|
|

Chuyến
Đi
Của
BILL
GATES
Và
Sự
Phát
Triển
Của
Công Nghệ Thông Tin
(IT)
Tại
Việt Nam:
Nguyễn
Văn
Thành


Phần 2:
Ô ng
Bill Gates một mặt khuyên các sinh viên Việt Nam dành nhiều thời giờ để
học môn Toán học và môn Khoa học Điện toán (Computer Science: Khoa học
Thông tin). Ông nhận xét rằng với giới sinh viên Việt Nam, trẻ và thông
minh đă đạt nhiều giải về Olympic Toán, Lư, Hóa và như vậy nước Việt Nam
có khả năng trở thành một nền kinh tế phép lạ (miracle) bằng cách đầu tư
thanh niên vào Khoa học Thông tin.
C h́a khóa để xử
dụng Khoa học Thông tin hầu giúp ích sự phát triển kinh tế và trở thành
một nước xuất cảng phần mềm th́ việc đầu tiên là phải đầu tư vào nền giáo
dục. Bill Gates nói rằng theo nhận xét của ông đối với sự đóng góp của các
nhà trí thức trẻ Việt Nam th́ trong thập niên tới sẽ đẩy Việt Nam gia nhập
vào các nước có nền kinh tế phát triển như là một phép lạ. Ông cũng khuyến
khích các sinh viên Việt Nam thường xử dụng mạng lưới thông tin (mạng
Internet) càng nhiều càng tốt và học tập nền kinh tế toàn cầu (global
economy). Tất cả các cơ hội của Việt Nam là nằm trong nền kinh tế toàn cầu.
Việt Nam chẳng những đầu tư vào ngành sản xuất chế tạo (manufacturing)
nhưng c̣n phải đầu tư vào sự phát triển phần mềm và tham dự các chương
tŕnh phát triển phần mềm của các nước khác.
T uy nhiên, tại
Việt Nam sự đánh cắp và sao chép các phần mềm với kỷ lục thế giới là 92% (The
Business Software Alliance, a Washington-based lobby group, estimates that
92 per cent of the software used in Vietnam in 2004 was pirated, the
highest rate in the world.). Điều này
có nghĩa là chỉ có 8% th́ mua, phần c̣n lại là sao chép bất hợp pháp.
Như vậy việc kiểm
soát không được phép sao chép bất hợp pháp chẳng những bảo bệ tác quyền
của công ty ngoại quốc mà cũng bảo vệ tác quyền của những công ty Việt Nam
vậy.
M icrosoft cố gắng
giúp Việt Nam thiết lập trên mỗi thành phố các trung tâm công nghệ thông
tin, giúp đỡ huấn luyện các chuyên viên điện toán và cung cấp mạng lưới
Internet không mất tiền (free) trong một năm.
Ô ng Bill Gates kết
kuận rằng ông rất lạc quan (optimistic) về tương lai Công nghệ Thông tin
tại Việt Nam nếu Việt Nam đầu tư nhiều về giáo dục.
Trước hết, ta hăy xét sự đào tạo về Công nghệ Thông tin
tại nước tiến nhất thế giới là Mỹ quốc rồi hăy t́m xem ở Việt Nam phải cải
tổ như thế nào để có thể tham gia Công nghệ Thông tin trong nền kinh tế
toàn cầu.
T ại Mỹ v́ việc học
theo lối tín chỉ , cho nên bất cứ ngành nào cũng có thể học tập về Khoa
học Thông tin. Chẳng những trường Kỹ thuật (Institute of Technology) tại
các viện đại học có ngành về Khoa học Điện toán (Computer Science) hoặc Kỹ
Thuật Thông tin, cấp phát văn bằng Cử nhân Khoa học Điện toán (Bachelor of
Science in Computer Science - BS), Thạc sĩ Khoa học Điện toán (Master of
Science in Computer Science - MS), và Tiến sĩ Khoa học Điện toán (Ph D in
Computer Science) mà tại các trường Đại học Nhân văn (Liberal Arts) cũng
có ngành Điện toán, cấp phát văn bằng Cử Nhân Nhân văn Điện toán (Bachelor
of Arts in Computer Science – BA).
N goài ra, tất cả
các bằng Kỹ sư hoặc Cử nhân đều có thể học một hay nhiều lớp về Điện toán,
Khoa học Thông tin dù là Kỹ sư Cơ khí, Kỹ sư Điện, Kỹ sư Công chánh, Kỹ sư
Hóa học, v.v.... Ấy là chưa kể tất cả các bằng Cử nhân Toán, Cử nhân Vật
lư, Cử nhân Hóa học,...thậm chí như Cử nhân Anh văn, Pháp văn, Văn chương,
Quản trị Kinh doanh cũng đều có quyền lấy một hay nhiều lớp về Điện toán.
V à như vậy gần như
toàn thể các sinh viên tồt nghiệp Kỹ sư, Cử nhân, Thạc sĩ,.v.v... đều là
những người có khả năng và có thể xử dụng tinh thông về Công nghệ Thông
tin nhiều hay ít. Điều này có nghĩa là Công nghệ Thông tin không chỉ giới
hạn cho những người có bằng Cử nhân Điện toán. Ta thấy rằng trong nhiều
