TảN MạN ĐặC SaN NiNH HòA 5 NăM
Kỳ 4: Đầu năm khai bút...
...
Một
trong những cây viết trên Đặc san NINH HÒA mà chúng tôi rất
ngưỡng mộ mặc dù không có học với Thầy, đó là Gs Lê Văn
Ngô với các bài viết như Phủ Ninh Hòa, bài Đèo
Bánh ít và Núi Ổ Gà... Thầy là một kho báu của kinh
nghiệm quá khứ còn sót lại để chúng ta học hỏi, nhất là thế hệ
trẻ như chúng tôi khi muốn tìm hiểu về lịch sử vùng đất Ninh Hoà.
Như trong bài
Phủ Ninh Hòa,
Thầy đã viết về vị trí của Phủ như sau
"theo Quốc Lộ 1 đi ra về hướng bắc khoảng một cây số và để ý về
bên trái có con đường đất rẻ vào làng Phước Đa dài 400 thước, đó
là con đường vào Phủ cũ NH".
Con
đường QL 1 này thì "tôi đã đi qua lại lắm lần" mỗi khi ra
vô xứ Vạn nhưng thật ra chưa biết Phủ NH ngày xưa nằm ở đâu. Bây
giờ có Thầy nói lên những nét lịch sử chấm phá làm mình hiểu
biết thêm khung cảnh địa dư và lịch sử xứ Ninh. Thật là bổ ích!
Và cũng qua bài viết này, nxvạn cảm thấy rất đau xót vì Phủ cũ
NH ngày nay
"không còn dấu tích nhiều bởi dân làng chia nhau chiếm đất cất
nhà đưa lịch sử vào quên lãng"
chẳng khác hai câu thơ trứ danh của Bà Huyện Thanh Quang trong
bài Thăng Long Thành Hoài Cổ
"Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, Nền cũ lâu đài bóng tịch dương".
Bài
viết về Đèo Bánh ít và Núi Ổ Gà cũng vậy. Đây là
nơi mà nxvạn đã có dịp qua lại không biết bao nhiêu lần trên con
đường đi học từ Vạn giả vô Nha Trang hoặc trở về thăm nhà. Với
các địa danh như Làng Hà Thanh, Miếu Ông Hổ, Đèo Bánh ít, Miếu
Thờ Bà, Núi Ổ gà... làm cho chúng ta biết được tên tuổi quê
hương vì đâu mà có với những nét chấm phá lịch sử ít người con
giữ lại trong ký ức.
Trước
đây thời còn trung học, người viết hay đón xe đò ở bến xe Ninh
Hòa (hoặc xe lam) để về quê, thế nào cũng phải chạy qua Đèo Bánh
ít. Đúng! Cái đèo nhọn nhọn trông như cái bánh ít. Ngọn đèo
không cao lắm nhưng dài đủ để xe hơi hay xe lam leo dốc ì ạch
mệt nghỉ. Trong thời chiến tranh trước 75, đoạn đường này cũng
đã tạo nên vô số gian nan cho các cô cậu học trò ngoài Giả vào
Nha trang hay Ninh Hoà học. Xe lửa thì khi có khi không vì bị
mấy "ổng" đặt mìn làm nổ tung đường rầy hoặc lật xe.
Đường bộ cũng vậy, chỉ cần xuống đến nửa dốc Đèo Bánh ít ngó ra
phía Bắc Lạc An là đủ thấy mấy "ổng" lố nhố ở đó rồi...
Đường bộ cũng bị đặt mìn đâu thua gì đường sắt, thử hỏi xe cộ
nào dám chạy qua (!?).
Hầu
hết các xe đò hoặc xe lam gặp ngày xui xẻo có mấy ổng đắp mô hay
đứng gác đường ở phía Lạc An là xe đò phải dừng lại dồn cục ở
dưới chân Đèo Bánh ít chờ khi nào con đường được giải tỏa mới
dám chạy qua, hoặc có khi tài xế bậm môi bậm miệng chở hành
khách liều mạng chạy đại qua Lạc An mà trống ngực đấm thình
thịch vì sự nguy hiểm đang chờ sẵn đâu đó, hoặc bị mìn bẫy, hoặc
bị mấy ổng chận xe lại xét hỏi, bắt người v.v... Ôi thiên nan
vạn nan!
Vừa
đến Lạc An, ở phía trên ruộng xa xa thì thấy có bóng người cứ
tưởng là dân làng, thật ra không phải vậy, ông nào ông nấy súng
ống đầy mình thay cày thay cuốc.... Phía bên phải cách Đèo Bánh
ít chừng một cây số là ngã ba đường xuống Hòn Khói. Thời ấy, tâm
hồn thơ bé của chúng tôi thấy cảnh quê hương như vậy mà đau lòng.
Tuy nhỏ nhưng cũng tự hỏi, cùng là anh em một Mẹ Âu Cơ, cùng một
giòng giống Tiên Rồng với nhau cả mà sao lại kẻ nọ người kia...???
chỉ tội làm khổ cho người dân, tội cho bọn nhỏ như chúng tôi và
cho cả quê hương đất nước !!!
Tôi
nghĩ Ninh Hòa là chốn địa linh nhận kiệt, là chốn thơ văn ngút
ngàn, nếu không sao lại có nhiều nhà thơ đến thế nhỉ? Như bài
Hoa súng Giữa giòng Sông Dinh của anh Phan Đông
Thức (mọc ở trang bìa Đặc san NH) với những câu thơ thật
mượt mà êm ả nhưng gói ghém trọn nổi lòng của một kiếp hồng nhan
(?) của một thời tao loạn mà cành hoa súng là biểu hiện tuyệt
vời:
"Trên dòng sông Dinh,
Một hoa súng vô tình đang nở
Em là hoa của quê hương đó
Em là hương dòng chảy quê tôi
Cuộc đời em sao lắm nổi trôi
Khi nở đẹp khi chìm sâu đáy nước..."
