(bismuth) m=209 và F2(florine)
m=38, V và Bi là kim loại, F2 là
chất khí.
Theo hệ thức (2) M(Bi+F2)
là 13.Bi+171.F2 có
m=38+13=51, là một Vanadium ảo, vậy thành phần Đất
hiếm "1.V+13.Bi+171.F2"
gồm có:
0, 6% Vanadium + 29, 3% Bismuth + 70, 1% Florine.
Nhưng Tập đoàn Masan (TQ) cho công ty Bản Việt (VN)
biết:Núi-Pháo là tài nguyên có trữ lượng quặng voframn đến 21
triệu tấn, về Florine có trữ lượng lớn nhất thế giới khoảng 19,
2 triệu tấn. Cho thấ Đất hiếm/Núi Pháo là bảo-ḥa từ 29,3%
(Bi)+70, 1%(F2) và 0,
6% (V) thật.Kết qủa cho thấy M(13.Bi+171.F2)
m=38+13=51 từ hệ thức (2) là một V ảo, 0, 6% V thật làm xúc tác,
điều này chứng minh cho "Định lư Bảo-ḥa", nói lên để có một
bảo-ḥa bền, th́ cần ít nhất 1% nguyên tố thật làm xúc tác th́
hoàn tất.
*Dẩn chứng: Au làm từ Pb (m=207) và Pt (m=195).
M(2.Pb+12.Pt) có m=195+2=197 là nguyên tử lượng (ntl) của Au
(vàng), tổng cộng trọng khối 14 nguyên tử là 2.754, trong khi 14
nguyên tử Au thật bằng 197x14=2.758 như thế sai biệt nhau chỉ
4g, khi thêm vào 0, 6% vàng thật (16, 5g) th́ bảo-ḥa có trọng
khối gần như Au thật..Những dẩn chứng trên cho thấy Nguyên lư
Bảo-ḥa là hệ thức:
M(A+B)=n.a+(a-b)b có m=b+n
Năm 2010 là năm minh bạch hóa ngành "Hóa-Học Vật-Lư".
* Giải Nobel vật lư cho 2 nhà vật lư người Nga với phát
minh Graphene.
-Graphene là hợp kim Pb (lead) và C (carbon), giải thích theo
bảo-ḥa như sau:
-Graphene M(Pb+C) = 1.Pb+(207-12).C (molw m=12+1=13).
-Graphen là hợp kim cứng và nhẹ nhất.
*Giải Nobel hóa học về 3 hóa học gia (2 Mỹ và 1 Nhật) về nghiên
cứu dùng Pt (platinum) làm xúc tác để tách rời electrons ṿng
ngoài nguyên tố.Hóa học gia người Nhật phát biểu "Tôi rất bất
ngờ v́ đă hơn 40 năm không có làm việc trong pḥng thí nghiệm".
Đó là năm 1970, LKC tôi có đọc qua một bài báo viết về một
KHG/Nhật: "vàng có thể làm từ Pb bằng cách dùng các tia Alpha,
Beta, Gama tách rời electrons ṿng ngoài của Pb để thành Au
(vàng), nhưng gía thành cao hơn gía Au bởi tiền điện đắc". Điều
này nói lên: "Quan điểm chiết vài electrons ra khỏi nguyên tử có
thể khả thi, cho thấy giữa protons và electrons có sự bảo-ḥa
với nhau".
*Bảo-ḥa giữa protons và electrons.
Muốn ch́ (Pb) trở thành Au th́ Pb phải mất 7 electrons và 3
protons trong nhân (nuclear) tự bảo-ḥa 118 electrons làm cở
size lớn thêm 0, 025=3/118 < 0, 073 (TK neutron) để trở thành Au
(79 protons và 118 electrons). Nhận xét qua:
*Pb có Z.207 = A.82 + B.125 suy ra cở size electrons 82/125=0,
656.
*Au có Z.197 = A.79 + B.118 suy ra cở size electrons 79/118=0,
669.
Cho thấy cở size mới electrons Pb khỏang 0, 656+0, 025=0, 681
lớn hơn vàng thật 0, 012 và nhỏ hơn 0, 073 (neutron), chứng tỏ
đây là nguyên tố bền không phóng xạ, vậy khi thêm 1% Au thật th́
Au làm từ Pb sẽ có tính như vàng thật.
*Chứng tỏ giữa protons và electrons có sự bảo-ḥa lẩn nhau,
vậy việc chiết vài electrons trong kim loại là việc khả thi, tuy
nhiên vẩn có sự bất thường từ Fe thành Titanium (Ti).
-atmw Fe(56)=TK 26.protons + TK 30.electrons.
-atmw Ti(48)=TK 22.protons + TK 26.electrons.
Cho thấy chỉ cần chiết ra 4 electrons Fe th́ sẽ đượcTitanium.
- Cở size electrons Fe là 0, 87.
- Cở size electrons Ti là 0, 84.
-4 protons Fe bảo-ḥa 26 electrons sẽ lớn ra 4/26=0, 153, cho
thấy cở size thật electrons Ti ảo khoảng 0, 87+0, 153=1, 024 >
1, chứng tỏ Ti ảo phóng xạ mạnh hơn He2,
nhưng tầm ảnh hưởng không nguy hại bằng He-3, v́ Ti ảo làm từ
Fe chỉ có tính hút electrons mà không có tính bám vào nguyên tố
khác như He-3.
