C Ư Ớ I
G Ả
T H E O
T Ụ C L Ệ
CỔ
TR U Y Ề N
PHẦN 1:
KHÁI NIỆM:
C ưới là
làm lễ chính thức lấy nhau. Cưới hỏi hay cưới xin là làm lễ cưới theo
tục lệ cổ truyền.
G ả
là bằng ḷng cho con gái ḿnh lấy 1 người nào đó làm chồng, gả bán là
gả có đủ cheo cưới, tức là có đủ thủ tục về lễ cưới theo tục lệ cổ
truyền. Cheo là khoản tiền mà người con gái thời xưa phải nộp cho làng
khi đi lấy chồng, gọi là nộp cheo:
- Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau
- Nuôi lợn th́ phải vớt bèo
Lấy vợ th́ phải nộp cheo cho làng
- Ông xă đánh trống th́nh th́nh
Quan viên mũ áo ra đ́nh ăn cheo
C ̣n sêu
là nhà trai đưa lễ vật đến biếu nhà gái trong các dịp Tết trước khi
cưới gọi là sêu Tết.
T ừ đó
có từ cưới gả, tức là cưới vợ gả chồng, hay dựng vợ gả chồng. Dựng vợ
gả chồng c̣n gọi là hôn nhân, cưới xin, hôn thú, hôn thư, giá thú (giá
là lấy chồng, thú là lấy vợ)
H ôn
nhân là việc nam nữ chính thức lấy nhau. Hôn phối là kết hôn. Hôn lễ
là lễ cưới.
Ngày xưa "nữ
thập tam nam thập lục"
là có thể dựng vợ gả chồng được. Người ta rất kén chọn
"lấy
vợ xem tông lấy chồng xem giống"
không đặt nặng sắc đẹp mà đặt nặng nết na:
"Cái
nết đánh chết cái đẹp / Tốt gỗ hơn tốt nước sơn / Vợ đẹp là vợ người
ta".
N gày
xưa, cưới xin cứ đến tối mới đi rước dâu nên gọi là hôn lễ. Hôn là lễ
cưới, hôn cũng có nghĩa là tối, khoảng thời gian từ lúc mặt trời lặn
đến lúc đi ngủ (khoảng từ 7 giờ tối đến 10 giờ đêm), đó là thời điểm
âm dương giao hoán với nhau, rất tốt cho việc dựng vợ gả chồng, theo
quan niệm của người xưa.
N gười
Việt xưa trọng lễ nghĩa. Việc cưới gả được tổ chức rất long trọng từ
triều đ́nh xuống thứ dân.
T riều
đ́nh nhà Nguyễn có đặt bộ Lễ, quanh năm lo việc lễ nghi cúng tế rất
nhiêu khê, tốn kém và mất thời gian. Như lễ cưới của công chúa tổ chức
liên tục 3 ngày gồm 6 lễ, mỗi ngày cử hành 2 lễ, riêng lễ nạp thái (lễ
đầu tiên trong 6 lễ) gồm những lễ vật:
1
con trâu, 1 con lợn, 2 mâm trầu cau, 2 ṿ rượu ngon, 2 cây gấm, 10 tấm
lụa, 4 thỏi vàng, 1 đôi bông vàng, 1 cái trâm vàng, 2 chuỗi ngọc, 16
thỏi bạc...
L ễ
nạp thái (1 trong 6 lễ) của hoàng tử gồm những lễ vật:
2
thỏi vàng ṛng, 4 thỏi bạc, 2 cây gấm, 6 cây lụa, 20 cây vải tốt, 1
đôi xuyến, 1 đôi hoa tai, 1 bộ trâm vàng, 2 chuỗi hạt châu quư, 1 con
trâu, 1 con ḅ, 1 con heo (các con vật sơn màu đỏ nhốt trong những cũi
cũng sơn màu đỏ).
Tại làng xă, các nhà phú quư vẫn giữ 6 lễ ( Phú
quư sinh lễ nghĩa) nhưng đă thay
đổi rất nhiều và lễ vật cũng giảm đi rất nhiều, c̣n giới b́nh dân th́
thường tổ chức lễ cưới rất du di linh động.
" Cây
có cội nước có nguồn"
người có ông bà tổ tiên, việc t́m hiểu phong tục tập quán của người
xưa là điều cần thiết, tục lệ cưới gả của người xưa là một nét văn hóa
độc đáo của Dân tộc đă góp phần củng cố gia đ́nh bền vững, làm nền
tảng vững chắc cho xă hội, trải suốt 4.000 năm lịch sử vẫn giữ vững
nền độc lập tự chủ của đất nước trước bao thế lực xâm lược bạo tàn.
