Tại sao chú ý về cúm?
Mở đầu của Tôn Tử
Binh Pháp (Art of War), quốc phòng là một việc quan trọng nhất của một
quốc gia và chủng tộc. Sự độc lập của một quốc gia và sự sống còn của một
chủng tộc tùy thuộc vào sự sắp xếp và quản lý hệ thống phòng thủ của quốc
gia đó. Theo Tôn Tử, “chúng ta muốn lập một hệ thống phòng thủ, chúng ta
phải có tiền. Tiền là một chỉ dấu của nền kinh tế. Tiền ở trong tay
người dân thì dân giàu nước mạnh. Tiền ở trong ngân quỹ của nhà nước
nhiều, viên chức chính phủ sẽ tự phụ vênh váo và hay gây ra chiến tranh có
hại cho quốc gia. “ .
Trong sự phát triển
kinh tế, có 2 yếu tố quan trọng. Đó là con người hay lực lượng lao động
chân tay & có trí thức và tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên
có thể mua được nhưng lực lượng lao động phải được đào tạo và bảo vệ. Yếu
tố bảo vệ lao động thuộc về y tế, phòng bệnh và chữa bệnh. Dịch cúm là
một y tế công cộng ảnh hưởng đến kinh tế và sinh mạng của lực lượng lao
động nhiều nhất trong các thể bệnh đau! Không một biến cố nào từ chiến
tranh, tai họa thiên nhiên… từ trước đến nay giết nhiều người trên thế
giới như trận dịch cúm 1918. Hơn 100 triệu người chết (50 triệu người
chết vì loại siêu vi cúm này được xác nhận) vì cúm trên toàn thế giới vào
năm 1918. Trung Quốc là một trong những quốc gia nghiên cứu nhiều về cúm.
Đây là lý do tại sao những quốc gia tiên tiến trên thế giới như Mỹ,
Canada, Nhật, Anh, Pháp Đức… chủng ngừa cúm cho toàn dân (nếu người nào
muốn được chủng ngừa). Các công ty lớn của Canada đều chủng ngừa công
nhân của họ miễn phí và đầu tiên khi mùa cúm sắp xảy ra. Chính phủ tỉnh
bang Ontario, Canada là một tổ chức chính phủ tỉnh bang đầu tiên trên thế
giới chi phí cho sự chủng ngừa cúm hàng năm cho toàn dân tỉnh bang Ontario
nếu họ muốn. Chính phủ liên bang Canada là chính phủ đầu tiên trên thế
giới đã đặt mua 50 triệu liều thuốc chủng cúm heo A/H1N1 (2009) (trị giá
khoảng 1 tỉ dollars) trong khi đó dân số của Canada chỉ khoảng 33 triệu
người! Chính phủ Mỹ khởi đầu đặt mua 100 triệu liều thuốc chủng cúm heo
này với giá 2 tỉ dollars (dân số của Mỹ khoảng 330 triệu dân), và họ sẻ
tiếp tục chủng ngừa cho những người dân nào muốn chủng ngừa cúm heo
A/H1N1.
Có vài danh từ tôi xử
dụng được dịch theo ý nghĩa và chức năng để bao hàm ý nghĩa cho đúng hơn:
·
Avian influenza:
cúm cầm điểu. Vì danh từ cúm
gia cầm chỉ cho bệnh cúm ở gia cầm nhưng những siêu vi này còn gây bệnh ở
các loài cầm điểu khác, ngay cả ở loài thủy cầm điểu là ký chủ chính
(primary host) của những siêu vi này.
·
Antigenic drift:
kháng nguyên trôi dạt (trước đây
tôi gọi là những biến đổi nhỏ)
·
Antigenic shift:
kháng nguyên luân lưu (trước đây
tôi gọi là những biến đổi lớn)
Tóm lược những đặc tính của siêu vi cúm:
Siêu vi cúm có hình
cầu hay hình sợi nhỏ có chiều dài 80-120 nm. Chúng có những gai HA và NA
trên bề mặt. Siêu vi cúm gây bệnh cúm ở người được chia ra làm 3 loại
dựa trên sự khác biệt về cơ cấu di truyền và kháng nguyên:
1.
Siêu vi cúm A có thể gây ra đại dịch:
được chia ra 16 loại phụ nếu căn cứ trên nhân di truyền của gai HA, và 9
loại phụ nếu căn cứ trên gai NA. Chúng gây bệnh và cho nhiều tử vong đặc
biệt ở những người trẻ tuổi.
2.
Siêu vi cúm B gây bệnh nặng ở những người lớn tuổi và những người có bệnh
kinh niên. Chúng gây ra dịch nhỏ nhưng không gây ra đại dịch.
3.
Siêu vi cúm C gây ra bệnh nhẹ và không gây ra những trận dịch hay đại dịch.
Chúng thường gây ra bệnh xảy ra lẻ tẻ.
Đề tài ở đây là vấn đề đại dịch nên chúng ta chỉ bàn đến siêu
vi cúm A. Mặc dù, những trận dịch cúm được con người ghi nhận cách đây
400 năm nhưng bác sỉ Smith và cộng sự viên tìm thấy siêu vi cúm A lần đầu
tiên ở chồn sương (ferrets) vào năm 1933. Sự khám phá của bác sỉ Burnet
năm 1936 rằng siêu vi cúm có thể mọc trên phôi trứng gà (embryonated hen
egg) đã giúp cho sự nghiên cứu về siêu vi cúm và làm ra thuốc chủng ngừa.
Cũng từ đó, con người đã và đang tìm hiểu về siêu vi cúm sâu sắc hơn và
đang tìm cách chinh phục bệnh này, đặc biệt là đại dịch. Các loài thủy
cầm điểu (aquatic birds) thiên di là ký chủ tự nhiên (primary hosts) của
các loài phụ (subtypes) siêu vi cúm A. Siêu vi cúm A sống trong ruột của
các loài cầm điểu này mà không làm cho ký chủ chết. Người và gia cầm chỉ
là ký chủ phụ (secondary hosts), tạm thời nên chúng thường làm ký chủ phụ
chết. Đôi khi, siêu vi cúm A thay đổi cơ cấu di truyền và trở nên rất độc
và giết chết ngay cả ký chủ chính nên chúng ta đôi khi thấy hàng loạt
nhiều cầm điểu thiên di chết hàng loạt.
Những Nhân Di Truyền và Những Sản Phẩm Chất Đạm
của Siêu Vi Cúm A
Số của Khúc RNA |
Mô Tả Sản Phẩm Nhân Di Truyền |
Tên của Chất Đạm |
Những Chức Năng Được Quan Sát |
1 |
PB1
PB1-F2 |
Phân hóa tố trùng hợp căn bản 1 |
Phân hóa tố diển dịch RNA (transcriptase)
trước khi làm tế bào ký chủ chết (Proapoptotic) |
2 |
PB2 |
Phân hóa tố trùng hợp căn bản 2 |
Phân hóa tố cắt nút chặn của mRNA của ký chủ và nối nút chặn của siêu
vi (Cap binding, endonucleolytic cleavage) |
3 |
PA |
Phân hóa tố trùng hợp có tính acid |
Không rỏ |
4 |
HA |
Hemagglutinin |
Siêu vi dùng để bám vào màng tế bào ký chủ và kết dính lại |
5 |
NA |
Neuraminidase |
Cắt sialic acid từ trên bề mặt tế bào ký chủ; giải thoát cho những
siêu vi mới tái tạo; ngừa sự dính chùm của siêu vi |
6 |
NP |
Nucleoprotein |
Gói RNA lại (Encapsidates RNA); Điều hành sự sao chép và tái tạo |
7 |
M |
Matrix (Chất nền) |
Bao quanh nhân siêu vi; điều khiển sự xuất ra khỏi nhân của RNA |
|
M2 |
Matrix 2 |
Đường hầm ion; cần cho RNA đi ra khỏi siêu vi để vào trong tế bào ký
chủ |
8 |
NS1 |
Chất đạm không thuộc về cơ cấu kiến trúc |
Chống lại interferons loại I, có lẻ liên quan đến sự điều hành của sự
vận chuyển mRNA từ nhân tế bào ký chủ |
|
NEP (NS2) |
Chất đạm vận chuyển từ nhân |
Vận chuyển ribonucleoprotein (RNP) mới thành lập từ nhân đi ra tế bào
chất của tế bào ký chủ |
Siêu
vi cúm A có hình dạng một khối hình cầu hay hình bầu dục với 2 loại gai,
HA và NA nằm trên bề mặt của siêu vi. Mỗi gai HA có đường kính 4 nm và
dài 14 nm. Người ta có thể tách rời gai HA từ siêu vi bằng sodium dodecyl
sulfate, bromelane, hay chymotrypsin. Mỗi gai HA dùng để cắt có 3 phân tử
HA polypeptides. Mỗi phân tử này có trọng lượng phân tử (molecular
weight) là 75.000 đến 80.000, và trọng lượng phân tử của gai HA là
224.640. Gai HA được tổng hợp thành một phân tử trùng hợp HA0 sẽ
bị cắt ra thành 2 phần HA1 và HA2 bởi phân hóa tố
protease của tế bào ký chủ. Địa điểm cho kháng nguyên và nơi bám dính vào
màng tế bào ký chủ của HA nằm trên đầu hình bầu dục của gai này.
Gai NA là một phân hóa tố giúp cắt bỏ đoạn cuối của sialic
acids (N-acetyl neuraminic acid) từ sialic acid. Gai này cũng chứa
glycoproteins. Nó có hình cái nấm (mushroom) và có trọng lượng phân tử
khoảng 240.000. Một gai NA nguyên vẹn là một phân tử trùng hợp có 4 NA
polypeptides (chất đạm: amino acids < peptides hay polypeptides <
proteins), mỗi polypeptide có trọng lượng phân tử 58.000. Những kháng
nguyên của NA nằm trên cái tàng lộng của quả nấm.