Khí Helium có 2 protons và 2 electrons, là khí dễ trở thành chất
phóng xạ, v́ trọng khối electron bằng 1, 0013 lớn hơn 1 proton,
trong nhiệt độ ban ngày của Mặt trăng dễ thành He-3, phóng
xạ He-3 (cở size có thể lớn hơn 1, 5) dễ nuốt chửng cả nhân H2.Đặc
tính này có thể giải trừ phóng xạ Hydrogen và sẽ thay đổi sinh
hóa vật thể Địa cầu, con người cần cảnh giác tầm ảnh
hưởng He2 trong công nghệ cải tiến thực phẩm, v́ có sự bảo-ḥa
M(He2+6.H2)
nên thực phẩm dễ gây hiện tượng thiếu H2O
trong cơ thể con nguời.
II.- Bảo-ḥa là sự thấm thấu có Định luật.
Vật thể trên Địa cầu thường trong 3 trạng thể: Thể rắn, Thể
lỏng, Thể khí, nhưng trong Vũ trụ th́ c̣n thêm "Thể năng lượng
tối", 4 thể này cho chúng ta thấy "sự thấm thấu" như sau:
*Cùng thể th́: mol/nhỏ thấm thấu vào mol/lớn.
*Không cùng thể th́:
-Năng lượng tối thấm thấu vào tất cả các thể.
-Thể lỏng (nước) thấm thấu vào thể rắn (muối) như nước biển.
-Thể khí (Florine)) thấm thấu vào thể rắn (Bi) như "Đất hiếm.
-Thể khí thấm thấu vào thể lỏng H2O+NH3+CH4 có m=18.
Những thấm thấu trên cho chúng ta kết luận:
Sự thấm thấu "không cùng thể" tuần tự theo "Energy thấm thấm
vào.. Gas.. Liquid.. Solid".
III.-Những bảo ḥa trên Địa cầu.
a-Bảo-ḥa giữa các kim loại.
Sự thấm thấu "cùng thể rắn" như Al m=27, Si m=28, Ti m=48.
Ba kim loại này hợp thành một bảo-ḥa "cứng-chắc-nhẹ và tính đàn
hồi cao".Đây là hợp kim cho chiếc xe đổ bộ lên Hỏa tinh (Mars)
ngày 05/8/2012 của Hoa-Kỳ.
Theo quan niệm bảo-ḥa M(Ti+Si+Al) giải thích như sau:
-M(Si+Al): 2.Si+1.Al có m=27+2=29
-M(Ti+Al): 2.Ti+21.Al) có m=27+2=29
Như thế hợp kim (Ti+Si+Al) cần "2.Ti+2.Si+22.Al" có m=29.
Vậy muốn Bảo-ḥa giữa nhiều kim loại, trước tiên cần biết:
- Tính hợp kim có trọng khối là bao nhiêu ?
- Bảo-ḥa từng nguyên tố với nguyên tố trọng khối nhỏ nhất cho
phù hợp trọng khối đă định.
*Những hợp kim từ sắt (Fe), cobalt (Co), đồng (Cu), thiết (Zn),
bạch kim(Pt), vàng (Au), ch́ (Pb) v..v..mổi loại có đặc tính
khác nhau, nhưng bảo-ḥa của chúng th́ gồm tất cả tính những kim
loại hợp thành, như:
1- Hợp-kim Zn (m=65) và Fe (m=56)
M(Zn+Fe) có 2 dạng:
-M(Zn+9.Fe) có m=56+1=57.
-M(3.Zn+9.Fe) có m=56+3=59 (có thể là Co hoặc Ni).
2- Hợp-kim Cu (m=64) và Fe (m=56)
M(Cu+Fe) cũng có 2 dạng:
-M(Cu+8.Fe) có m=56+1=57.
-M(3.Cu+8.Fe) có m=56+3=59 (có thể là Co hoặc Ni).
Những Bảo-Ḥa trên dù có Fe nhưng không bị rĩ tựa như Co hay Ni,
khi thêm 1% Co hoặc Ni vào th́ bảo-ḥa như nguyên tố vừa thêm
vào.Tương tự
3- Graphene:hợp kim chính là Pb (lead) và C (carbon), được giải
Nobel vật lư năm 2010.
M(Pb+C) = Pb+195.C (molw m=13).
Để có hợp kim gần như M(Pb+C) chúng ta có thể thêm Al (m=27)
và Si (m=28) để thành M(Pb+Si+Al+C) có trọng khối m=14, thành
phần kim loại như sau:
*M(2.Pb+195.C) có m=12+2=14
*M(2.Al+15.C) có m=12+2=14.
*M(2.Si+16.C) có m=12+2=14.
Vậy tổng cộng 3 bảo-ḥa trên cho thấy hợp kim gồm có:
-M(2.Pb+2.Si+2.Al+226.C).
Những dẫn chứng trên là cách hoàn chỉnh nhất trong kỹ nghệ luyện
kim.
4-Thật ra kỹ nghệ hợp kim bảo-ḥa đă có từ lâu, công tŕnh kiến
tạo kinh đào Pontaysyll ở Anh dài trên 18 km (do kỹ sư
Thomas-Tedơrd) dẫn qua một khúc cầu bên dưới bằng ṿng cầu nhẹ
và mạnh nối liền giữa 2 triền núi, được hoàn thành đầu thế kỷ
19 đă dùng kỹ thuật hợp kim M(Zn+Fe), có thể là M(Zn+9.Fe) trong
công tŕnh Tháp Eiffel (1823-1832) của Pháp.
Tượng "Nữ thần Tự do" do Pháp tặng nước Mỹ, với kim loại chính
là nhom (Al), thời đó nhôm rất qúy, v́ nhôm có tính nhe và mềm,
như thế tượng không thể toàn là nhom mà có thể là M(Zn+Fe+Al).
*M(2.Fe+(56-27).Al) có m=27+2=29.