LỤC LỄ VÀ CÁC LỄ KHÁC:
Ngày xưa việc cưới gả được tổ chức tuần tự theo 6 lễ:
1. Lễ dạm (c̣n gọi là lễ
chạm ngơ hay coi mắt):
L à ướm
ư xem có ưng thuận không để chính thức làm lễ sơ vấn.
K hi nhà
trai t́m được một nhà gái vừa ư thường là
"môn
đăng hộ đối"...
hay khi người con trai phải ḷng một cô gái:
- Thấy em đẹp nói đẹp cười
Đẹp người đẹp nết ra vào đoan trang
- Tôi về
thưa với mẹ cha
Chạy lo sáu
lễ đem qua cưới nàng
Mâm trầu hủ
rượu đàng hoàng
Cậy mai đến
nói phụ mẫu nàng th́ xong
N hà
trai nhờ ông mai đến nhà gái ướm ư rằng ḿnh muốn
"bước
đến"
thăm chơi làm quen, nếu nhà gái đồng ư th́ nhà trai sẽ chọn ngày lành
đến viếng nhà gọi là lễ dạm. Lễ này không dùng lễ vật, trong câu
chuyện trao đổi chưa đề cập đến việc hôn nhân.
2. Lễ sơ vấn:
N hà
trai mua bánh, mứt, rượu, trà, đường phèn... mỗi thứ 1 cặp, đến viếng
và biếu nhà gái gọi là "đi
cho đồ",
trước khi đi, ông mai báo cho bên gái biết để chuẩn bị đón tiếp. Trong
câu chuyện cũng chỉ nói bóng gió chứ chưa đi vào vấn đề then chốt. Vài
ngày sau, nếu nhà gái im lặng tức là đă chấp thuận, c̣n nếu nhà gái
mang quà đến nhà trai đáp lễ tức là chính thức từ chối cuộc hôn nhân,
gọi là "đi
trả đồ":
Duyên ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc như đèn mới khêu
3. Lễ vấn danh:
N ếu
lễ sơ vấn trôi chảy, nhà trai sẽ nhờ ông mai sang nhà gái trao mảnh
giấy ghi tên tuổi chàng trai, nếu nhà gái bằng ḷng th́ cũng cho biết
tên tuổi cô gái. Nhà trai chọn ngày tốt cùng ông mai mang lễ vật đến
nhà gái làm lễ vấn danh, gồm 2 chai rượu, 6 miếng trầu, 6 miếng cau, 2
hộp trà, cùng bánh, mứt, đường phèn... mỗi thứ 1 cặp... Ông mai thay
mặt bên trai nói rơ ư định muốn hợp thức hóa cuộc hôn nhân, kết t́nh
sui gia. Nếu bên gái đồng ư th́ chàng trai sẽ được phép ở lại nhà gái
3 ngày, làm mọi việc như con cái trong nhà, Từ đó, gặp ngày mồng Năm
tháng Năm (Tết Đoan Ngọ), ngày Tết Nguyên Đán, hay ngày giỗ kỵ bên nhà
gái, th́ chàng rể phải mang lễ vật đi Tết vợ, gồm đầu heo, trà rượu
bánh, v.v... Nếu giàu có th́ lễ Tết là 1 con heo nhốt cũi, cùng nếp
đậu bánh trái...
N gày
xưa, khi cha mẹ bằng ḷng th́ con cái phải nghe theo:
Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó
N ếu
bên trai nửa chừng bỏ cuộc th́ công của coi như mất hết, nhưng nếu bên
gái nửa chừng hồi hôn th́ phải bồi hoàn gấp đôi:
Trai chê vợ của đổ xuống sông
Gái hồi chồng của một thành hai
S au lễ
sơ vấn 1 thời gian, ông mai liên lạc với nhà gái để xin xúc tiến lễ
hỏi.
VINH HỒ
1/2005
(C̣n Tiếp)
Tài liệu tham khảo:
Việt Nam Phong Tục
của Phan Kế Bính
Non Nước Khánh Ḥa
của Nguyễn Đ́nh Tư
Hôn Lễ của Viên Mai
Thơ trích dẫn trong
bài là Ca dao Tục ngữ
Tục lệ cưới gả, tang
ma của người Việt xưa,
của Phan Thuận Thảo. Nhà xuất bản Thận Hóa, 1999
Phong Tục Hôn Nhân
của Dân Việt, Khải Chính
Phạm Kim Thư, đăng trên mạng lưới:
http://e-cadao.com/phongtuc/index.htm
|