Vỏ của siêu vi cấu tạo bởi chất đạm M, bao gồm đạm M1 chiếm hầu
hết vỏ siêu vi và đạm M2 chiếm một phần nhỏ vỏ siêu vi cũng là những đường
hầm điện tử (ion channel: đường lưu thông theo sự chọn lọc). Bên trong vỏ
bọc siêu vi có 8 khúc nucleocapsids (khúc nhân di truyền) là những khúc
RNA. Mỗi khúc bao gồm nucleoprotein (NP: đạm nhân) với 3 phân hóa tố
trùng hợp PB1, PB2, và PA ở một đầu và đầu kia với 2 chất đạm không thuộc
về cơ cấu NS1 và NS2 (hay còn gọi là NEP). Sau khi bám vào màng tế bào ký
chủ, siêu vi cúm A sẽ xuất cảng những khúc nucleocapsids này vào bên trong
tế bào ký chủ. Những khúc này sẽ điều động tế bào ký chủ tạo ra những
siêu vi cúm mới. Gai NA sẽ cắt bỏ sialic acid để cho những siêu vi cúm
mới thoát ra và tiếp tục chu kỳ gây bệnh.
Vào năm 1997, Hồng Kông đối phó một dịch bệnh cúm giết chết 60%
người bệnh. Nếu trận dịch xảy ra, các cơ sở y tế sẽ bị tràn ngập và sẽ
không đối phó hửu hiệu và số tử vong sẽ lên cao hơn. Người ta tìm thấy
một loại siêu vi cúm mới rất dữ A/H5N1 (high pathogenic avian influenza:
HPAI). Trận dịch siêu vi cúm này được trấn áp nhanh chóng . Mãi đến
tháng giêng 2004, Tổ Chức Y Tế Quốc Tế (WHO) báo động khi người ta phát
hiện trường hợp đầu tiên tái xuất hiện của loại siêu vi cúm gia cầm A/H5N1
ở người tại Việt Nam và Thái Lan. Bệnh lan truyền trực tiếp từ gia cầm
sang người, không như những suy nghỉ trước đó là cúm gia cầm truyền qua
một ký chủ trung gian (heo) để có thời gian thích ứng và truyền sang người.
Đến tháng 9 năm 2004, đe dọa đại dịch cúm A/H5N1 có thể trở nên hiện thực
khi trường hợp đầu tiên bệnh này xảy ra do lây lan từ người sang người.
Sau đó, sự xuất hiện những trường hợp bệnh cúm gia cầm lẻ tẻ khắp thế giới
làm cho mọi quốc gia trên thế giới càng lo lắng nhiều hơn.
Đại dịch cúm với những rủi ro và khó khăn:
Những đại dịch cúm là những bùng phát mạnh
tiến triển nhanh chóng trong nhiều phần của thế giới và được đi đôi với sự
xuất hiện của siêu vi mới mà đa số dân chúng toàn thế giới không có miễn
nhiễm với siêu vi này. Những đặc tính của những đại dịch
cúm bao gồm sự lan truyền cực kỳ nhanh chóng với những bùng phát xảy ra
cùng lúc trên toàn thế giới; sự xảy ra của bệnh ngoài mùa thường lệ, bao
gồm trong những tháng hè; những tốc độ tấn công cao ở trong tất cả lứa
tuổi, với tỉ lệ tử vong cao đặc biệt là ở những người trẻ tuổi khỏe mạnh;
và nhiều đợt bệnh ngay trước và sau khi sự bùng phát chính xảy ra. Khoảng
cách giữa những đại dịch là rất biến đổi và không tiên đoán trước được,
nhưng những đại dịch của cúm có lẻ sẽ tiếp tục xảy ra trong tương lai.
Chúng ta nhìn lại lịch sử. Vào năm 1918, khi cúm cầm điểu A/1918/H1N1 lây
trực tiếp từ cầm điểu qua loài người và heo. Cho nên đứng về di truyền
học, những nhân di truyền của cúm cầm điểu (avian influenza A virus)
A/H1N1, cúm heo A/H1N1 (1918) và cúm đại dịch A/H1N1 (1918) gần như nhau.
Đại dịch cúm 1918 xảy ra sau đó và đã giết chết hơn nhiều triệu người trên
toàn thế giới. Chính điều này làm tất cả các chuyên gia về cúm trên toàn
thế giới lo sợ lịch sử lại tái diễn.
Để đáp ứng với đại dịch xảy ra,
người ta có thể tích trữ thuốc trị bệnh cúm như Tamiflu, Relenza hay chủng
ngừa cho toàn dân. Vào năm 2004, khi tôi nêu lên chủ trương chủng ngừa
toàn dân của các nhà nghiên cứu về cúm trên thế giới trong đề tài “Cúm ở
Người Và Cúm Gia Cầm”, một chuyên viên y tế đã phát biểu trên đài VOA rằng
đây là một đề nghị không thực tế! Thuốc Tamiflu được chọn là thuốc để đáp
ứng cho đại dịch. Thuốc Relenza được dùng như một thuốc
phòng bị trong
trường hợp Tamiflu bị siêu vi cúm A/H5N1 đề kháng. Và các đại dược phòng
(pharmaceutical companies) trên thế giới chạy đua với thời gian để bào chế
một loại thuốc mới mà siêu vi cúm khó mà đề kháng. Hiện nay, thuốc được
thử nghiệm trên người thành công nhất là premiavir (có thể chích thẳng vào
trong tỉnh mạch để điều trị cho trường hợp bệnh nặng). Ngoài ra, người ta
cũng vừa thành công trong một trường hợp dùng Tamiflu được bào chế đặc
biệt chích thẳng vào tĩnh mạch.
Những quốc gia còn
nghèo hay quá đông dân cũng khó đáp ứng một cách hửu hiệu nếu trường hợp
đại dịch của cúm A/H5N1 xảy ra. Những lý do sau đây sẽ giới hạn sự đáp
ứng với những bùng phát của đại dịch:
1.
Thuốc chống cúm còn quá mắc và sự sản xuất vẩn còn giới hạn. Một liều
thuốc chủng cúm từ heo A/H1N1 (2009), Arepanrix trị giá 26 đô Canada nếu
mua với khối lượng lớn nhiều triệu liều.
2.
Hiện nay, kỹ thuật làm thuốc chủng ngừa cúm mất ít nhất là 6 tháng mới tạo
được mẻ thuốc chủng đầu tiên. Trong trường hợp một đại dịch gây bởi siêu
vi cúm A/H5N1 xảy ra, gà sẽ chết rất nhanh. Do đó, sự cung cấp phôi trứng
(embryonated hen egg) sẽ bị giới hạn hoặc không còn trong nhiều nơi. Kỹ
thuật nuôi cấy siêu vi cúm trong môi trường với những tế bào của động vật
có vú vẩn chưa được nghiên cứu và thử thách trên người một cách kỹ lưỡng.
3.
Phương pháp xử dụng thuốc chống siêu vi cúm khi dịch cúm khởi đầu trong
khi chờ đợi thuốc chủng ngừa sản xuất. Thuốc thuộc nhóm adamantanes (amantadine
và rimantadine) đều bị siêu vi cúm cầm điểu A/H5N1 đề kháng. Thuốc thuộc
nhóm neuraminidase inhibitors như Tamiflu (oseltamivir) và Relenza (zanamivir)
vẩn còn hiệu quả. Thuốc peramivir chưa có sẵn trên thị trường và còn
trong thời gian thử nghiệm lâm sàng trên người. Thuốc Relenza có nhiều
giới hạn khi xử dụng ở lâm sàng như những bệnh nhân bị hen suyễn hay bị
viêm phế nang (consolidation) với phù nề phế nang mà thuốc này không thấm
qua được. Hơn nửa, nồng độ trong máu của thuốc này thấp nên khó mà trị
cho những trường hợp siêu vi cúm A/H5N1 nhiễm toàn thân (systemic
infection). Thuốc Tamiflu có nồng độ trong máu tốt và ít có những phản
ứng phụ nên bệnh nhân xử dụng dể dàng. Tuy nhiên, một cô lập ở một cô gái
bị nhiễm A/H5N1 có đề kháng với Tamiflu do chất đạm neuraminidase có sự
đột biến, thay đổi tyrosine amino acid ở vị trí 274 bằng histidine amino
acid. Cô gái này đã uống thuốc ngừa Tamiflu 75 mg (1 viên) mỗi ngày.
Điều này cho thấy không nên dùng Tamiflu để ngừa bệnh cúm cầm điểu này.
Ngoài ra, người ta đã thử hổn hợp giữa các thuốc neuraminidase inhibitors
với nhau và với những thuốc adamantanes, vibavirin… nhưng kết quả cũng chỉ
có hiệu quả giới hạn và khi xử dụng trên phương diện cho đại chúng sẽ là
vấn đề lớn và không phải tất cả các bác sỉ trên thế giới đều là những
chuyên gia về trị cúm. Qua kinh nghiệm đối phó với cúm từ heo đại dịch
A/2009/H1N1 cho thấy rằng dù siêu vi cúm này không có tính dữ như siêu vi
cúm cầm điểu A/H5N1 nhưng cũng đã có nhiều người đã chết, một phần do
nhiễm vi khuẩn thứ cấp. Ngay cả vài bác sỉ ở tại Mỹ hay Canada cũng không
nhìn thấy sự cần thiết kháng sinh ngay từ đầu khi bệnh nhân bị nhiễm cúm
này. Dù số bệnh nhân chết còn ít so với các nhiễm cúm theo mùa (seasonal
flu). Một bệnh nhân chết cũng là quá nhiều đứng trên cái nhìn của người
bệnh. Chúng ta không thể lấy thống kê để cho lòng bớt bứt rứt. Hiện nay
có hai nhóm bác sĩ người Anh và Mỹ đang nghiên cứu và thử nghiệm phương
pháp điều trị bệnh cúm với thuốc chống gai neuraminidase đi kèm với một
kháng sinh dù cho bệnh nhân có nhiễm trùng thứ cấp (secondary bacterial
infection) hay không, như tôi đã trình bày phương pháp điều trị cúm heo
của tôi trong bài “Những Đợt Đại Dịch Cúm Heo”.