*M(2.Zn+(65-27).Al) có m=27+2=29
Vậy M(Zn+Fe+Al)=2.Zn+2.Fe+(29+38).Al cùng có m=29.
m=29 là phân tử lượng không khí, một nghi vấn hiện này là những
chiến hạm tàng h́nh có phải làm bằng hợp kim M(2.Zn+2.Fe+67.Al)
?
*Một chứng minh cụ thể là giàn khoan dầu Canada, mệnh danh là
"Kỳ quan thứ 8 thế giới".
Giàn khoan là con tàu nổi có trục khoan dầu vertical mill và
trục phá băng horizontal mill, có nhiều vành răng cưa cao 1 m,
vành khăn 3 m (phần răng cưa 1m và 2 m vành tṛn bên trong xoay
quanh trục 100 m, tổng cộng 106 m), đường kính 106 m) nằm
dưới mặt nước, những vành này xoay tự do trên trục tṛn đường
kính 100 m cố định trên tàu, giữa vành răng cưa và trục phải
thiết kế có nhiều ḷ xo làm đệm tránh sự chấn động khi khối băng
trôi đến và nhiều viên bi tṛn trợ lực vành sẽ tự động xoay như
lưỡi khoan nằm ngang (horizontal mill), dư sức phá tảng băng 1,
2 triệu tấn tốc độ 2m/giây (dưới 4 hải lư/giờ, 1 hải lư=1852m)
mà không chấn động đến giàn khoan, khác với tàu Titanic vơ tàu
chỉ vài phân.
Vành răng cưa này phải là kim loại Co (cobal), thật ra hợp kim
này chỉ là bảo-ḥa giữa Fe và Zn có tính Co.
*Zn+9.Fe có m=56+1=57.
*3.Zn+9.Fe có m=56+3=59 (Co ảo).
b-Bảo ḥa kim loại và chất khí (gas)
Qua bảo ḥa trong "Đất hiếm", chúng ta thấy Florine (gas)
với Bismuth (solicd) trở thành quặn Vanadium ảo (solid) có
tính như một Vanadium thật, đặc tính Vanadium ảo này chịu được
nhiệt độ cao và cứng chắc hơn Vanadium thật, v́ chịu sự thấm
thấu " gas" trong nhiệt áp suất dưới mặt đất. Sự thấm thấu gas
vào kim loại là kinh nghiệm 25 năm tại xưởng làm khuôn cho tôi
thấy được khuôn được trui ở nhiệt độ 1.325o F với khí
amoniac (NH3), khuôn rất bền chắc và phẩm chất bền lâu hơn, chủ
yếu là N2 trong
NH3. Nitrogen bảo-ḥa trong kim loại làm cho kim loại cứng chắc
hơn, do đó người xưa rèn kiếm, thường trui thép xong th́ đem ra
đập, làm nhiều lần để nitrogen quyện vào trong thép, đao
kiếm bén cứng hơn để thành bảo đao.
c-Bảo-ḥa giữa các chất khí.
Được quy định theo phân tử khí, mổi phân tử khí đều có cùng thể
tích là 22, 4 lít. Ngoài bảo-ḥa 1.O2+4.N2
(không khí), Địa cầu c̣n có thêm CO2 từ
các công xưởng kỹ nghệ và hơi nước từ đại dương.
Bảo-ḥa CO2 và
H2O
theo hệ thức:
M(CO2+26.H2O)
có mol.w m=19
Đây là loại mây có nhiệt độ trở thành mưa thấp hơn mây không
có CO2 khoảng 4° đến
5o C.
Chính sự khác biệt này, khi nhiệt độ 21° C (70° F) mưa rất ít
trong khi mây vẩn dầy đặc trên trời, không đủ lượng nước mưa
nên Địa cầu hạn hán. Khi nhiệt độ đạt đến độ lạnh 17° C
(62° F) th́ khối mây bảo-ḥa thành mưa, có thể 26 thể tích nước
trút xuống cùng lúc tạo nên trận mưa lũ gây lụt tại vùng đất
thấp.Khi khối mây bảo-ḥa này tụ lại những nơi có núi cao,
dù trận mưa chỉ vài giờ, nhưng trận lụt có thể kéo dài vài tuần,
đôi khi 1 tháng, v́ trên thượng nguồn có nơi thành hồ nước thiên
nhiên bất đắc dĩ.
Bảo-ḥa CO2+26.H2O
trên không sẽ làm không khí chuyển lưu mạnh hơn gây nên cuồng
phong (tornado) và trận bảo (hurricane), do bởi sự qúa tài CO2
bám vào chùm mây bảo-ḥa "CO2+26.H2O"
kết nối với không khí (1.O2+4.N2)
trong dạng 1.O2+3.N+CO-O-N2,
chính N2 tự
do này thu "năng lượng tối" bởi sự bức chế từ oxygen của CO2.
Khi CO2 nhận
đủ hơi nước từ đại dương th́ M(CO2+26.H2O)
có thể gây nên trận mưa lớn gấp 50 lần hoặc 75 lần trận mưa b́nh
thường, nước trút cùng lúc như thác đổ tạo cảnh thiên tai khũng
khiếp.Nguồn không khí vừa rời khỏi CO2 là
loại không khí có 1.N2 chứa
năng lượng tối cao hơn 5% sẽ có sức mạnh càng lâu càng mạnh hơn,
đây là nguyên nhân gây nên những trận bảo không lường được (có
giải thích ở phần năng lượng tối phần sau).
IV.-Bảo-ḥa dẩn chứng từ Thái-dương-hệ (TDH).