công ty của Mỹ có rất nhiều người Kỹ sư phần mềm (software engineer) không
có bằng cấp CỬ NHÂN ĐIỆN TOÁN chẳng hạn như Cử nhân Toán, Vật lư, Hóa học,
Văn chương, Kỹ sư, v.v...
X em như vậy, sự
phát triển phần mềm không những chỉ dành riêng cho sinh viên ngành Điện
toán mà dành cho tất cả mọi người tốt nghiệp Đại Học. Tại các nước khác
như Âu Châu, Nhật Bổn, Ấn Độ, Đại Hàn, Đài Loan, Singapore, Gia Nă Đại,
Tân Tây Lan (New Zealand), Úc châu, v.v... đều học như vậy. Tại Ấn Độ với
nhu cầu thống nhất ngôn ngữ của trên 1 tỷ dân và là cựu thuộc địa của Anh
quốc nên tiếng Anh gần như là ngôn ngữ chánh trong việc giáo dục, thương
mại, các việc của chính phủ, v́ vậy ta thấy rằng trước năm 1990 nước Ấn Độ
hoàn toàn rập theo nền kinh tế xă hội chủ nghĩa của Liên sô mặc dầu nước
này không phải nước Cộng Sản, nhưng kể từ năm 1990 sau khi Liên sô sụp đổ
th́ Ấn Độ lập tức chuyển sang kinh tế thị trường và nay đại đa số các phần
mềm ở Mỹ đă được chuyển sang Ấn Độ tại thành phố Bangalore như ta đă nói ở
phần 1.
N hư đă phân tích ở
trên, Mỹ quốc đă đầu tư nhiều vào nền kỹ nghệ vào Trung Quốc để giúp đỡ
nước này phát triển nhưng sau đó nhận thấy rằng một khi Trung quốc càng
lớn mạnh về kinh tế th́ tham vọng chính trị càng nhiều. Với sự gia tăng
quân sự đe dọa Đài Loan v́ vậy Mỹ đem Công nghệ Thông tin sang các nước Á
Châu có lương Kỹ sư thấp nhưng có tŕnh độ phát triển các phần mềm và hoàn
tất các phương án do các công ty ngoại quốc mang đến. Hiện nay, họ mang
đến Ấn Độ, tương lai họ sẽ mang sang Thái Lan và Việt Nam.
T ại
sao họ không mang sang Nam Dương ?
V́ Nam Dương có 240 triệu dân theo Hồi giáo làm cho
t́nh h́nh không được ổn định như tại Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam (nạn
khủng bố tại Nam Dương nhiều hơn tại Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam). Tuy nhiên,
muốn hoàn tất các công tác mà Mỹ quốc và các nước khác mang đến Việt Nam
th́ Việt Nam cần phải đầu tư về giáo dục như ông Bill Gates đă nói nhiều
lần. Hiện nay, Việt Nam chính thức chỉ có 2 trường Bách Khoa tại Hà Nội và
Sài G̣n, là có lớp đào tạo Cử nhân, Kỹ sư Điện toán nhưng sinh viên tốt
nghiệp tại các trường này th́ không có nhiều. Riêng Đại học Hà Nội có hệ
đào tạo bằng Cử nhân thứ hai về Điện toán nghĩa là ai đă có bằng Cử nhân
th́ chỉ cần học thêm 2 năm là tốt nghiệp bằng Cư Nhân Điện Toán (bằng Cử
nhân thứ 2) nhưng cũng sản xuất không nhiều v́ phải thi vô và thiếu thầy.
V ậy việc đầu tiên
là Việt Nam phải thay đổi hệ thống giáo dục từ niên chế sang tín chỉ. Đại
học Hà Nội cũng như Sài g̣n dự định năm 2010 mới thi hành, như vậy là quá
chậm mà nên thi hành càng sớm càng tốt. Cũng như Đại học Mỹ, Đại học trong
bất kỳ hệ Cử nhân hay là Kỹ sư nào cũng được phép lựa một hay nhiều lớp
Điện toán th́ Việt Nam mới đủ chuyên viên phần mềm để làm các việc mà
ngoại quốc mang lại cho Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam phải chọn nhiều sinh
viên đi du học về ngành Thạc sĩ và Tiến sĩ Điện toán, và các sinh viên
phải thực tập ở ngoại quốc khoảng chừng vài năm, tới khi hành nghề mới đủ
kinh nghiệm.
A i
cũng biết, muốn đầu tư vào kỹ nghệ: kỹ nghệ nặng như chế xe hơi, phi cơ
th́ rất tốn kém và phải có tư bản tức là có tiền của để xây dựng nhà máy,
trong khi đó việc phát triển Công nghệ Thông tin, ta chỉ cần chất xám (tri
thức). Nước Việt Nam không có nhiều tiền như các nước tư bản tiền tiến
nhưng đầu óc của thanh niên sinh viên của Việt Nam th́ chẳng kém ai. Trên
thế giới này, đành rằng nước nào cũng có nhiều nhân tài nhưng trí thông
minh của các sinh viên Việt Nam dù không thể hơn Nhật hay Mỹ nhưng ít nhất
cũng bằng hay hơn Thái Lan và Ấn Độ. Vậy nếu Việt Nam đầu tư nhiều về Kỹ
nghệ Thông tin th́ Việt Nam đi từ sở đoản sang sở trường giúp cho đất nước
nhanh chóng phát triển không thua kém nguời khác.