Canada chế tạo thuốc
chủng cho cúm gia cầm A/H5N1 đầu tiên trên phôi trứng theo kỷ thuật làm
thuốc chủng cho cúm theo mùa (seasonal flu) vào năm 2004. Sau đó Mỹ thành
công trong việc chế tạo thuốc chủng này vào năm 2005. Thuốc chủng ngừa
cúm heo A/H1N1 (Arepanrix) hiện nay tại Canada được làm theo kỷ thuật của
thuốc chủng ngừa cho siêu vi cúm A/H5N1 với chất thêm vào (adjuvant) MF-59
có màu đục như sữa và một loại không có chất thêm vào hơi đục (opalescent)
như thuốc chủng ngừa cúm theo mùa. Hiện nay ở Mỹ, FDA (Foods and Drugs
Administration) chỉ cho phép xử dụng chất thêm vào (adjuvant) aluminum
hydroxide.
Từ những biện pháp
trên, khả năng đáp ứng với đại dịch cúm còn quá nhiều rủi ro nhất là những
người còn quá trẻ (tương lai và là vận mệnh của đất nước) và những người ở
tuổi 50 hay già hơn. Ở những lứa tuổi này, họ là những người lao động có
nhiều kinh nghiệm trong nhân lực sản xuất. Những người ở lứa tuổi 50 cũng
là những người lao động chân tay và trí óc có nhiều kinh nghiệm và sáng
tạo ở đỉnh cao nhất của sự nghiệp. Họ là những người bắt đầu có những
bệnh mản tính như bệnh tiểu đường loại 2, viêm cuống phổi mản tính (COPD),
bệnh thiếu máu cơ tim, bệnh ung thư…. và họ cũng là những người dể bị chết
khi bị bệnh cúm. Muốn đào tạo một người có nhiều kinh nghiệm trong sản
xuất hay lao động trí óc, một quốc gia phải mất 20-40 năm. Những kinh
nghiệm này mất đi ảnh hưởng rất lớn sự phát triển rất lớn của một quốc gia
mới phát triển hay chậm phát triển. Bệnh cúm không ai tránh được cả.
Ngay cả 2 Tổng thống của Nam Mỹ đã bị nhiễm cúm heo A/H1N1 và 1 cố vấn
quân sự cao cấp của họ đã chết vì bệnh này. Theo ý kiến của tôi, bệnh cúm
ảnh hưởng rất sâu đậm ở những quốc gia nghèo hơn quốc gia tiên tiến. Các
nhà kinh tế học chỉ nhìn vào con số sản phẩm quốc gia bị suy giãm sau một
trận dịch hay đại dịch chứ họ không tính toán sự tổn hại của về lâu về dài
của một trận đại dịch. Theo sự nghiên cứu của các chuyên gia về cúm, các
người đàn bà mang thai bị mắc bệnh cúm A/H1N1 năm 1918 bị hư thai rất
nhiều và những bào thai sống sót cho ra đời những trẻ sống èo ọt khó nuôi
và đã ảnh hưởng sâu đậm cho cả một thế hệ về sau trận đại dịch này. Ngoài
ra, họ bị giãm tuổi thọ đến 10 năm. Rút kinh nghiệm này, Mỹ và Canada đã
quyết định trị liệu những người đàn bà có thai bằng Tamiflu mà không do dự
và họ đã làm riêng một thứ thuốc chủng (unadjuvanted flu vaccine) dựa theo
phương pháp an toàn nhất cho những người mang thai được chủng ngừa sớm.
Cho đến khi con người tìm ra biện pháp ngăn chận một cách vỉnh cửu về bệnh
cúm như bệnh sốt tê liệt. Tôi không biết là các nhà kinh tế học có tìm
hiểu thêm về bệnh cúm về những điểm này để tính toán cho chính xác hơn và
cố vấn các giới chức có thẩm quyền chính xác hơn nhằm giúp những quốc gia
chậm tiến có những chuẩn bị đối phó tốt đẹp hơn. Có thể trận đại dịch
A/H1N1 này không ảnh hưởng nhiều về kinh tế nhưng trận đại dịch sắp đến
của siêu vi cúm A/H5N1 sẽ là một vấn nạn cho nhiều quốc gia trên thế giới.
Cơ chế và nguyên do của đại dịch cúm xảy ra:
Trước hết chúng ta
tìm hiểu tại sao dịch cúm và đại dịch cúm lại xảy ra? Một trong những nét
đặc biệt độc đáo của siêu vi cúm là sự thay đổi thường xuyên của nhân di
truyền kháng nguyên của chúng (xin đọc phần đọc thêm để hiểu rỏ hơn điểm
này). Chúng ta gọi chung là sự biến đổi kháng nguyên (antigenic
variation). Sự thay đổi cơ cấu kháng nguyên đưa đến sự nhiễm siêu vi
trong dân chúng với những biến thể mà dân chúng có ít hoặc không có sự đề
kháng. Hiện tượng biến thể này giúp chúng ta cắt nghĩa tại sao chúng ta
không thể nào chận đứng bệnh cúm như những bệnh nhiễm trùng khác. Sự biến
đổi kháng nguyên liên quan đến 2 glycoproteins ở bên ngoài, HA và NA. Tôi
thường gọi chúng là gai HA và gai NA.
Biến đổi nhỏ hay còn gọi là biến đổi trôi dạt (antigenic drift).
Đúng
với tên gọi, mỗi lần siêu vi xâm nhập vào cơ thể con người hay động vật
gây nhiễm trùng và sau đó chúng “mượn đở” những nhân di truyền hay chất
đạm của ký chủ để trở thành một siêu vi cúm hơi khác hơn trước khi chúng
xâm nhập ký chủ. Tôi gọi siêu vi cúm A là những nhà ảo thuật gia. Biến
đổi trôi dạt được nghiên cứu rất sâu sắc hiện nay. Người ta biết rằng
biến đổi này là sự tích lủy dần những amino acids trên 5 địa điểm chính
của kháng nguyên trên gai HA mà người ta biết được hiện nay. Những
biến đổi rất khó theo dỏi và chỉ những biến đổi đáng kể khi có 2 hay nhiều
hơn những địa điểm chính của kháng nguyên có thay đổi Không phải tất cả
những biến đổi kháng nguyên này được tồn tại. Chỉ những thể nào gặp
những ký chủ chưa nhận diện được chúng sẽ bị nhiễm trùng và gây bệnh sẽ
tồn tại. Chính những biến thể này gây ra những trận dịch (epidemic) có
tính cách địa phương hay trong một quốc gia. Người ta có thể sản xuất
kháng nguyên biến đổi từ trong những
tế bào được cấy trong sự hiện diện
giới hạn của kháng thể. Và biến thể kháng nguyên được sản xuất từ trong
tế bào có chuổi amino acids (amino acid sequences) đơn độc trong gai HA
tương tự như những biến thể trôi dạt (biến thể nhỏ).
Tuy người ta không
nghiên cứu sâu sắc hiện tượng này ở gai NA, kháng nguyên trôi dạt
(antigenic drift) cũng xảy ra ở gai NA. Những amino
acids cũng được thay
thế trong những yếu tố di truyền quyết định kháng nguyên (epitopes) của
gai này. Một hiện tượng tương đương với kháng nguyên trôi dạt cũng đã
được mô tả cho vài yếu tố di truyền quyết định kháng nguyên (epitopes)
được nhận ra bởi những tế bào miễn nhiễm cãm ứng (cellular immune
effectors). Do giá phải trả cho sự thích nghi với môi trường của siêu vi
cúm, và nhiều loại khác nhau của HLA (the diversity of human leukocyte
antigen types) trong dân chúng, người ta suy
đoán rằng có sự giới hạn của
những biến đổi của gai NA.
Khi sự thay đổi di truyền của những yếu tố di truyền quyết
định kháng nguyên ở gai HA lên đến 30% hay nhiều hơn của toàn thể kháng
nguyên trên nhiều địa điểm của 5 địa điểm đã đề cập, chúng ta có một
sự luân phiên kháng nguyên (antigenic shift).
Hay nói một cách khác là chúng ta có một loại phụ siêu vi cúm khác xuất
hiện và đa số dân chúng, nhất là những người dưới 20-30 tuổi chưa có những
miễn dịch về siêu vi cúm này. Đây là lúc một siêu vi cúm A loại phụ mới
(novel influenza virus subtype); và nó cũng báo hiệu một trận đại dịch sắp
xảy ra. Thời gian cần cho sự thay đổi này khoảng từ 10 đến 30 năm. Như
vậy những siêu vi cúm mang danh số H1 có yếu tố di truyền quyết định kháng
nguyên giống nhau trên 70% ở những gai HAs. Có nghĩa gai HA của siêu vi
cúm A/H1N1 (2009) giống gai HA của siêu vi cúm A/H1N1 (1918) trên 70% yếu
tố di truyền quyết định kháng nguyên (epitopes).
Hình 5:
Sơ đồ những đại dịch cúm và dịch cúm xảy ra liên quan đến mức độ miễn
nhiễm của dân chúng. A/HxNx và A/HyNy đại diện cho những siêu vi cúm với
hemagglutinins và neuraminidases hoàn toàn khác nhau.
Hiện nay, người ta đã
và đang nghiên cứu sâu sắc về nguồn gốc của siêu vi cúm mới thuộc những
dòng siêu vi đại dịch. Lời cắt nghĩa đang được chấp nhận rộng rải hiện
nay có 3 phần:
1.
Siêu vi cúm có bộ di truyền từng khúc (segmented genome) nên luôn thay đổi
dể dàng
2.
Chỉ có siêu vi cúm A mới gây ra đại dịch
3.
Loài cầm điểu là ký chủ chính mang nguồn dự trử lớn các di truyền của các
loại phụ siêu vi cúm A trong thiên nhiên.