*Sự khám phá về TDH của 2 nhà Thiên văn học bà Lưu-lệ-Hằng và
thầy Davis Jewitt cho thấy:
Jupiter Saturn với lớp băng "He2+6.H2"
molw m=3, Uranus Neptune Pluto với lớp băng "H2O+NH3+CH4"
molw m=18, không khí Địa cầu "1.O2+4.N2"
molw m=29 cùng dạng M(A+B)=n.a+(a-b)b và m=b+n.
Bên ngoài không khí Địa cầu có vùng Ozone là N2,
cho chúng ta nhận thấy mổi hành tinh trong TDH phải có không
khí bảo-ḥa riêng và vùng Ozone bảo hộ bên ngoài, vùng ozone là
khí có molw nhỏ trong không khí bảo-ḥa hành tinh đó.
Theo suy luận quan niệm ngủ hành sinh khắc và thực tế cục nam
châm, cùng cực th́ đẩy (khắc), khác cực th́ hút nhau (sinh) mà
đoán ra:
*Saturn (Thổ tinh) và Jupiter (Mộc tinh) có dạng tương khắc (Mộc
khắc Thổ), phải có cùng loại không khí, đó là M(He2+6.H2.
Tương tự Mercury (Thủy tinh) và Sun (Mặt trời) cũng dạng tương
khắc (Thủy khắc Hỏa) nên có cùng không khí M(Ne2+2.F2)
với không khí Địa cầu M(1.O2+4.N2)
hợp với quan niệm chuyển động Brown (vật càng nhỏ, chuyển động
càng nhanh, thu năng lượng càng nhiều).Bởi nhận xét này nên
tŕnh bày thêm "Không khí từng hành tinh/TDH" theo hệ
thức Bảo-Ḥa M(A+B)=n.a+(a-b)b m=b+n :
- Sun : Ne2 (neon)+2.F2 (flourine)
m=39 vùng Ozone là F2 (by
LKC).
-Mercury (thủy tinh) : Ne2+2.F2.
m=39 vùng Ozone là là F2
(by LKC).
-Venus (kim tinh) : F2+6.O2 (oxygen).
m=33 vùng Ozone là O2 (by LKC).
-Earth : O2+4.N2 (nitrogen).
m=29 vùng Ozone N2
-Moon : O2+24.He2 (helium).
m=9 vùng Ozone là He2 (by
LKC).
-Mars (hỏa tinh) : O2+24.He2. m=9 vùng Ozone là He2 (by LKC).
-Jupiter (mộc tinh) : He2+6.H2. m=3 vùng Ozone là H2
-Saturn (thổ tinh) : He2+6.H2. m=3 vùng Ozone là H2
-Uranus (thiên-vương-tinh) : H2O+NH3+CH4.
-Neptune (hải vương tinh): H2O+NH3+CH4.
-Pluto (diêm-vương-tinh) : H2O+NH3+CH4.
Bởi tính khác thường của H2O+NH3+CH4
trên Uranus, Neptune, Pluto với sự hợp thành M(He2+H2)
trên Jupiter, Saturn cho chúng ta nhận ra ban đầu 5 hành tinh
này đều ở dạng:
-M(O2+30.H2),
M(N2+26.H2),
M(C+10.H2)
và M(He2+6.H2), tất cả đều có m=3.
-M(He2+6.H2) nhẹ nhất bọc bên ngoài M(C+10.H2), M(N2+26.H2)
và M(O2+30.H2).
Phần giải thích trên cho thấy các hành tinh trong TDH có cùng
Định luật bảo-ḥa.
Mặt trời hiện nay cũng đang trong nhiều lớp bảo-ḥa.
*Độ lạnh bên ngoài Poluto làm M(He2+6.H2) kết thành băng
làm M(O2+30.H2), M(N2+26.H2), M(C+10.H2) trở thành:H2O,
NH3 và CH4 như sau:
-O2+30.H2 thành 2.H2O+28.H2
-N2+26.H2 thành 2.NH3+23.H2
-C+10.H2 thành CH4+8.H2
* Thật ra M(H2O+NH3+CH4) nằm trong 2 nhóm Bảo-ḥa:
-M(2.H2O+2.CH4) và M(2.NH3+CH4) cùng có
m=18, như vậy bảo-ḥa thật sự trên Uranus-Neptune-Poluto là
M(2.H2O+2.NH3+3.CH4), là phân tử nước nên thành băng ở 0o C và
thể tích trương lớn nhất ở -4o C (23o F), làm vỡ lớp băng
M(He2+6.H2) bên ngoài và chỉ c̣n lớp băng
đá M(2.H2O+2.NH3+3.CH4) trên mặt đất.
-M(2.H2O+2.NH3+3.CH4) là phân tử H2O có thừa CH4, đây là nhiên
liệu "nổ" cũng như bảo-ḥa acetylen M(C2H2+8.H2O) và bảo-ḥa
propan M(C3H6+24.H2O) đều sẽ là nhiên liệu cần thiết cho các
thương thuyền dùng máy dầu diesel (động cơ dùng injector, heo
bơm dầu).
-Nguyên tắc động cơ dùng injector được phỏng theo:
"Sự nổ ban đầu của Vũ trụ: Những M(C+10.H2), M(N2+26.H2),
M(O2+30.H2) trong M(He2+6.H2) là bảo-ḥa "nhẹ" (m=3) nên vào
trung tâm vũ trụ trước tiên, M(3.H2O+2.NH3+3CH4) dưới áp suất
cao làm nhệt độ tăng dần đến độ "Nổ".Vũ trụ phải trăi qua rất
nhiều vụ nổ như thế này và cuối cùng là "Vụ Nổ Lớn".Những dẩn
chứng cho thấy sự thành h́nh TDH do Bức xạ Mặt trời phát
sinh:Bảo-Ḥa nhẹ nhất được phóng xa nhất.Bức Xạ là năng lượng
tùy vào độ Nóng-Lạnh của Năng lượng dương từ Mặt trời ra và năng
lượng âm từ ngoài Poluto vào.