Tóm lại muốn cho Việt Nam có thể phát
triển về Khoa học Thông tin, nên theo các phương thức sau đây:
1
Nhanh chóng chuyển đổi chế độ niên chế sang chế độ
tín chỉ tại Đại Học.
2
Mở rộng cửa các trường Đại học để cho tất cả các
sinh viên nào muốn vào Đại học có học vấn cơ bản (Tốt nghiệp Trung Học )
là được nhận vào học.
3
Băi bỏ những môn học nào không cần thiết như triết
học Mác-Lênin và thay thế vào các lớp Điện toán, Anh văn để cho sinh viên
khi tốt nghiệp có thể ra làm việc với các công ty ngoại quốc v́ họ chỉ xử
dụng tiếng Anh.
4
Cho phép nhiều sinh viên du học các ngành Điện toán
và Quản trị Xí nghiệp (Business Administration - gọi tắt là MBA) về các
chương tŕnh Thạc sĩ (Master) và Tiến Sĩ (PhD).
5
Cho toàn thể các công ty ở Việt Nam dù là quốc doanh
hay tư doanh các quyền lợi như nhau để các công ty này có thể cạnh tranh
với công ty ngoại quốc khi Việt Nam nhập vào tổ chức mậu dịch quốc tế WTO.
6
Cho các trường Đại học Ngoại quốc danh tiếng lập chi
nhánh ở Việt Nam. Trước kia trường Đại Học Hà Nội là chi nhánh của Đại học
Sorbonne PARIS.

Tham khảo:
T rong việc hoàn tất loạt bài này, tác giả đă tham khảo những tài liệu
của các Websites sau đây:
Nhà
Bill Gates:
http://www.usnews.com/usnews/tech/billgate/gates.htm
http://maps.yahoo.com/beta/#maxp=search&q1=1835+
73RD+AV+NE+Medina,+WA&trf=0&mvt=s&lon
=-122.24292&lat=47.62757&mag=3
http://www.goehner.com/gates.htm
http://en.wikipedia.org/wiki/Bill_Gates'_house
Lư lịch Bill Gates:
http://en.wikipedia.org/wiki/Bill_Gates
http://www.microsoft.com/billgates/bio.asp
Cuộc viếng thăm Việt Nam:
http://www.vietnamembassy-usa.org/
news/story.php?d=20060421183755
http://news.moneycentral.msn.com/provider/providerarticle.
asp?feed=AP&Date=20060422&ID=5658640
Sao chép bất hợp pháp
phần mềm (nhu liệu)
http://www.cdrinfo.com/forum/tm.asp?m=112717&mpage=1&
Công nghệ thông tin tại Bangalore, Ấn Độ
http://www.bangaloreit.in/html/itscbng/it_sc_bng.htm

Nguyễn
Văn
Thành
2/6/2006
|
|