Hình
6:
Những đại dịch cúm vừa qua. Thời gian những loại phụ của siêu vi cúm A ở
trong những khung. Bởi vì những dịch cúm trước năm 1918 chỉ được biết qua
những thử nghiệm trong những khung màu nâu lợt. Hàng bên dưới là năm sinh
và tuổi tính cho đến năm 2009 của những người sống trong những dịch cúm
của những loại phụ siêu vi cúm A trước. Ví dụ, những người hiện đang sống
tuổi từ 52 đến 91 tuổi có lẻ đã nhiễm siêu vi cúm A đầu tiên là siêu vi
cúm H1N1. Những người 41 tuổi hay trẻ hơn chưa bao giờ nhiễm siêu vi cúm
H2N2. Đại dịch gây bởi siêu vi cúm mới A/H1N1 bắt đầu năm 2009
Kiểu mẫu của sự thay thế những loại phụ HA và NA trong suốt
hầu hết thế kỷ mới đây của những đại dịch được cho thấy trong
Hình 6
và được căn cứ trên cả hai trên siêu vi được cô lập và những nghiên cứu về
huyết thanh của những người sống qua những trận đại dịch trước đây. Những
nghiên cứu như vậy cho thấy rằng đại dịch 1889 được đi đôi với những siêu
vi của loại phụ H3. Những nghiên cứu về siêu vi và polymerase chain
reaction (PCR) đã cho thấy rằng đại dịch cúm Tây Ban Nha của 1918 gây bởi
một siêu vi H1N1(lưu hành từ 1918 đến 1957), đến lượt nó đã bị hất cẳng
trong đại dịch Á Châu của năm 1957 bởi những siêu vi H2N2. Trong năm
1968, đại dịch Hồng Kông gây bởi những siêu vi cúm loại phụ H3N2. Trong
năm 1977, những siêu vi của loại phụ H1N1 được tái xuất hiện qua một cơ
chế không rỏ. Những siêu vi cúm này có di truyền giống y hệt như những
siêu vi cúm H1N1 đã lưu hành trong những năm 1950. Từ 1977, những siêu vi
cúm A của cả H1N1 và H3N2 cùng lưu hành.
Những siêu vi cúm cầm điểu đã tấn công gia cầm và loài người mới
đây:
Nhiều siêu vi cúm có
ở những loài khác nhau như người, heo, ngựa, những loài có vú dưới biển,
và cầm điểu. Thật ra, chỉ có cầm điểu là ký chủ cho tất cả siêu vi cúm A
với 16 loại HA khác nhau và 9 loại NA khác nhau. Nên cúm gia cầm còn gọi
là cúm cầm điểu. Cầm điểu là nguồn gốc cho những đại dịch đi đôi với HA
khác nhau ở loài người. Bởi thế, có những quan tâm sâu sắc với những
trường hợp rời rạc của siêu vi cúm cầm điểu càng lúc càng gia tăng trong
10 năm qua. Những siêu vi cúm này là H7, H9, và đặc biệt là H5.
Siêu vi cúm cầm điểu H7N7 được
phát hiện đầu tiên ở một con chó biển (seal) và người săn sóc nó với viêm
phổi và viêm kết mạc. Vào năm 2003, sự bùng phát dịch cúm H7N7 ở gia cầm
tại Hòa Lan. Năm 2004, người ta phát hiện dịch cúm cầm điểu H7N3 trong
những nông trại tại thung lũng Fraser của British Columbia, Canada, và
dịch này được ngăn chận trong vòng 2-3 tháng sau đó. Những triệu chứng
chính của siêu vi cúm H7 là viêm kết mạc (conjunctivitis) không có tính dử
cao.
Nhiễm siêu vi H9N2 ở loài người
đã được mô tả ở 2 đứa trẻ với bệnh giống như cúm nhẹ ở Hồng Kông trong năm
1999. H9N2 cũng đã được cô lập trong những môi trường cấy của những chất
lấy từ mủi và cổ họng từ một đứa trẻ khác với bệnh lâm sàng trong 2003 ở
Hồng Kông. Những nhiễm trùng này xuất hiện đã nhiễm từ tiếp xúc với gia
cầm bị nhiễm và đã đưa đến kết quả bệnh nhẹ giống cúm với sự phục hồi hoàn
toàn.
Siêu vi cúm cầm điểu H5N1:
Những trường hợp người với bệnh cúm nặng từ nhiễm với
siêu vi cúm cầm điểu H5N1 đã
được tường trình từ năm 1997 và tiếp tục đưa ra những quan tâm về tiềm
tàng của một đại dịch mới ở người. Những siêu vi nguy hiểm cao độ sống
vững chắc trong thủy cầm điểu thiên di qua toàn Á Châu và đã trải qua
nhiều biến hóa đáng kể, với sự phát triển của ít nhất 10 nhóm (clades)
kháng nguyên riêng biệt và nhiều nhóm phụ, như đã được đề cập trong sự
phát sinh loài của những chuổi nhân di truyền HA. Những nhiễm siêu vi ở
người đầu tiên liên quan đến những siêu vi được xếp vào nhóm 3 (clade 3)
sau đó. Đợt nhiễm siêu vi thứ 2 đã được ghi nhận trong năm 2004 từ siêu
vi nhóm 1 (clade 1), và trong những năm gần đây, nhiễm siêu vi ở người
chính đã là từ siêu vi nhóm 2 (clade 2).
Những mô tả của triệu chứng và dấu chứng của nhiễm H5N1 là hầu
hết các bệnh nhân được nhập viện. Hầu hết những bệnh nhân có những triệu
chứng không đặt biệt của sốt, ho, và khó thở. Trong nhiều bệnh nhân, một
sự tiến triển của những triệu chứng dẩn đến suy hô hấp cần hô hấp bằng máy
và những phương cách giúp đở khác. Những triệu chứng không điển hình như
buồn nôn, ói mửa, bệnh ở nảo, và chảy máu lợi răng và mủi đã được tường
trình. Tiêu chảy nước có thể hiện diện trước khi khởi đầu của những triệu
chứng đường hô hấp. Hầu hết bệnh nhân có những kết quả bất thường của
hình quang tuyến ở phổi với sự thâm nhiễm khuếch tán (diffuse
infiltration) và thâm nhiễm nhiều chổ tập trung (multifocal infiltration)
hay thâm nhiễm mảng (patchy infiltration), nhưng những tràn dịch màng phổi
(pleural effusion) là hiếm.
Những bất thường thí nghiệm bao gồm giãm tế bào bạch huyết đơn
nhân (lymphopenia) và bạch cầu (leukopenia), giãm tiểu huyết cầu
(thrombocytopenia) từ nhẹ đến vừa phải, và gia tăng những nồng độ men gan
(transaminases). Những bất thường này là những dấu hiệu dự hậu xấu. Hầu
hết những bệnh nhân có dương tính cấy vi khuẩn trong đàm và máu. Những
thay đổi bệnh lý bao gồm những hư hại phế nang khuếch tán (diffuse
alveolar damage) trong phổi, sự phản ứng bắt lấy và hủy hoại hồng cầu bởi
thực bào (reactive hemophagocytosis) trong tủy xương, và giãm mô bạch
huyết (lymphoid depletion) với sự tăng tế bào bạch huyết (lymphocytosis)
một cách bất thường trong lá lách và những mô bạch huyết. Sự hoại tử thùy
gan ở trung tâm (centrilobular hepatic necrosis) và sự hoại tử cấp tính ở
ống dẩn nước tiểu của quản cầu thận (acute tubular necrosis) đã được tường
trình.
Những bệnh nhân với triệu chứng nhiễm H5N1 tuổi từ 3 tháng đến
75 tuổi, với tuổi trung bình 20 tuổi. Một nửa các trường hợp xảy ra ở
những người nhỏ hơn 20 tuổi, và 90% những trường hợp ở những người ít hơn
40 tuổi. Trung bình sự kéo dài bệnh từ khởi bệnh đến nhập viện đã là 4
ngày (khoảng từ 0 đến 18 ngày). Tỉ lệ của những trường hợp tử vong cao
nhất ở những người từ 10 đến 19 tuổi, thấp nhất ở những người 50 tuổi hay
già hơn, và ở trẻ con tuổi nhỏ hơn 10 tuổi, với tỉ lệ tử vong tổng quát là
58%.
Hầu hết các trường hợp có tiếp xúc gần gủi với gia cầm bệnh 1
tuần trước khi khởi bệnh. Những hoạt động như nhổ lông và làm thịt nấu
nướng cầm điểu bệnh, chơi với cầm điểu (đặc biệt những con vịt không có
triệu chứng), và giữ những gà chọi là những yếu tố rủi ro cho nhiễm siêu
vi cúm. Những kiểu mẩu khác của sự nhiễm siêu vi bao gồm ăn những gia cầm
chưa nấu chín hay ăn tiết canh. Sự truyền nhiễm đến loài mèo từ cho cọp
và beo ăn gà chưa nấu hay uống nước không sạch từ những nguồn nước thiên
nhiên là không đáng kể.
Những nhiễm siêu vi không triệu chứng hình như hiếm, và sự lan
truyền từ người sang người đáng kể không được tường trình. Những nhóm 15
gia đình với nhiễm siêu vi liên quan đến 2 hay nhiều người trong gia đình
đã được ghi nhận. Nhóm lớn nhất đã tìm thấy cho đến nay là ở Kubu
Sembelang ở bắc Sumatra ở Indonesia trong tháng 5, 2006 nơi 7 trường hợp
đã được xác nhận xảy ra trong những bà con của một phụ nử 37 tuổi chết vì
bệnh đường hô hấp cấp tính và đã được chôn trước khi thiết lập một chẩn
đoán. Những so sánh liên tiếp của những siêu vi từ những trường hợp ở
người và những trường hợp cúm cầm điểu (gia cầm) cùng xảy ra đã thiết lập
rằng ít nhất là vài trường hợp trong cụm bệnh đại diện cho thể lây truyền
từ người sang người. Hơn nửa, một trường hợp được ghi nhận đầy đủ sự lan
truyền của siêu vi từ một trẻ con bệnh ở Thái Lan truyền đến mẹ của nó và
một tường trình cho là sự lan truyền đến một nhân viên y tế đã được phát
hiện.