Lời
thơ thật tượng hình với ý nghĩa sâu sắc, như câu:
"Em là súng nhưng em không nổ
Cùng lục bình tím ngắt tri âm"
Và cuối cùng thì anh nhắn nhủ cành hoa không bao giờ thay đổi:
"Súng ơi! Nở mãi dòng Dinh nhé
Dù lũ Trường Sơn súng vẫn hồng!"
Tiếp
theo là bài thơ Còn Đó Ninh Hòa của anh
Dương Công Thi và bài Nghi Phụng Trăng Lên của
Anh Thy (bút hiệu của anh DCThi). Bài thơ Còn Đó Ninh
Hoà diễn tả các địa danh quê hương với phù sa nước mặn, tuy xa
quê hương nhưng lòng vẫn chờ mong:
"Bao thay đổi Ninh Hòa tôi còn đó
Phận nổi trôi nhưng lòng vẫn Ninh Hoà
Năm mốt năm lòng Ninh Hòa để ngỏ
Trong Ninh Hòa còn đó một cành Hoa!!!"
Như
bài thơ thất ngôn bát cú Nghi Phụng Trăng Lên của Anh (Anh
Thy) cũng là bài thơ tuyệt tác tả cảnh đêm trăng giã gạo đến gần
sáng với tiếng chày khua rộn rã để nửa đêm húp một tô chè nóng
hổi thơm mùi nếp mới do chủ nhà đãi. Cảnh đêm trăng giã gạo thật
thanh bình làm tôi nhớ lại bản nhạc
"Gạo trắng trăng thanh"
ngày xưa của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ với tiếng hát của cặp song ca
nổi tiếng Ngọc Cẩm và Nguyễn Hữu Thiết. Anh Thy diễn tả cảnh đêm
trăng giã gạo qua những lời thơ bóng bẩy đối nhau chan chát nghe
thật sướng tai, chứng tỏ anh không phải là một tay vừa trong
làng thơ người Việt mình:
"Đều nhịp chày khua lay bóng nguyệt
Tàn cảnh duyên chớm đọng làn mây
Tô chè nóng hổi thơm mùi nếp
Gạo nước trong ngần dịu cánh tay"
Tạm
giã từ thi hữu, nxvan gặp bài Chùa Hang - Hòn Hèo
của Mục Đồng Trần Thanh Thiên. Nhìn vào tấm ảnh
cậu học trò trẻ trung, đẹp trai, đầu đội mão với cái giải mũ bỏ
thỏng xuống bên tai với bộ áo choàng đen tốt nghiệp đại học làm
mình thấy một cái gì hết sức cảm kích. Nào có phải mục đồng chăn
trâu gì đâu, Mục Đồng Thanh Thiên với bài viết về lịch sử Hòn
Hèo của xứ Ninh Hòa hết sức xúc tích và trình độ chẳng thua gì
các bài viết về lịch sử xứ Ninh của Thầy LVNgô hoặc Vinh Hồ. Mở
đầu là các câu thơ đã trở thành ca dao trong dân gian nghe thật
dễ nhớ, dễ hiểu về những đặc tính của quê hương mình:
"Mây Hòn Hèo,
Heo Đất Đỏ,
Mưa Đồng Cọ,
Gió Tu Hoa,
Cọp Ổ Gà,
Ma Đồng Lớn..."
Mục
Đồng đưa ta vào cảnh non nước Hòn Hèo cũng là nơi nxvạn đi qua
và nhìn ngắm say mê mỗi khi xe chạy ngang Hòn Khỏi hoặc gần tới
Đèo Bánh ít. Nhưng nét lịch sử của Hòn Hèo ít người biết, nơi có
loại
"mây bông, cây vừa to vừa thẳng, thích hợp để làm nhiều vật dụng
cho dân địa phương, nhất là làm hèo (gậy) nên giới bình dân gọi
tên núi là Hòn Hèo"...
Nhờ
Mục Đồng mà nxvan biết được Hòn Hèo là ngọn núi cao nhất trong
dãy quần Sơn Phước Hà với chiều cao 819 mét. Là nơi từng là cứ
điểm trú quân và khởi binh của các tướng sĩ trong Phong Trào Cần
Vương là Trịnh Phong và Trần Đường dấy bình nổi lên chống Pháp.
Về thời tiết
"Hòn Hèo đội mũ là trời sắp mưa"
là 'trạm khí tượng' thiên nhiên báo hiệu cho dân làng và
xứ Ninh biết thời tiết mưa nắng như thế nào. Mục Đồng cũng vẻ ra
cho ta thấy khung cảnh tuyệt đẹp của núi Tiên Du, Chùa Phụng Sơn,
Thạch Sơn Cổ Tự, Chùa Linh Phong, Chùa Hang v.v... để nghe
"gió khua lá cây xào xạt, chim hót mừng lữ khách hồi hương, hơi
mát lạnh từ hang đã tỏa ra, bạn cứ tưởng như mình đang lạc vào
tiên cảnh...".
Đây
là một bài viết thật xuất sắc khiến nxvạn cũng mê mẫn theo cảnh
"non bồng nước nhược"
của xứ nem, xứ rượu Ninh Hòa...

Nguyễn Văn Sanh
NXV