ôi có một người bạn vong niên trước năm 1954 là đảng viên đảng cộng
sản Việt Nam. Trên chiến khu ông được phân công phụ trách về báo
chí, trong một lần nói chuyện với tôi về đảng này, phái nọ, ông đă
dẫn lời Mao Trạch Đông: “ Đảng ngoại vô đảng, đế vương tư tưởng;
Đảng nội vô phái, thiên kỳ bách quái!” (Ngoài đảng không có đảng
nào nữa, là ư nghĩ của vua chúa; Trong đảng mà không có phe phái, là
chuyện vô cùng kỳ quặc!). Nghe xong tôi liền hỏi ông v́ sao
“Đảng ngoại vô đảng” lại là “ đế vương tư tưởng?”. Ông đă
chấp nhận với tôi làm người “bất tri vi bất tri” (không biết ,nói là
không biết). Thắc mắc ấy vẫn luôn bám lấy tôi.
Vừa qua trong lúc t́m kiếm ư nghĩa 4 chữ “ chính trực đăng b́nh”
được viết bằng chữ Hán, gắn ở mặt phía nam của phường môn thứ nhất tính từ
Ngọ môn vào điện Thái Ḥa ở Huế, tôi bắt gặp trong Kinh Thư , thiên Hồng
Phạm có câu : “ Vô thiên, vô đảng vương đạo đăng đăng; Vô đảng, vô
thiên vương đạo b́nh b́nh; Vô phản, vô trắc vương đạo chính trực”(Không
thiên lệch, không bè đảng, đạo vua rộng lớn; Không bè đảng, không thiên
lệch đạo vua bằng phẳng; Không phản lại, không nghiêng về một bên đạo vua
ngay thẳng”. Như vậy câu “ Đảng ngoại vô đảng, đế vương tư tưởng”
được lấy ư từ câu “ Vô thiên, vô đảng vương đạo đăng đăng; Vô đảng vô
thiên vương đạo b́nh b́nh”.
Đức Khổng tử đă dạy các đệ tử : “Quân tử căng nhi bất tranh, quần
nhi bất đảng” (Người quân tử tự chủ lấy ḿnh, nhưng không tranh chấp
với ai, hợp quần với người một cách ôn ḥa nhưng không theo phái này đảng
kia – Luận Ngữ: Vệ Linh công, VIII, 21). Quân tử là những người tốt, người
có ích cho xă hội luôn giữ ḿnh “bất tranh” và “bất đảng”.
Do “ bất tranh, bất đảng” nên : “ Quân tử ḥa nhi bất đồng”(Người
quân tử giao tiếp với người th́ giữ niềm ḥa lạc, nhưng không đồng t́nh
trong việc quấy) ngược lại “ Tiểu nhân đồng, nhi bất ḥa”( Kẻ tiểu
nhân khi giao tiếp với người th́ đồng t́nh trong việc quấy, nhưng chẳng
giữ niềm ḥa lạc - Luận ngữ: Tử Lộ XII, 23).
Thấm nhuần lời dạy của vị “Vạn thế sư biểu” cho nên ông bà ta
xưa khi nghe đến từ “đảng” th́ không có thiện cảm và nghĩ ngay đến
“lũ lâu la” hoặc “ bọn lục lâm thảo khấu”. Trong truyện Lục
Vân Tiên có đoạn đối thoại giữa Lục Vân Tiên và những người dân chạy nạn:
“ Tiên rằng: “Bớ chú cơng con/ Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?”/Dân
rằng: “Tiểu tử là ai/ Hay là một đảng sơn đài theo tao?”/ Tiên rằng: “ Cớ
sự làm sao/ Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời”/ Dân nghe tiếng nói khoan
thai/ Kêu nhau dừng lại bày lời phân qua/ “Nhân rày có đảng hung đồ/ Tên
rằng Đỗ Dự, hiệu là Phong Lai/ Nhóm nhau ở chốn sơn đài/ Người đều sợ nó,
có tài khôn đương/…/ E khi mắc đảng hành hung/ Uổng trang thục nữ sánh
cùng thất phu…”. Nghe đến “đảng hung đồ” th́ “người đều sợ
nó” bởi nó là thứ “hồ đồ hại dân”.
Trong tác phẩm “ T́m về cội nguồn chữ Hán”, trang 951 do Nhà xuất bản
Thế Giới, xuất bản năm 1997 có giải thích chữ “đảng” viết bằng chữ
Hán, gồm: bên trên là chữ “ thượng” có nghĩa là chuộng, là tôn sùng
và dùng chỉ âm đọc; bên dưới là chữ “hắc” có nghĩa là tối, là tăm
tối và dùng để chỉ nghĩa. Vậy “đảng” nghĩa gốc : chuộng sự tăm tối,
chỉ nghĩa tập đoàn, người xưa thường dùng với nghĩa xấu khác với ngày nay.
Từ điển Hán Việt, Hán ngữ cổ đại và hiện đại, trang 2287 của Trần Văn
Chánh do Nhà xuất bản Trẻ xuất bản giải thích chữ “đảng”: Băng, nhóm, bè,
lũ, bè đảng. Ví dụ như : “Kết đảng doanh tư” là gây bè kết đảng
hoặc “Hồ quần cẩu đảng”: Bạn bè đàng điếm, đồ đảng vây cánh, bè lũ
xôi thịt. Ngoài ra “đảng” c̣n có nghĩa là che chở, bênh vực. Ví dụ:
“Đảng đồng phạt dị” là bênh vực những người cùng bè phái và công kích
những người khác phái.
Do “dị ứng” khi nghe đến cái tiếng “đảng”, cho nên người xưa
thích sống trong một xứ sở “vô thiên, vô đảng”. Ở xứ sở mà “ vô
thiên, vô đảng” th́ kẻ hiền tài “bất đảng” sẽ có cơ hội giúp
nước mà không bị đối xử phân biệt hoặc bị vùi dập. Có như vậy xă hội mới
“chính trực đăng b́nh” .