May mắn, những siêu vi cúm A cầm điểu hình như tương đối giới
hạn trong khả năng của chúng tái tạo trong con người. Những cơ chế chính
xác trong cách những siêu vi cúm A cầm điểu chọn ký chủ không hoàn toàn
được rỏ, nhưng nhiều yếu tố có lẻ giữ vai trò này.
1.
Yếu tố tiến hóa khác nhau của những nhân di truyền trong những siêu
vi cúm này ở những ký chủ cầm điểu, có lẻ do những tác động qua lại ít
hiệu quả hơn giữa những phần không rỏ của siêu vi và những phần thuộc tế
bào ký chủ.
2.
Sự tái sắp xếp giữa siêu vi cúm cầm điểu với cúm ở người làm yếu đi
tương đối khi chúng trở thành cúm ở người. Điều này ủng hộ vai trò của
những nhân di truyền của siêu vi cúm mà không phải là nhân di truyền của
HA trong một giới hạn nào đó.
3.
Hơn nửa, những gai HAs của siêu vi cúm ở gia cầm và loài có vú
trình bày một bộ phận cãm nhận của ký chủ có tính đặc biệt khác nhau, với
siêu vi cúm gia cầm chọn những bộ cãm nhận có chứa những loại cầu nối
sialic acid—galactose của α2→3 và những siêu vi cúm của loài có vú có
khuynh hướng chọn những cầu nối α2→6.
Phân tích chuổi di
truyền một cách rộng rải đã cho thấy ít nhất 2 cơ chế mà những siêu vi cúm
gia cầm có thể đi vòng qua những giới hạn này để lan truyền giữa các loài
khác nhau. Những nghiên cứu này đã cho thấy những chuổi di truyền giống
nhau giữa những khúc nhân di truyền HA, NA, và PB1 của siêu vi cúm đại
dịch H2N2 và siêu vi cúm cầm điểu A/H2N2. Tương tự cho những khúc nhân di
truyền H3 và PB1 của siêu vi cúm đại dịch H3N2 cũng giống với siêu vi cúm
cầm điểu A/H3N2. Điều này cho thấy rằng trong vài trường hợp, những siêu
vi cúm đại dịch mới xuất phát bởi sự tái sắp xếp giữa những siêu vi cúm
gia cầm (mà chúng cung cấp những gai HA và gai NA trên bề mặt) và những
siêu vi cúm ở người (cung cấp những nhân di truyền cho phép sự tái tạo/replication
một cách hiệu quả ở loài người). Sự tái sắp xếp được giúp đở bởi sự hiện
diện những loài thứ 3 chứa cả 2 loại bộ phận cãm nhận (như ở loài heo).
Tuy nhiên, không phải loại tái sắp xếp nào cũng có thể tồn tại được nên
chúng bị giới hạn . Đặc biệt, nó đã được cho rằng những gai HA của những
siêu vi cúm A ở người mới đây là không phù hợp với những nhân di truyền
của HA gốc của những siêu vi cúm cầm điểu hiện nay. Và hiện tượng này có
thể giới hạn xác xuất những siêu vi cúm đại dịch xuất hiện bởi sự tái sắp
xếp.
Cơ chế thứ 2 liên quan sự thích ứng của những siêu vi cúm cầm
điểu đối với ký chủ người, do sự tiến hóa trong loài heo; điều này được
yễm trợ bởi sự phân tích chuổi di truyền cho thấy đại dịch 1918 (siêu vi
cúm ở người A/H1N1 1918 có di truyền rất giống siêu vi cúm heo A/H1N1
1918) có lẻ đã là thành quả của sự lan
truyền một cách trực tiếp đến người của một siêu vi cúm A cầm điểu hay lan
truyền từ heo đến người.
Cúm Heo A/H1N1 (2009):
Chúng ta nên tìm hiểu về siêu vi
cúm từ heo A/H1N1 (SOIV) còn có tên
A/California/04/2009 (H1N1). Lý do
tôi đề cập đến loại siêu vi cúm này trước vì chúng có thể tái sắp xếp với
siêu vi cúm A/H5N1 tại các nơi trên thế giới và tạo ra một đại nạn cho
toàn thế giới. Cúm heo A/California/04/2009 (H1N1) gây đại dịch cho toàn
thế giới khởi phát từ Mexico nhưng được cấy và giải mã những đặc tính di
truyền của nó đầu tiên từ một đứa trẻ 10 tuổi tại California, Mỹ vào
1/4/2009 nên có tên như trên. Những siêu vi cúm heo đã tái sắp xếp 3 lần
với những siêu vi cúm ở người, và chúng đã lưu hành ở loài heo vào thập
niên 1990s. Siêu vi cúm này thỉnh thoảng nhiểm vào người khi họ tiếp xúc
gần gủi với loài heo. Siêu vi cúm heo này lưu hành tại Bắc Mỹ trước đây
tái sắp xếp với một siêu vi cúm heo Âu-Á được phát hiện vào tháng 3 năm
2009, và chúng tấn công mạnh tại Mexico vào tháng 4 năm 2009. Đến ngày 11
tháng 6 năm 2009, Tổ Chức Y tế Quốc Tế (WHO) đã tuyên bố đại dịch. Vào
ngày 15 tháng 6 năm 2009, có 35.600 trường hợp cúm heo H1N1 được xác định
ở phòng thí nghiệm của 76 quốc gia trên thế giới. Số người nhập viện
khoảng 2%-5% những trường hợp được xác định ở Mỹ, Canada, và Mexico. 108
trường hợp tử vong trong 6241 trường hợp được xác định bởi phòng thí
nghiệm. 60% trường hợp bị bệnh là những người 18 tuổi hay trẻ hơn. Tỉ lệ
tấn công này cũng giống như những cúm theo mùa hàng năm. Một vận tốc tấn
công nhanh chưa từng thấy trong lịch sử đại dịch cúm mà chúng ta biết được
từ xưa đến nay. Phân tích chuổi di truyền cũng cho rằng 6 khúc di truyền
(PB2, PB1, PA, HA, NP, và NS1) của những siêu vi H1N1 có thể đến từ những
siêu vi cúm heo H1N2 lưu hành ở Mỹ từ 1999 đến 2001 và 2 khúc nhân di
truyền (NA và M1) có lẻ bắt nguồn từ những cúm heo H1N1 lưu hành ở Âu Châu
từ năm 1985-1998. Siêu vi cúm H1N2 là kết qủa của sự tái sắp xếp giữa
siêu vi cúm heo A/H1N1(1976) với cúm ở người A/H3N2 gây đại dịch cúm Hồng
Kông năm 1968. Những câu hỏi quan trọng là khi nào,nơi nào, bằng cách
nào những siêu vi cúm heo lưu hành ở Mỹ cách đây 8 năm được phối hợp với
những siêu vi cúm heo lưu hành ở Âu Châu cách đây 11 năm và đã đột biến để
biến thành những siêu vi H1N1 tái sắp xếp hiện nay? Những biến cố này đã
thành lập rằng đại dịch cúm trong tương lai có thể có tiềm năng đến từ
những siêu vi tái sắp xếp bắt nguồn từ cầm điểu, động vật, hay người trong
những vùng khác nhau trên thế giới. Cả hai cúm A/H1N1 (1918) và cúm heo
A/H1N1 (1918) đều bắt nguồn từ cúm cầm điểu A/H1N1 (avian influenza
A/H1N1). Theo bảng phân tích và sơ đồ tiến hoá dưới đây, tiến hóa của
siêu vi cúm cầm điểu A/H1N1 qua 2 đường khác nhau. Đường tiến hóa thứ
nhất qua ngã siêu vi cúm đại dịch A/H1N1 (1918) đã đóng góp phần di truyền
cho gai HA của siêu vi cúm đại dịch A/H1N1 (2009). Đường tiến hóa thứ hai
qua ngã cúm heo Âu-Á Châu A/H1N1 cũng đã đóng góp gai NA cho siêu vi cúm
đại dịch A/H1N1 (2009). Như vậy siêu vi cúm heo A/H1N1 (2009) có liên hệ
di truyền gần với những siêu vi cúm A/H1N1 (1918) gây đại dịch. Sở dỉ
siêu vi cúm từ heo A/H1N1 (2009) ít giết chết nạn nhân của chúng hơn siêu
vi cúm A/H1N1 (1918) một phần do nhân di truyền tính dử PB1-F2 thể hiện
chất đạm PB1-F2 toàn diện chiều dài (87-90 amino acids) ở siêu vi cúm
A/H1N1 (1918) và ở tất cả siêu vi cúm cầm điểu nhưng nó thể hiện ở cùng
chất đạm này trên siêu vi cúm A/H1N1 (2009) bị đứt khúc ngắn hơn (11
aminoacids). Người ta cũng tìm thấy sự đứt đoạn ngắn đi ở chất đạm này ở
siêu vi cúm A/H1N1 (1957), 58 amino acids, một hậu duệ trực tiếp của siêu
vi cúm A/H1N1 1918.