-Những băng đá M(He2+6.H2) trên Saturn và Jupiter cho
thấy:Saturn là hành tinh bảo-ḥa năng lượng âm từ ngoài Poluto
vào mà không gây bức xạ trên Uranus-Neptun-Poluto.
a-Bức xa (radiation) trong Vũ trụ.
*Bức xạ do nguồn Lạnh đụng vào nguồn Nóng, có nhiệt bức xạ từ
nguồn nóng ra tùy năng lượng khối lạnh va chạm vào, cuối
cùng ngừng ở Bức Xạ Phông Vũ Trụ 2, 7° K
. BXPVT 2, 7 K
là di tích của "Vụ Nổ Lớn", phát hiện t́nh cờ năm 1964 bằng một
chiếc kính thiên văn vô tuyến đặt trên mặt đất, trên đó chứa
đựng nhiều thông tin liên quan đến Vũ trụ sơ sinh và quá tŕnh
tiến hóa của Vũ trụ.
"Vụ Nổ Lớn " làm nhiệt độ tăng lên 1032 độ K trong khỏang
10-35 giây, khiến thể tích Vũ trụ tăng lên 1078 lần trong
miligiây. Sau 400 ngh́n năm, Vũ trụ được thu nhỏ lại chỉ
c̣n 109 hơn so với "Vũ trụ nguyên thủy" trong nhiệt độ 3,
000o K và tồn tại đến nay hơn 13, 82 tỷ năm.Thật ra 3, 000o K là
khởi điểm Mặt trời ngày nay mà BXPVT ghi nhận được, nó không là
nhiệt độ cả Vũ trụ sau "Vụ Nổ Lớn" 400 ngàn năm.
*Từ lúc "Vụ Nổ Lớn" đến khi TDH thành h́nh th́ không c̣n vụ nổ
nào khác, để cho chúng ta nghỉ đến trong TDH phải có sự Bảo-ḥa
bức xa từ Mặt trời.
-Hiện tượng đóng băng "H2O+NH3+CH4" và "He2+6.H2" là một
trong Bảo ḥa Bức xạ/TDH chứng tỏ chùm hành tinh
Neptun-Uranus-Pluto và Jupiter-Saturn không có bức xạ phát sinh.
-Saturn chạy nhanh hơn Jupiter (Mộc tinh), hành tinh này lớn gấp
130 Địa cầu, ảnh hưởng tính tương khắc với Saturn (cùng không
khí) nên đẩy hành tinh Đỏ này chạy nhanh.Phi thuyền thăm ḍ
Saturn cho biết:Một ṿng quanh Saturn hơn 10 ngày của Địa
cầu.Trong khoa Tử Vi người Hoa có nói:" Saturn chạy quanh Mặt
trời 1 ṿng bằng 10 năm Địa cầu và một ṿng Jupiter bằng 12 ṿng
Địa cầu.Trong vận chuyển này ảnh hưởng đến Neptune-Uranus-Poluto
có cùng vận tốc như nhau, v́ có cùng M(He2+6.H2) từ lúc khai
sinh TDH.
-Jupiter (Mộc tinh) là hành tinh lớn nhất trong TDH (130 lần Địa
cầu) tiếp nhận nguồn năng lượng âm từ Saturn (Thổ tinh) vào bằng
sự hấp thu theo quan niệm ngủ hành: "Mộc hấp thu sinh lực của
Thổ".
Từ Jupiter năng lượng âm vào đến Mercury có hiện tượng tương
sinh (năng lượng âm từ ngoài vào có nhiệt độ lạnh hơn nhiệt bức
xạ từ hành tinh bên trong ra) qua Mars Địa cầu Venus đến
Mercury đều có bức xạ phát sinh.
*Mercury (Thủy tinh) và Mặt trời (tượng hỏa), trong dạng "Thủy
khắc Hỏa", cho thấy Mercury có tính thu năng lượng từ Mặt trời,
v́ Mặt trời qúa lớn (gấp 109 lần Địa cầu) nên đẩy Mercury chạy
nhanh hơn Mặt trời tự xoay tại chổ (cũng như Saturn và Jupiter),
kéo theo Hệ Mercury-Venus-Earth-Mars có cùng vận tốc như nhau,
được nh́n thấy qua nhận thức hằng ngày.
-Trong 1 ngày trên Địa cầu chúng ta thấy Venus 2 lần (trước Mặt
trời lên là Sao Mai, sau Mặt trời lặn là Sao Hôm).
-Mars nh́n thấy trọn 1 năm từ Địa cầu trong khi Địa cầu đă qua 2
năm.
b-Những ảnh hưởng bức xạ từ Mercury sinh ra.
-Thật ra Mặt trời vốn thuộc kim (nguyên tố vũ trụ), kim sinh
thủy, có tính phát nhiệt (khoảng 5, 500o C) tự nhiên vào không
gian xung quanh, nhiệt có tính giảm dần đến Mercury.Nhiệt độ ban
ngày tại đây khỏang từ 450o C đến 500o C,
ban đêm khoảng 175o C", đây là kết qủa thăm ḍ Mercury của NASA
và sẽ hoàn tất vào năm 2025.Nhiệt độ 500o C trên Mercury
là nhiệt bức xạ thực sự cho năng lượng dương từ TDH, năng lượng
này đă bảo-ḥa năng lượng âm từ Mercury vào ở giữa không
gian vùng Mặt trời và qũy đạo Mercury. Do đó chúng ta không thể
kết luận Địa cầu nóng do ảnh hưởng Mặt trời mà phải do nhiệt bức
xạ từ Mercury (500o C).
c-Bảo-ḥa bức xạ trong Thái Dương Hệ.
Những dẩn chứng trên cho thấy TDH có Bảo-ḥa bức xạ và năng
lượng tạo thành 3 nhóm tinh cầu có vận tốc khác nhau, Hệ Saturn
chạy nhanh hơn Hệ Mercury, Hệ Mercury chạy nhanh hơn Mặt trời tự
xoay, nhờ thế TDH tồn tại hơn 4, 5 tỷ năm.
-Từ Mặt trời đến ṿng đai Mercury là bảo-ḥa năng lượng dương
từ Mặt trời ra.
-Ṿng đai Mercury là bảo-ḥa bức xạ cho Hệ
Mercury-Venus-Earth-Mars-Jupiter.
-Ṿng đai Saturn là bảo-ḥa năng lượng âm từ Hệ
Saturn-Neptun-Uranus-Poluto vào.
*
Quan niệm không khí cho từng hành tinh/TDH căn cứ vào luật
chuyển động Brawn:"Vật càng nhỏ chuyển động càng nhanh, thu năng
lượng càng nhiều".Những không khí bảo-ḥa có trọng khối từ m=39
đến m=3 cho chúng ta nhận ra:
Áp suất không khí trên Mặt trăng bằng 1/6 trên Địa cầu
(4.N2/24.He2), Phi thuyền Appolo 11 năm 1969 cho biết kết qủa
này, (dưới áp suất này nước sôi ở 17o C).
Ngày 26/11/2018 Tàu Vũ Trụ Insight Nasa tái đổ bộ lên Mars đă
phải vượt qua 7 phút tử thần xuyên vào bầu khí quyển với vận tốc
93.000 km/giờ, cho thấy lớp khí quyển khoảng 10.850 km, so sánh
với khí quyển Địa cầu 65, 000 km là 1/6, cuộc chinh phục cho
thấy không khí Mars là M(O2+24.He2) và
"Hành tinh trong TDH có lớp không khí riêng". Khi gần đến
mặt đất vận tốc chỉ c̣n 8 km/giờ và an toàn đáp xuống Mars, khác
với cuộc đổ bộ tháng 8/2012, chiếc xe đổ bộ (làm bằng hợp kim
Ti+Si+Al) bộc bên ngoài bởi qủa cầu tṛn đa năng được rơi
tự do xuống Mars.Từ kết qủa này cho chúng ta suy ra áp
suất Venus-Jupiter-Saturn-Neptune-Uranus-Poluto so với áp
suất Địa cầu bằng 4/6 = 2/3 (dưới áp suất này nước sôi ở 67o C
), ngoại trừ Mercury có áp suất bằng 4/2=2 Địa cầu (nước sôi ở
200o C).
Như thế dự đoán trong tương lai Venus có thể là hành tinh có sự
sống, v́ nơi đây là chặn cuối cùng của H2 dừng lại sẽ bảo-ḥa O2 trong
TDH."Sự thành h́nh của nước, H2O"
trên Venus là hiện tượng tất nhiên không thể tránh được.
d-Nước trên Địa cầu, Moon và Mars.
Nước là mục đích cho cuộc sống, những hành tinh này nằm giữa
Venus và Saturn, là 2 hành tinh có vùng Ozone H2 và
O2,
nguyên tố chính thành H2O.
Năng lượng âm từ Saturn vào Sun mang H2 ngang
qua Mars, Moon, Địa cầu và Venus.
-Năng lượng dương từ Sun đến Mercury tạo bức xạ mang O2 từ
Venus qua Địa cầu, Moon và Mars.
-H2 và O2 dưới dạng M(O2+30.H2) trở thành băng đá 2.H2O+28.H2
tại 2 cực trong khí hậu lạnh quanh năm, nước đóng thành núi
băng, hyrogen theo bức xạ ra đến Saturn.
*Riêng ở Venus th́ khoa học chưa thăm ḍ nhưng vẩn kỳ vọng tại 2
cực có sự sống, v́ áp suất không khí Venus bằng 2/3 Địa cầu
thích hợp hơn áp suất trên Moon và Mars chỉ bằng 1/6.
Dù rằng trên Mars các nhà khoa học Trung tâm Không gian NASA/Mỹ
đă phát hiện có nguồn nước mặn dưới mặt đất vào mùa hè (thăm do
ngày 28/9/2015) có "Suối nước mặn" dưới ḷng đất,
cho thấy có sự sống nhưng không như Địa cầu.
e-Tương quan Năng lượng và Vật thể trong Vũ Trụ.
Vật thể trương lớn hay co rút tùy theo nhiệt độ, nóng th́
trương, lạnh th́ rút lại và triệt tiêu ở 0o K, BXPVT (Radiation
belt) 2, 7° K phân ranh Vũ trụ vật thể bên trong và bên ngoài
(Vũ Trụ Nguyên Thủy gần 0o K), vùng không gian vô tận mà 5, 000
năm trước người TH cho rằng vụ trụ sơ nguyên (đen tối và
lạnh).Ngoài BXPVT nhiệt độ gần 0o K, nên "Hạt Higg" (hạt sinh
trọng khối nguyên tử, Hạt của Chúa) mới tồn tại, những Hạt
Higg các nguyên tố xuyên qua BXPVT trở thành "vật chất tối" tùy
từng vùng nhiệt độ thích hợp rồi sau cùng trở thành vật thể.
Máy Gia tốc hạt lớn LHC "Big Bang", xác nhận từ BXPVT: Vũ
trụ gồm có 68, 3% năng lượng tối, 26, 8% vật chất tối và 5% vật
thể (bao gồm Thiên hà, hành tinh và cả sinh vật trên địa
cầu).Nhận xét này mơ hồ v́ không hợp với tinh thần khoa học, một
giải thích hợp lư hơn là thành phần bách phân trên phải cùng một
thể loại, đó là "năng lượng tối".
Bên goài "BXPVT " nguyên tố vốn vô h́nh trong nhiệt độ 2, 7o K,
khi vào bên trong Vũ trụ electrons có khuynh hướng tách xa nhân
(nuclear), phóng ra là 68, 3% năng lượng tối, khi electrons
gần lại nhân th́ thu vào 26, 8% năng lượng tối, hiện tượng rời
hợp electrons như con thoi làm nguyên tố lúc ẩn lúc hiện, đó là
"vật chất tối" thành h́nh.
Mổi lần electrons rời họp vói nhân cho thấy xác suất 41, 5% năng
lượng tối c̣n thừa sau khi electrons gần lại nhận, cho thấy năng
lượng tối có tính phóng xạ rất nhẹ (v́ sinh ra do hiện tượng
electrons đang tách xa nhân) v́ thế có khuynh hướng bám chặc vào
"vật chất, 5% "vật thể" biểu thị cho 4, 9% năng lượng tối trong
"vật thể" và 0, 1% năng lượng tối từ Vũ trụ liên kết vào.
Vật thể thành h́nh trong quy luật chỉ c̣n 5% năng lượng tối
trong "vật thể" và không c̣n năng lượng ban đầu như khi ở ngoài
BXPVT.Vậy mổi vật thể có thể trở về vùng nhiệt độ thích nghi với
"năng lượng tối" thích hợp bên trong, khả năng này sẽ làm vật
thể trong TDH bay khỏi TDH.Để có sự bay này chỉ riêng cho các
nguyên tố khí trong Vũ trụ, tại Địa cầu N2 là nguyên tố thích
hợp nhất, khi năng lượng tối trong vật thể có trên 5% th́ vật
thể sẽ có khuynh hướng trở về môi trường thích hợp bên ngoài
TDH.
Vùng Ozone ngoài khí quyển Địa cầu là nguồn N2 có khả năng nhận
về "năng lượng tối", sự chế biến O2 và
N2 lỏng
từ không khí hoặc CO2 qúa
tải trong bào-ḥa CO2+26.H2O
là tác động "bức chế tự nhiên" trên Địa cầu, tạo N2 trong
không khí nhận về năng lượng tối, khi năng lượng tối trong "vật
thể" qúa 5% th́ có thể lơ lững trong không gian và có khuynh
hướng bay về vùng nhiệt độ thích hợp cho "vật ảo" ngoài Thái
Dương Hệ.
Sự bay này không bị ảnh hưởng trọng trường (gravity) Địa
cầu, nên di chuyển cực nhanh, đây là nguyên lư bay của UFO. Dĩa
bay là "vật thể" chế biến khí lỏng dễ dàng nhất, khi pḥng chứa
khí lỏng có áp suất cao là điều kiện để N2 thu nhận năng lượng
tối dễ dàng hơn.
Khi bay th́ Dĩa bay cho khí lạnh N2 (có
năng lượng tối trên 5%) ra, bởi tính phóng xạ của năng lượng
tối nên khí này sẽ phủ quanh Dĩa bay vốn đă có cùng độ lạnh từ
lâu, như thế Dĩa bay chỉ cần một lực rất nhẹ th́ "khối khí lạnh
bên ngoài sẽ bay với bản năng tự nhiên".
Hiện tượng "bức chế tự nhiên" trong Dĩa bay và bầu khí quyển Địa
cầu chúng ta thấy được, nhưng sự "bức chế tự nhiên" dưới mặt
đất như thế nào ?
*Sự qúa tải CO2 quanh
M(CO2+26.H2O)
dưới mặt đất làm cho N2 trong không khí thu nhận thêm năng lượng
tối dễ dàng hơn do sự bức chế từ oxygen của CO2,
nhưng không thể làm M(CO2+26.H2O)
thành mưa, như thế N trong không khí dưới nguồn nước ngầm có
lượng năng lượng tối cao hơn 5% rất nhiều.
*Nguồn nước dưới mặt đất không đủ cung cấp hơi nước để
bảo-ḥa CO2,
nên nguồn không khí N2 chứa
trên 5% năng lượng tối bị cuốn theo M(CO2+26.H2O)
thấm ướt làm soi ṃn phần đất bên trên nguồn nước ngầm mà tạo
thành những hố ch́m (sink holes).Những nhận định này cho chúng
ta thấy rơ CO2 trong
không khí là mối họa lớn cho Địa cầu ngày nay.
*Địa cầu bị hạn hán là do bởi không đủ lượng mưa và cây cối
không có đủ CO2 để
thở."Nhiệt độ nóng lên làm nghẻn đi các lổ khí trên cây đóng
lại để cây tránh bị mất nước, nhưng làm cây không nhận được CO2 và
qúa tŕnh quang hợp bị ức chế, cản trở việc tạo ra dưởng chất để
nuôi cây, v́ rừng thiếu nước và cây không dể tiếp thu CO2" (RFA.nov/2012),
khiến lá khô cằn hơn, dễ bị cháy, v́ khối khí CO2 thải ra từ xí
nghiệp bị giữ ở trên bầu trời.Giáo sư Kostas Konstantinidis,
thuộc viện công nghệ Georgia phát hiện ra một số lượng rất lớn
các vi khuẩn có khả năng hấp thụ các phân tử có chứa C (carbon),
chủ yếu đến từ khí thải CO2 ở tầng khí quyển đối lưu trên độ cao
giữa 6-10 km.(rfi.nov/2013)
Nguyên nhân do bởi mây M(CO2+26.H2O) gây nên thời tiết khác
thường, những nơi có núi cao trên 3, 000 m sẽ là vùng có trận
"đại hồng thủy, những đồng bằng nơi có mạch nước ngầm sẽ có "hố
ch́m" xuất hiện.Để tránh hiểm họa này, Địa cầu cần thu hồi lượng
CO2 kỹ nghệ để giảm bớt CO2 trên bầu trời.
Theo lư thuyết th́ thu hồi O2 từ CO2, trên chứng minh th́ dùng
N2 tác dụng vào CO2, thực tế phản ứng rơ ràng như sau:
CO2 + 4.N2 cho ra C+ (O2+4.N2).
Như thế phải có N2 trong ống thải khói vỉnh viển, thuyết bảo-ḥa
cho chúng ta một kim loại có nguyên tử lượng m=28, đó là Alumium
(Al.m27), khi bảo-ḥa với không khí (m=29) th́ thành Al, m28 như
sau
M(không khí+2.Al) có m=28 là phân tử lượng N2.
Trong ống thải khói trang bị bộ lọc Al.m28 (nitro kim loại),
loại nhom này sẽ giữ O2 trong dạng M(O2+4.Al.m28) do nhiệt từ
ống khói (v́ Bảo ḥa là hiện tượng thu nhiệt), và Carbon
cùng đọng lại trên thành nhom (Al.m28).Để giải trừ
M(O2+4.Al.m28) chỉ cần cho không khí thông qua ống khói
th́ Oxygen sẽ theo ra ngoài và C (kim loại) sẽ rơi về
phần đáy ống khói.
f-Bảo-ḥa trong con người.
Con người cần không khí (1.O+4.N), có thể nói không khí là dược
chất tạo hóa cho con người.
- O2 vào
thân thể kết hợp CO (sinh ra bởi sự đốt C không hoàn tất) thành
CO2 thở
ra ngoài, O2 có
nhiệm vụ làm sạch mạch máu, v́ khi CO chiếm đầy trong máu th́
máu không thể nhận O2,
con người sẽ chết.Con người thở ra CO2 là
kết qủa của "O2+2.CO
cho ra 2.CO2 ".
-N2 là
chất đạm nuôi dưởng 4 phần chính trong cơ thể:bộ nảo, bộ ḷng
(organ), bộ xương và các cơ bắp thịt da.
*Cở size electron O bằng 7, 9994/8 = 0, 99999 cũng là tác nhân
gây bệnh trong dạng oxit hóa.
*Cở size electron N bằng 1, 001 là chất có tính phóng xạ nhẹ
(nên bám chặc trong cơ thể).
*N2 và
CO đều có trọng khối m=28 và cùng ảnh hưởng tồn vong con người,
N2 là
sự sống, CO là sư chết (mầm sinh tế bào ung thư).
*Trong cách nh́n này chúng ta sẽ có quan niệm về y học để bảo vệ
sức khỏe con người.
*Triệu chứng bịnh thường gây bởi oxít hóa, thân nhiệt cao, môi
trường acít mạnh như trạng thái bứu v.v..Nhưng khi sự đạm hóa
mạnh môi trường kiềm tăng (pH trên 7) kháng thể tŕ trệ, bịnh
cũng dễ phát sinh. Bởi thế trong cơ thể con người cần mầm oxit
hóa để đạm hóa phát triển giữ thân nhiệt thích nghi khoảng
37°C-39, 7°C, trong nhiệt độ này con người khỏe mạnh, v́
không ảnh hưởng bởi "bức xạ". Hiện tượng trên 40°C sẽ khởi mầm
gây hại các tế bào trong thân thể, nhưng dưới 37°C sẽ làm tŕ
trệ sự sống của tế bào và diệt cả các tumor.
Bởi nguyên lư này nên quan niệm xạ trị không thể dùng nhiệt bức
xạ trên 40o C, v́ sẽ gây mầm tumor phân tán vào các tế bào
khác.Về phần hóa trị:Hóa chất trị liệu phải có m=28 bảo-ḥa với
hóa chất khác có m=32 trong dung dịch mà chúng ta thường gọi là
nước biển (thật ra trong thân thể con người không có độ muối
thích nghi sẽ ảnh hưởng trí nhớ con người), như thế hóa liệu an
toàn và không sinh phản ứng phụ.
Những quan niệm về "Nguyên lư bảo ḥa" suy diển từ không
khí Địa cầu: Bảo-ḥa M(1.O2+4.N2)
và biện chứng theo Hệ thức:
M(A+B)=n.a+(a-b)b và m=b+n.
Hệ thức tôi viết khi học năm thứ 2 CSHH (69-70), sau 1 năm học
MPC ở ĐHKH/SG, dựa trên lư luận căn bản hóa-học:
A+B cho ra C+D.
* A và B tự đánh vở phân tử (hiện tượng phát nhiệt).
* C và D hợp thành phân tử mới (hiện tượng thu nhiệt).
* Hiện tượng bảo-ḅa có kết qủa như C và D (thu nhiệt).
Một vài suy nghỉ mang tính quái gỡ có khác với quan niệm chung
nhưng không sẽ là những quan niệm tào lao, sau 2 năm đắn đo, nay
tôi viết gọn lại kính mong anh chị duyệt lại coi như chấm bại dư
tuyển.
Thành thật cảm ơn.