|
PB2 |
PB1 |
PA |
HA |
NP |
NA |
M1 |
NS1 |
A/California/07/2009 (H1N1) |
100 |
99 |
100 |
99 |
99 |
100 |
100 |
100 |
A/California/06/2009 (H1N1) |
99 |
99 |
99 |
99 |
99 |
99 |
100 |
99 |
A/Mexico/InDRE4487/2009(H1N1) |
99 |
99 |
99 |
99 |
100 |
99 |
100 |
100 |
A/Canada-ON/RV1527/2009(H1N1) |
99 |
99 |
99 |
99 |
99 |
99 |
99 |
99 |
A/New York/18/2009 (H1N1) |
99 |
99 |
99 |
99 |
99 |
99 |
99 |
99 |
A/Texas/04/2009 (H1N1) |
99 |
99 |
99 |
99 |
100 |
99 |
99 |
99 |
A/Swine/Indiana/P12439/00 (H1N2) |
96 |
96 |
96 |
95 |
97 |
.. |
88 |
95 |
A/Swine/North Carolina/93523/01 (H1N2) |
96 |
96 |
96 |
94 |
96 |
.. |
87 |
96 |
A/Swine/Illinois/100085A/01 (H1N2) |
96 |
96 |
96 |
95 |
96 |
.. |
87 |
95 |
A/Swine/Illinois/100084/01 (H1N2) |
96 |
96 |
96 |
95 |
96 |
.. |
87 |
96 |
A/Swine/Indiana/9K035/99 (H1N2) |
96 |
96 |
95 |
95 |
96 |
.. |
88 |
96 |
A/Swine/Minnesota/55551/00 (H1N2) |
96 |
96 |
96 |
91 |
96 |
.. |
87 |
96 |
A/Swine/Ohio/891/01 (H1N2) |
96 |
96 |
95 |
95 |
97 |
.. |
87 |
96 |
A/Swine/North Carolina/98225/01 (H1N2) |
96 |
96 |
96 |
91 |
95 |
.. |
87 |
96 |
A/Swine/Minnesota/593/99 (H3N2) |
96 |
96 |
96 |
.. |
96 |
.. |
88 |
96 |
A/Swine/Iowa/569/99 (H3N2) |
96 |
96 |
96 |
.. |
97 |
.. |
88 |
95 |
A/Swine/Iowa/533/99 (H3N2) |
96 |
96 |
96 |
.. |
97 |
.. |
88 |
96 |
A/Swine/Nebraska/209/98 (H3N2) |
96 |
96 |
96 |
.. |
95 |
.. |
88 |
96 |
A/Swine/Korea/CY05/2007 (H3N2) |
96 |
96 |
96 |
.. |
97 |
.. |
88 |
91 |
A/Swine/Spain/WVL6/1991 (H1N1) |
.. |
.. |
.. |
.. |
.. |
94 |
96 |
.. |
A/Swine/England/WVL10/1993 (H1N1) |
.. |
.. |
.. |
.. |
.. |
94 |
97 |
.. |
A/Swine/England/WVL16/1998 (H1N1) |
.. |
.. |
.. |
.. |
.. |
93 |
96 |
.. |
A/Swine/Germany/Vi5698/95 (H1N1) |
.. |
.. |
.. |
.. |
.. |
94 |
96 |
.. |
A/Swine/Belgium/1/1998 (H1N1) |
.. |
.. |
.. |
.. |
.. |
93 |
96 |
.. |
A/Swine/France/WVL4/1985 (H1N1) |
.. |
.. |
.. |
.. |
.. |
93 |
95 |
.. |
A/Turkey/France/87075/87 (H1N1) |
.. |
.. |
.. |
.. |
.. |
92 |
94 |
.. |
Figure 7: Nguồn gốc của siêu vi cúm heo A/H1N1 (2009)
Trong những cố gắng trên thế giới,
các nhà khoa học đã làm một thử nghiệm trên những con chồn sương (ferrets)
và chuột nhắc (mice). Chồn sương và chuột nhắc là những loài động vật có
vú (mammalians) có độ nhạy cãm với siêu vi cúm cao nhất trong các động vật
và loài người. Các nhà nghiên cứu tạo ra thuốc chủng VLP 1918 (Virus-Like
Particle 1918) từ phương pháp đảo ngược di truyền (reverse genetic system)
để đọc di truyền của siêu vi cúm A/H1N1 1918. Sau đó, họ tái tạo những
nhân di truyền của phân tử HA (hemagglutinin), NA (neuraminidase), và M
(matrix) của siêu vi cúm A/H1N1 1918 vào baculo virus (một siêu vi không
gây bệnh ở loài người). Dùng con baculovirus tạo ra những chất đạm giúp
cho cơ thể các loài động vật tạo ra kháng thể chống lại siêu vi A/H1N1
1918 mà không mắc bệnh.
Bình thường một siêu
vi cúm khi xâm nhập vào đường hô hấp, chúng dùng gai HA bám vào phân tử
sialic acid trên màng tế bào biểu mô và cắt lổ hổng để đưa một mảnh di
truyền (viral plasmid) của siêu vi cúm vào bên trong tế bào ký chủ. Mảnh
di truyền này có mang theo những phân hóa tố trùng hợp PA, PB1, PB2, NS1
và NS2. Những phân hóa tố này có endonuclease cắt nút chận của mRNA của
ký chủ và tổng hợp lại một mRNA của siêu vi cúm. Từ mảnh mRNA của siêu vi
cúm này tạo ra những siêu vi cúm mới. Gai NA sẽ cắt màng tế bào ký chủ để
những siêu vi cúm mới được tái tạo (replication) thoát ra ngoài và tấn
công những tế bào biểu mô kế cận. Nếu thuốc chủng không có những phân hóa
tố trùng hợp này chúng không thể gây bệnh. Đây là chổ khác nhau của thuốc
chủng VLP và siêu vi cúm thật sự.
Ngoài ra thuốc chủng
với siêu vi bất động (inactivated flu vaccine) được chích vào bắp thịt ở
chổ cơ thể tạo ra kháng thể chống lại gai HA thôi. Đại đa số những kháng
thể tạo ra từ thuốc chủng với siêu vi bất động là IgM, và một số ít IgG và
IgA. IgA rất hửu dụng trong việc phòng ngừa bệnh vì chúng tiết ra ở những
màng nhầy (mucosa) hay đi từ trong máu vào màng nhầy và trung hòa siêu vi
cúm tại màng nhầy mủi. Thuốc chủng VLP 1918 là một loại thuốc chủng cúm
với siêu vi cúm còn sống nhưng được làm yếu đi (live attenuated flu
vaccine) cho vào mủi. Có nghĩa là người là tái tổng hợp một siêu vi cúm
A/H1N1 (1918) với kháng nguyên từ gai HA, NA, M1, và M2 nhưng không có
nhân di truyền tạo ra phân hóa tố trùng hợp PB1, PB2, PA, NS1, và NS2.
Thuốc chủng này tạo ra kháng thể IgA ở màng nhầy mủi nhiều và có hiệu quả
lâu hơn là thuốc chủng với siêu vi bất động chích vào bắp thịt.
Người ta chia những
con chồn sương và chuột nhắc ra làm 3 nhóm bằng nhau:
·
Một nhóm được chủng
ngừa với VLP 1918 qua mủi.
·
Một nhóm được chích
ngừa thuốc chủng với siêu vi bất động chống lại siêu vi A/H1N1 1918.
·
Và một nhóm khác
không được chủng ngừa bằng bất cứ thuốc chủng nào cả.
Sau 2 tuần lể, người ta nhỏ những dung dịch chứa siêu vi cúm
A/H1N1 1918 vào 50% những con chồn sương và chuột nhắc đã được chủng ngừa
bằng 2 loại thuốc chủng trên. Không một con vật thí nghiệm nào bị chết cả.
Số chồn sương và chuột nhắc còn lại và những động vật chưa được chủng ngừa
cho tiếp xúc với A/Viet Nam/1203/2004 H5N1:
·
Tất cả những chuột
nhắc và chồn sương chưa được chủng ngừa chết rất nhanh.
·
Những chuột nhắc và
chồn sương được chủng ngừa với chích thuốc chủng siêu vi cúm bất động bị
bệnh nhẹ hơn và 50% số động vật chết trể hơn nhóm đầu.
·
Những con chuột nhắc
và chồn sương được chủng với VLP 1918 không con nào có dấu hiệu mắc bệnh
hay chết.
Các nhà nghiên cứu
kết luận rằng chủng ngừa VLP 1918 có tác dụng gần giống như mắc bệnh cúm
A/H1N1 1918 tự nhiên có những kháng thể có những phản ứng chéo (cross
reactive antibodies) chống lại được siêu vi khác loài phụ (different
subtypes), A/H5N1. Người ta cũng nhận ra được rằng những kháng thể chống
lại gai NA và đạm M cũng giúp phần vào việc tạo ra sự bảo vệ bệnh cúm.
Điều này làm chúng ta tự hỏi:
Còn những kháng thể
tạo ra từ những siêu vi cúm A/H1N1 khác và nhất là siêu vi cúm heo A/H1N1
(2009) gây đại dịch hiện nay có những phản ứng chéo với siêu vi cúm gia
cầm A/H5N1 như thí nghiệm vừa đề cập ở trên hay không?
Câu trả lời này nằm ở trong sự giống nhau của những yếu tố di
truyền quyết định kháng nguyên (epitops) của những siêu vi cúm A/H1N1.
Không nhất thiết tên gọi giống nhau như vậy sẽ có những yếu tố di truyền
quyết định kháng nguyên giống nhau 100%. Như đã truy tìm nguồn gốc của
siêu vi cúm heo A/H1N1 (2009), chúng ta đi tìm nguồn gốc của các siêu vi
cúm A/H1N1 này có liên hệ di truyền gần với siêu vi cúm A/H1N1 gây đại
dịch năm 1918. Người ta đã thử nghiệm phản ứng trung hòa (microneutrolization)
với siêu vi cúm heo A/H1N1 (2009) ở những người 60 tuổi hay già hơn cho
thấy 1/3 những người này có phản ứng chéo cao độ với nồng độ ≥160. Vì vậy
một nghi vấn được đặt ra: siêu vi cúm A/H1N1 nào có cùng nguồn gốc với
siêu vi cúm A/H1N1 1918 và có những phản ứng chéo cao độ thì có lẻ siêu vi
cúm đó sẽ có thể tạo ra kháng thể chéo chống lại siêu vi cúm gia cầm
A/H5N1?
Kháng thể có phản ứng chéo là lý do tại sao khi có sự xuất hiện
của một loại phụ siêu vi cúm A mới, chúng tấn công và gây tử vong ở những
người trẻ nhiều hơn. Bằng chứng này đã được chứng minh qua nhiều trận đại
dịch được ghi chép rỏ trong 400 năm qua.
Hơn nửa, người ta nhận thấy sự giống nhau ở những yếu tố quyết
định di truyền kháng nguyên (epitopes) của gai HA giữa H5 của A/H5N1 và H1
của A/H1N1 (1918) là 58% trong những thí nghiệm. Sự thay đổi giữa các yếu
tố quyết định di truyền của kháng nguyên (epitopes) ở gai NA ít có thay
đổi nhiều như đã đề cập trước đây trong những biến đổi trôi dạt (antigenic
drift) và biến đổi luân lưu (antigenic shift). Trong những thí nghiệm
trong những năm vừa qua, người ta nhận thấy những yếu tố quyết định di
truyền của kháng nguyên (epitopes) trên gai N1 của những siêu vi cúm thuộc
chủng loại phụ khác nhau (H5N1, H1N1…) được bảo tồn đến hơn 85%. Điều này
cũng giúp cho ta đưa đến nhận xét rằng nếu đã bị nhiễm siêu vi cúm H1N1
thì bệnh nhân sẽ có bệnh nhẹ hơn khi tiếp xúc với siêu vi cúm H5N1. Vì
siêu vi cúm bám vào được màng tế bào chủ và cắt màng tế bào chủ này phải
nhờ vào gai HA và sau khi tổng hợp được siêu vi cúm mới phải nhờ vào gai
NA mở màng tế bào ký chủ ra cho những siêu vi cúm mới thoát ra ngoài để
tiếp tục chu kỳ tiêm nhiễm mới. Nếu điều này bị hạn chế thì bệnh sẽ nhẹ
hơn.
Hình 7:
Những nồng độ kháng thể trung hòa chống lại
siêu vi cúm đại dịch 2009 H1N1 trong những huyết thanh của người cho huyết
thanh, Theo thập niên mà họ được sinh ra đời (1880-2000). Những người
sinh trong thập niên 1920s có tỉ lệ kháng thể có phản ứng chéo với siêu vi
cúm A/H1N1 (2009) cao nhất cũng là lúc siêu vi cúm đại dịch A/H1N1 (1918)
đang hoành hành lúc họ vừa sinh ra và họ có lẻ đã mắc phải bệnh của cúm
đại dịch này gây ra. Điều này cho thấy sự giống nhau cao độ của những yếu
tố di truyền quyết định kháng nguyên (epitopes) giữa hai siêu vi cúm
A/H1N1 (1918) và A/H1N1 (2009).
Nghi vấn được đặt ra
là đại dịch cúm heo /H1N1 (2009) có cứu được nhân loại khi siêu vi cúm gia
cầm A/H5N1 có khả năng lan truyền như siêu vi cúm gây đại dịch hiện nay.
Tôi thấy có những điểm nghiên cứu trước đây nổi bật, gợi lên suy nghỉ này.
Để trả lời một cách chính xác trên thực tế, chúng ta cần làm một thử
nghiệm tương tự giữa siêu vi cúm A/H1N1 (2009) và A/H5N1 như thử nghiệm
với A/H1N1 (1918) và A/Viet Nam/1203/2004 (H5N1) đã được đề cập trên đây.
Nếu thử nghiệm như vậy khẳng định là có thì
đại dịch này sẽ là đại chũng ngừa cho đại dịch sắp tới do siêu vi cúm
A/H5N1!
chÚc m¯ng næm m§i
Viết xong ngày 29 tháng 1, năm 2010.
Bác sĩ Nguyễn Vĩ Liệt
References:
1.
Influenza Viruses Including Avian Influenza and Swine Influenza
JOHN J. TREANOR
Mandell: Mandell, Douglas, and Bennett's Principles and Practice of
Infectious Diseases, 7th ed.
Copyright ©
2009 Churchill Livingstone
2.
Inactivated influenza vaccines
Carolyn B. Bridges
Jacqueline M. Katz
Roland A. Levandowski
Nancy J. Cox
Plotkin: Vaccines, 5th ed.
Copyright ©
2008 Saunders
3.
Influenza
vaccine-live
Robert B. Belshe
Robert Walker
Jeffrey J. Stoddard
George Kemble
Husein F. Maassab
Paul M. Mendelman
Plotkin: Vaccines, 5th ed.
Copyright ©
2008 Saunders
4.
Biological Weapons
and Bioterrorism
Aileen M. Marty, MD, FACP
Guest Editor
Clin Lab Med 26 (2006) xiii–xv, Saunders
5.
Clinical
effectiveness of oseltamivir for influenza A(H1N1) virus with H274Y
neuraminidase mutation
Naoki Kawai a,*,c, Hideyuki Ikematsu a,b,**,c, Norio Iwaki a, Kunio Kondou
a,
Nobuo Hirotsu a, Takashi Kawashima a, Tetsunari Maeda a, Osame Tanaka a,
Ken-ichi Doniwa a, Seizaburo Kashiwagi a
a Japan Physicians Association, Tokyo Medical Association Building 3F, 2-5
Kanda-Surugadai, Chiyoda-ku,
Tokyo 101-0062, Japan
b Department of Clinical Research, Hara-doi Hospital, Fukuoka, Japan
Accepted 1 July 2009
Available online 7 July 2009
6.
Containment
abandoned for unstoppable pandemic
Peter Hayward
www.thelancet.com/infection Vol 9 August 2009
7.
Cross-Reactive
Antibody Responses to the 2009 Pandemic H1N1 Influenza Virus
Kathy Hancock, Ph.D., Vic Veguilla, M.P.H., Xiuhua Lu, M.D., Weimin Zhong,
Ph.D., Eboneé N. Butler, M.P.H., Hong Sun, M.D., Feng Liu, M.D., Ph.D.,
Libo Dong, M.D., Ph.D., Joshua R. DeVos, M.P.H., Paul M. Gargiullo, Ph.D.,
T. Lynnette Brammer, M.P.H., Nancy J. Cox, Ph.D., Terrence M. Tumpey,
Ph.D., and Jacqueline M. Katz, Ph.D.
Published at www.nejm.org September
10, 2009 (10.1056/NEJMoa0906453)
8.
Different evolutionary trajectories of European avian-like and classical
swine H1N1 influenza A viruses
Eleca J. Dunham1, Vivien G.
Dugan1, Emilee K. Kaser1, Sarah E. Perkins2,
Ian H. Brown3, Edward C.
Holmes2,4, and Jeffery K. Taubenberger1,*
1Laboratory
of Infectious Diseases, National Institute of Allergy and Infectious
Diseases,
National Institutes of Health, Bethesda, MD, USA
2Center
for Infectious Disease Dynamics, Department of Biology, The Pennsylvania
State
University, University Park, PA, USA
3Virology
Department, Veterinary Laboratories Agency - Weybridge, Addlestone,
Surrey, UK
4Fogarty
International Center, National Institutes of Health, Bethesda, MD, USA
*Address correspondence to:
Jeffery K. Taubenberger, M.D., Ph.D.,
Laboratory of Infectious Diseases, National Institute of Allergy and
Infectious Diseases
National Institutes of Health, 33 North Drive, Room 3E19A.2, MSC 3203
Bethesda, MD 20892-3203 USA
Tel. 1-301-443-5960; Fax. 1-301-480-5722
email:
taubenbergerj@niaid.nih.gov
9.
Duration of Protection Provided by Live Attenuated Influenza Vaccine in
Children
Pediatric Infectious Disease Journal
Volume 27, Issue 8 (August 2008)
Copyright © 2008 Williams & Wilkins
Christopher S. Ambrose, MD
Tingting Yi, PhD
Robert E. Walker, MD
Edward M. Connor, MD
10. Efficacy and Safety of a Live Attenuated, Cold-Adapted Influenza
Vaccine, Trivalent Against Culture-Confirmed Influenza in Young Children
in Asia
Pediatric Infectious Disease Journal
Volume 26, Issue 7 (July 2007)
Copyright © 2007 Williams & Wilkins
John S. Tam, PhD
Maria Rosario Z. Capeding, MD
Lucy Chai See Lum, MD
Tawee Chotpitayasunondh, MD
Zaifang Jiang, MD
Li-Min Huang, MD, PhD
Bee Wah Lee, MD
Yuan Qian, MD
Rudiwilai Samakoses, MD
Somsak Lolekha, MD, PhD
K Pillai Rajamohanan, MD, PhD, MSEpid
S Noel Narayanan, MD, DCH, MRCP, FRCP
Chellam Kirubakaran, MD
Ruth Rappaport, PhD
Ahmad Razmpour, PhD
William C. Gruber, MD
Bruce D. Forrest, MD, MBA
for the Pan-Asian CAIV-T Pediatric Efficacy Trial Network
11.
Epidemiology of
influenza in Hanoi, Vietnam, from 2001 to 2003
The Journal of Infection
Volume 55, Issue 1 (July 2007)
Copyright © 2007 The British Infection Society
Hang L.K. Nguyen
Reiko Saito
Ha K. Ngiem
Makoto Nishikawa
Yugo Shobugawa
Doan C. Nguyen
Long T. Hoang
Lien P. Huynh
Hiroshi Suzuki
12.
The Next Influenza
Pandemic: Will we be Ready to Care for Our Children?
Journal of Pediatrics
Volume 147 • Number 2 • August 2005
Copyright © 2005 Mosby, Inc.
Charles R. Woods, MD, MS
Jon S. Abramson, MD
From the Department of Pediatrics, Wake Forest University School of
Medicine, Winston-Salem, NC. Dr. Woods is a consultant to the Health
Surveillance Unit of the Forsyth County Department of Public Health. Dr.
Abramson is currently a member of the Center for Disease Control and
Preventions Advisory Committee on Immunization Practices
13.
Human infections
associated with wild birds
Sotirios Tsiodras a,g,
Theodoros Kelesidis b,g,
Iosif Kelesidis b,
Ulf Bauchinger c,f,
Matthew E. Falagas d,e
a University of Athens Medical School, 1 Rimini Street, Xaidari, 12462
Athens, Greece
b Beth Israel Deaconess Medical Center, Harvard University Medical School,
Boston, MA, USA
c University of Munich (LMU), Planegg-Martinsried, Germany
d Alfa Institute of Biomedical Sciences, Athens, Greece
e Department of Medicine, Tufts University School of Medicine, Boston, MA,
USA
f Mitrani Department of Desert Ecology, Ben-Gurion University of the
Negev, Ben-Gurion, Israel
Accepted 1 November 2007
Available online 21 December 2007
14.
Control of avian
influenza A H5N1 in China
Wei Wu
Capital Medical University, Epidemiology and Health Statistics,
Beijing, China
weiwu207@ccmu.edu.cn
15.
Outbreak of 2009
Pandemic Influenza A (H1N1) at a New York City School
Th e new england journal o f medicine
Justin Lessler, Ph.D., Nicholas G. Reich, B.A., Derek A.T. Cummings,
Ph.D., M.H.S., and the New York City Department of Health and Mental
Hygiene Swine Influenza Investigation Team*
The new england journal of medicine
16.
H1N1 influenza
vaccine: Global access for a global problem
Canadian Medical Association Journal
Noni MacDonald MD MSc
Section Editor, Public Health, CMAJ
With the Editorial-Writing Team (Paul C. Hébert MD MHSc,
Matthew B. Stanbrook MD PhD, Ken Flegel MDCM MSc,
Amir Attaran LLB DPhil and Laura Eggertson BA)
17.
H1N1 vaccine could
staunch further financial loss
Priya Shetty
Newsdesk
www.thelancet.com/infection Vol 9 October 2009
18.
H5N1 vaccine hits
the target, but not the bull’s eye
Suryaprakash Sambhara, Carolyn B Bridges, *Gregory A Poland
Infl uenza Division, Centers for Disease Control and Prevention,
Atlanta, GA, USA (SS, CBB) and Mayo Vaccine Research Group, the
Program in Translational Immunovirology and Biodefense, and the
Department of Internal Medicine, Mayo Clinic College of Medicine,
Rochester, MN, USA (GAP)
poland.gregory@mayo.edu
http://infection.thelancet.com Vol 7 August 2007 505
19.
Human infections
associated with wild birds
Sotirios Tsiodras a,*,g, Theodoros Kelesidis b,g, Iosif Kelesidis b,
Ulf Bauchinger c,f, Matthew E. Falagas d,e
a University of Athens Medical School, 1 Rimini Street, Xaidari, 12462
Athens, Greece
b Beth Israel Deaconess Medical Center, Harvard University Medical School,
Boston, MA, USA
c University of Munich (LMU), Planegg-Martinsried, Germany
d Alfa Institute of Biomedical Sciences, Athens, Greece
e Department of Medicine, Tufts University School of Medicine, Boston, MA,
USA
f Mitrani Department of Desert Ecology, Ben-Gurion University of the
Negev, Ben-Gurion, Israel
Accepted 1 November 2007
Available online 21 December 2007
Journal of Infection (2008) 56, 83e98
www.elsevierhealth.com/journals/jinf
20.
Immunization
WALTER A. ORENSTEIN,
LARRY K. PICKERING,
ALISON MAWLE,
ALAN R. HINMAN,
MELINDA WHARTON
Mandell: Mandell, Douglas, and Bennett's Principles and Practice of
Infectious Diseases, 7th ed.
Copyright ©
2009 Churchill Livingstone
21.
Immunologic adjuvants
Frederick R. Vogel
Stanley L. Hem
Plotkin: Vaccines, 5th ed.
Copyright ©
2008 Saunders
22.
PB2 Protein of a Highly Pathogenic Avian Influenza Virus Strain
A/chicken/Yamaguchi/7/2004 (H5N1) Determines Its Replication Potential in
Pigs
JOURNAL OF VIROLOGY, Feb. 2009, p. 1572–1578 Vol. 83, No.
40022-538X/09/$08.000 doi:10.1128/JVI.01879-08
Copyright © 2009, American Society for Microbiology.
All Rights Reserved
Rashid Manzoor,1 Yoshihiro Sakoda,1 Naoki Nomura,1 Yoshimi Tsuda,1
Hiroichi Ozaki,2
Masatoshi Okamatsu,1 and Hiroshi Kida1,3*
Laboratory of Microbiology, Department of Disease Control, Graduate School
of Veterinary Medicine, Hokkaido University, Sapporo 060-0818, Japan1;
Department of Veterinary Microbiology, Faculty of Agriculture, Tottori
University, Tottori 680-8553, Japan2; and Research Center for Zoonosis
Control, Hokkaido University, Sapporo 001-0020, Japan3
Received 7 September 2008/Accepted 24 November 2008
23.
The Persistent Legacy of the 1918 Influenza Virus
David M. Morens,
M.D., Jeffery K. Taubenberger, M.D., Ph.D.,
Anthony S. Fauci, M.D.
New
England Journal of Medicine
Volume 361:225-229
Number 3
July 16, 2009
24.
The Effects of
Influenza A Virus PB1-F2 Protein on Polymerase Activity Are Strain
Specific and Do Not Impact Pathogenesis
Julie L. McAuley, Kelly Zhang, and Jonathan A. McCullers*
Department of Infectious Diseases, St. Jude Children's Research Hospital,
262 Danny Thomas Place, Memphis, Tennessee 38105
Received 24 August 2009/ Accepted 5 October 2009.
Journal of Virology, January 2010, p. 558-564, Vol. 84, No. 1
0022-538X/10/$08.00+0
doi:10.1128/JVI.01785-09
Copyright © 2010,
American Society for Microbiology
25.
Structural
Characterization of the 1918 Influenza Virus H1N1 Neuraminidase
Xiaojin Xu,1,3 Xueyong Zhu,1 Raymond A. Dwek,3 James Stevens,1† and Ian A.
Wilson1,2*
Department of Molecular Biology, The Scripps Research Institute, 10550
North Torrey Pines Road, La Jolla, California 920371;
Skaggs Institute for Chemical Biology, The Scripps Research Institute,
10550 North Torrey Pines Road, La Jolla,
California 920372; and Oxford Glycobiology Institute, Department of
Biochemistry, University of Oxford, South Parks Road, Oxford OX1 3QU,
United Kingdom3
Received 8 May 2008/Accepted 5
August 2008
26/ Bacteria
May Cause H1N1 Death Rate Increase
By Michael Smith, North American
Correspondent, MedPage Today
Published: December 31, 2009
Reviewed by Zalman
S. Agus, MD;
Emeritus Professor
University of
Pennsylvania School of Medicine and
Dorothy Caputo, MA, RN, BC-ADM, CDE, Nurse Planner
27/
Experimental Infection of Pigs with the Human
1918 Pandemic Influenza Virus
Hana M. Weingartl,1,2* Randy A. Albrecht,3
Kelly M. Lager,4 Shawn Babiuk,1,5 Peter Marszal,1 James Neufeld,1 Carissa
Embury-Hyatt,1 Porntippa Lekcharoensuk,4,10 Terrence M. Tumpey,6 Adolfo
García-Sastre,3,7,8 and Ju¨rgen A. Richt4,9*
National Centre for Foreign Animal Disease,
Canadian Food
Inspection Agency, Winnipeg, Manitoba, Canada1; Department
of
Medical Microbiology2 and Department of
Immunology,5
University of Manitoba, Winnipeg, Manitoba, Canada;
Department of
Microbiology,3 Department of Medicine,
Division of Infectious Diseases,7 and Emerging Pathogens Institute,8
Mount Sinai School of Medicine New York, New
York; National Animal Disease Center, ARS-USDA, Ames,
Iowa4;
Centers for Disease Control
and Prevention, Influenza Division, Atlanta, Georgia6;
Kansas State University, College of
Veterinary Medicine,
Manhattan, Kansas9; and
Department of Microbiology and
Immunology,
Faculty of Veterinary Medicine,
Kasetsart University, Bangkok,
Thailand10
Received 19 November 2008/Accepted 6 February
2009
28/ Intranasal
vaccination with 1918
influenza virus-like particles protects mice and ferrets
from lethal 1918 and
H5N1 influenza virus challenge.
Running title: Heterotypic protection by
mucosal VLP vaccination
Lucy A. Perrone1, Attiya Ahmad2,
Vic Veguilla1, Xiuhua Lu1, Gale Smith2,
Jacqueline
M. Katz1, Peter Pushko2, Terrence M.
Tumpey1*
Immunology and Pathogenesis Branch, Influenza
Division, National Center for
Immunization and
Respiratory Diseases,
Collaborating Centers for
Infectious Diseases,
Centers for Disease Control and Prevention,
Atlanta, GA, 210 Novavax, Inc., Rockville, MD
The authors report no competing interests.
*Corresponding author:
Terrence M. Tumpey, PhD
Address: 1600 Clifton Rd NE, MS G-16
Phone:
404-639-5444
Fax:
404-639-2350
29/
Pathogenesis of 1918
Pandemic and H5N1 Influenza Virus Infections in a Guinea Pig
Model: Antiviral Potential of Exogenous Alpha Interferon To Reduce Virus
Shedding
Neal Van Hoeven,1 Jessica A. Belser,1,2
Kristy J. Szretter,1† Hui Zeng,1 Peter Staeheli,3
David E. Swayne,4 Jacqueline M. Katz,1 and
Terrence M. Tumpey1*
Influenza Division,
National Center for
Immunization and Respiratory Diseases, Centers for Disease
Control and Prevention, Atlanta, Georgia1;
Department of Microbiology, Mount Sinai
School of Medicine, New York, New York2; Department of Virology,
University of
Freiburg, Freiburg, Germany3; and Southeast
Poultry Research
Laboratory,
Agricultural Research Service,
U.S.
Department of Agriculture,
Athens, Georgia4
Received 14 October 2008/Accepted 30 December
2008
JOURNAL OF VIROLOGY, Apr. 2009,
p. 2851–2861 Vol. 83, No. 7 0022-538X/09/$08.000
doi:10.1128/JVI.02174-08
Copyright © 2009,
American Society for Microbiology.
All Rights Reserved
Bs
Nguyễn
Vĩ
Liệt
Trang XUÂN 2010- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương