trang truyện và Thơ của Trần Hà Thanh              |                 www.ninh-hoa.com

TRẦN HÀ THANH

  Cựu Hiệu trưởng:
Trung học Ninh Ḥa
(Trần B́nh Trọng)
Niên khóa 1971-1975


Hiện cư ngụ tại:
Tiểu bang California,
Mỹ Quốc


 

 

 

 

 


T   Q U C   N G  
Đ N   V I T   N G

Trần Hà Thanh

 

 

 

 “….Chữ quốc ngữ là hồn trong nước

 Phải đem ra tỉnh trước dân ta,

 Sách các nước, sách chi na

 Chữ nào nghĩa ấy dịch ra cho tường

 ……………………………………. .

Trên đây là trích đoạn bài thơ khuyến khích việc học chữ quốc ngữ của Đông Kinh Nghĩa Thục.

Đầu thế kỷ 20 các sĩ phu nho học vận động mở trường dạy chữ quốc ngữ khắp nước. Rầm rộ nhất ở Quảng Nam ( 1905 ), B́nh Thuận ( Trường Dục Thanh 1907 ) và Hà Nội ( Đông Kinh Nghĩa Thục 1907 ).

 

Ngược ḍng lịch sử hơn một ngàn năm trước tầng lớp sĩ phu nho học sáng tạo chữ nôm nôm đọc trại từ chữ nam.  Chữ nôm vào thời đó là chữ Quốc Ngữ.  

 

Phổ quát hơn Quốc Ngữ là chữ viết của một dân tộc theo ḍng lịch sử.

 

Kể từ năm 939 sau công nguyên Vua Ngô Quyền mở đầu thời đại tự chủ, chữ Hán hay chữ nho được Triều Đ́nh dùng như một quốc ngữ. Loại quốc ngữ nầy được dùng trong các văn kiện hành chánh ( chiếu chỉ Vua ban, sớ tấu … ) hoăc hoặc ngoại giao như giao tiếp vớí nước ngoài qua đối thoại tiếp sứ thần nước ngoài hoặc kư ḥa ước. Chẳng hạn cuối thế kỷ 19 các ḥa ước 1862, 1874, 1883, 1884 giữa Triều Đ́nh Huế và Pháp được chép thành hai bản : một bản bằng chữ Pháp và một bản bằng chữ Hán ( chữ nho ).

 

Có một trở ngại lớn từ Vua quan đến dân đều nói tiếng Việt, từ đó mới có tiếng Hán Việt, dần dần giới trí thức ( quan lại )có tinh thần độc lập sáng kiến ra chữ viết”quốc ngữ “ một cách độc lập : đó là sự ra đời Chữ Nôm.

 

Đến thế kỷ 13 th́ chữ nôm được chính thức sử dụng qua bái văn “Tế Cá Sấu “.

 

Dưới triều đại Trần Nhân Tôn ( 1279-1293 ) quan H́nh Bộ Thượng Thư Nguyễn Thuyên làm bài văn tế “ Tế Cá Sấu “bằng chữ nôm như trích đoạn sau :

 Ngạc ngư kia hỡi có hay

 Biển đông rộng răi là nơi mày

 Phú Lương đây thuộc về thánh vực

 ……………………………………

 Ta vâng đế mạng bảo cho mày

 Hăy về biển đông mà vùng vẫy.

 

Tương truyền sau khi quan Nguyễn Thuyên đọc bài văn tế nầy, cá sấu đều bỏ đi hết ra biển.

 

Vua Trần Nhân Tôn so sánh việc làm của quan H́nh Bộ Nguyễn Thuyên với việc làm của Hàn Dũ đời Nhà Lương bên Trung Quốc nên đổi họ từ Nguyễn Thuyên sang Hàn Thuyên.

 

Theo Giáo Sư Dương Quảng Hàm ( Việt Nam Văn Học Sử Yếu ) th́ Hàn Thuyên làm thi phú bằng quốc âm nên có thể coi ông là ông tổ của văn nôm.

Tuy nhiên nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thật khó xác định thời điểm chính xác sự ra đời của chữ nôm. Nhiều người cho rằng chữ nôm xuất hiện từ đời Lư thế kỷ thứ 11, cũng có người cho rằng chữ nôm xuất hiện sớm hơn v́ ngay từ thời Phùng Hưng ( thế kỷ thứ 8 ) đă có tiếng nôm “bố” và “cái “ trong danh xưng Bố Cái Đại Vương.

 

Về mặt phát triển sau Hàn Thuyên, chữ nôm được gọi là quốc ngữ như tập thơ nôm của nhà nho Chu Văn An được tác giả gọi là Quốc Ngữ Thi Tập, càng về sau nhiều tác phẩm bằng chữ nôm nổi tiếng ra đời như thơ nôm đời Hồng Đức, tập thơ nôm Chinh Phụ Ngâm ( bản dịch của Đoàn Thị Điểm ; nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần Côn ) như Thiên Địa Phong Trần

 

 Hồng Nhan Đa Truân

 

Hồng Hà Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm dịch ra chữ nôm:

 

Thủa trời đất nổi cơn gió bụi,

 Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

 

Cao điểm là Truyện Kiều của Nguyễn Du.  Vua Tự Đức ca tụng : Mê ngựa Hậu Bổ; mê thơ nôm Thúy Kiều.

 

Về sau Nhà Nghiên Cứu Phạm Quỳnh xác nhận :

Truyện Kiều c̣n, Tiếng ta c̣n; Tiếng ta c̣n, Nước ta c̣n.

Dù vây trên 90% dân số thuộc giới b́nh dân (nông dân ) sau lũy tre xanh không chấp nhận chữ nôm là quốc ngữ v́ chữ nôm khó nhớ và khó học mà muốn hiểu được chữ nôm phải thông thạo chữ nho.  Do đó ca dao, tục ngữ, chuyện cổ tích trong dân gian được truyền khẩu qua mấy ngàn năm lịch sử.

 

Do hoàn cảnh lịch sử, song song với sự phát triển của chữ nôm từ thế kỷ 17 một chữ mới xuất hiện.

Chữ mới xuất hiện trong quá tŕnh giới giáo sĩ giảng đạo ở Đàng Trong thuộc Chúa Nguyễn và Đàng Ngoài thuộc chúa Trịnh ( Đàng Trong và Đàng Ngoài gọi các giáo sĩ là Tây Dương Đạo Trưởng ).  Họ cần hiểu và nói được tiếng Việt, đó là lúc đầu, kế tiếp họ cần phổ biến kinh sách. Kinh sách hay kinh thánh đều được viết bằng chữ nho ( được đem từ Ma Cao hay Nhật sang ). Đa số dân Việt ở duyên hải hay nông thôn lại không biết chữ nho nếu dịch ra chữ nôm th́ không giải quyết được vấn đề. Từ đó mới có sáng kiến dùng mẫu tự La Tinh. Mẫu tự La tinh gồm 25 chữ cái được lắp ghép thành chữ mới. Loại chữ nầy dễ học ( dễ đánh vần ) dễ viết dễ sử dụng.

 

Trước năm 1975 ở Miền Nam Việt Nam, chúng tôi thấy nhiều nhà truyền giáo Tin Lành cũng dùng cách lắp ghép 25 chữ cái thành một thứ chữ mới dùng để giảng đạo và phát hành kinh thánh cho nhiều bộ tộc ở cao nguyên Trung Phần Việt Nam.

Trở lại vấn đề : Lúc đầu mục đích các giáo sĩ dùng chữ mới để truyền đạo chứ không nhắm mục đích tạo chữ mới cho dân tộc Việt Nam.

 

Người đầu tiên sáng chế ra chữ quốc ngữ là giáo sĩ người Bồ Đào Nha thuộc Ḍng Tên Francisco de Pina ( 1585-1625 ). Công việc nầy nhờ sự hợp tác của thanh niên Việt gọi là Phero. Năm tháng kế tiếp nhiều giáo sĩ Bồ Đào Nha làm công việc vừa nêu để truyền giáo.

 

Về sau một giáo sĩ Ḍng Tên khác nối tiếp công việc hoàn thiện hơn việc dùng chữ quốc ngữ. Đó là giáo sĩ Alexandre de Rhodes ( 1591-1660 ) : Giáo sĩ Alexandre de Rhodes đến Hội An năm 1624, học tiếng Việt ở địa phương trong đó có một thiếu niên 13 tuổi ở Hội An. Thiếu niên nầy trở thành con nuôi và trở thành thầy giảng có tên Raphael Rhodes. Năm 1645 A.  de Rhodes bị trục xuất ra khỏi Đàng Trong một thời gian sau trở lại.

Hoàn thành cuốn tự điển :Dictionarium Annamiticium-Lusitanium-Latinium (Tự điển An nam – Bồ Đào Nha – La tinh ) năm 1651.

 

Đây là tổng hợp công tŕnh kiến tạo ra chữ quốc ngữ do nhiều giáo sĩ Ḍng Tên trước đó.

Giáo sĩ Alexandre de Rhodes có một tác phẩm có tên là : Phép Giảng Tám Ngày ra đời năm 1652.

 

Sau đây là trích đoạn các bản văn bằng chữ quốc ngữ thời phôi thai:

 

- Bản kinh “Kính Lạy Cha “ 1632 :

Trích đoạn : Cia Cium toi ơe t-len bloi, ciu1m toi nguyen daim cia că sám

( tạm dịch Cha chúng tôi ở trên trời, chúng tôi nguyện danh cha cả sáng ).

 

Về phép giảng tám ngày ( 1652 )

                  Ngày thứ nhít

Ta càu cũ đức Chúa Bloi giup fuc cho ta biet1 to tuăng đạo chúa ….

 

Tạm dịch : Ngày thứ nhất

Ta cầu cùng Đức Chúa Trời giúp sức cho ta biết tỏ tường đạo chúa dường nào ….

 

Tiếp theo xin đề cập đến vai tṛ của Thừa Sai Alexandre de Rhodes ở Đại Việt ( Đàng Trong và Đàng Ngoài ) đầu thế kỷ 17 :

 

Suốt 20 năm truyền giáo ở Đại Việt, giáo sĩ bị sáu lần trục xuất. Lư do Chúa Trịnh ở Đàng ngoài cũng như Chúa Nguyễn ở Đàng Trong đều nghi giáo sĩ nầy làm do thám.

 

Xúc phạm các tôn giáo khác qua bài giảng : Phép Giảng Tám Ngày : gọi Phật Thích Ca là Thằng Hay Dối.

 

Khi Hội Truyền Giáo Paris ở Hải Ngoại ( Paris Foreign Missions Society ) được thành lâp, Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes muốn đến Đại Việt một lân nữa nhưng phải đi Ba Tư. Thay vào đó là hai giáo sĩ : Francois Pallu và Pierre Lambert de La Motte.

 

Chuyện phát âm “ng” : T́nh cờ có người đi du lịch đến Brasil. Người Brasil phát âm rất chính xác như người Việt trong âm “ng” như : Nga ngủ ngon

 

Hỏi ra mới tổ tiên một số người Brasil là người Bồ Đào Nha. Như thế th́ Giáo Sĩ người Bồ Đào Nha có công lớn trong quá tŕnh h́nh thành chữ quốc ngữ.

 

Giờ xin trở lại sự tiến triến chữ quốc ngữ từ thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19.

 

Suốt thời kỳ vừa nêu chữ quốc ngữ âm thầm phát triển tuy không có tác phẩm văn học, thi ca hay tiểu thuyết ra đời bằng chữ quốc ngữ ngoại trừ những bản in về kinh thánh …Cho đến khi không c̣n kỳ thi hương ( bài thi bằng chữ nho ) sau ḥa ước Nhâm Tuất ( 1862 ) : Ở Nam Kỳ, Tờ báo bằng chữ quốc ngữ ( Tiếng Việt ) ra đời, đó là tờ Báo Gia Định.  Báo Gia Định số 4 ngày 15-4-1867, Học Giả Petrus Kư ( 1837-1898 ) khuyến khích việc học chữ mới ( chữ quốc ngữ ), trong đó có đoạn như sau : ( do Tôn Thọ Tường viết )

 

“………. Thầy Kư dạy học có làm ra sách mẹo [văn phạm] dạy bằng tiếng Lang Sa [ Pháp ] có làm ra chữ quốc ngữ để người ta dễ học. Những người kư lục [ thư kư ] giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ v́ có hai mươi bốn chữ và viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ [ khó dễ ] cũng viết đặng không phải như chữ Tàu học cả đời mà c̣n có chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường ( Tôn Thọ Tường ) đă học đặng chữ quốc ngữ, viết đặng, đọc đặng.  Chữ ấy không khó đâu, ra công học một đôi tháng th́ thuộc hết ………. ”

Kế đến là Nông Cổ Mín Đàm : Uống trà bàn chuyện làm nông và đi buôn ( tiếng Pháp là Causeries sur l” agriculture et le commerce ).  Nội dung tờ báo đề cập :

Tư tưởng tứ dân ( sĩ nông công thương ) đă lỗi thời

Ở mục thương cổ luận : đề cao việc buôn bán lớn ( sự đại thương )là đệ nhứt cách cho dân phú cường.  Xin trích đoạn lư do thúc đẩy việc ra đời tờ báo : “………. . Trong Đông cảnh Cao Ly, Nhựt Bổn, nước Xiêm la cùng nước Đại Thanh ( nhà Thanh bên Tàu ) đâu đâu cũng đều có công văn nhựt báo.  Há lục tỉnh anh hùng trí dũng lại khoanh tay ngồi vậy mà xem, không thí thố cùng người mà trục lợi ……”

 

Nh́n lại quá tŕnh phát triển chữ quốc ngữ và báo chí ở ba miền Nam Bắc Trung cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 :

- Ở Trung kỳ : Huế : Đông Cổ Tùng Báo 1907

- Ở Bắc Kỳ Hà Nội có Đông Kinh Nghĩa Thục.

- Ở Bắc Kỳ có bảy tờ báo :

- 1/ Gia Định Báo ( 1865-1910 ).

- 2/ Phan Yên báo ( 1868 - ? )

- 3/ Nhựt Tŕnh Nam Kỳ ( viết bằng tiếng Pháp và tiếng Việt- chữ quốc ngữ ; từ 1883- ? )

- 4/ Nam kỳ đia phận ( 1883 – 1944 )

- 5/ Nông cổ Mín Đàm

- 6/ Miscellanees

- 7/ Lục Tỉnh Tân Văn ( 1907- ? ).

 

C̣n nói về sự phát triển chữ quốc ngữ sau năm 1920 ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ : Từ 1920 sau các kỳ thi hương cuối cùng th́ chữ nho không c̣n được sử dụng nữa. Chữ nho là h́nh ảnh “ Vang Bóng Một Thời “ của Lọng anh đi trước, vỏng nàng theo sau; h́nh ảnh Ông Đồ nho trở thành :

 Những người muôn năm cũ

 Hồn ở đâu bây giờ.

Thay vào đó nhiều tác phẩm bằng chữ quốc ngữ xuất hiện như tạp chí, tác phẩm văn học thi ca tiểu thuyết. Tiêu biểu Đông Dương Tạp Chí, Nam Phong Tạp Chí, ngoài tạp chí c̣n có tiểu thuyết trử t́nh như Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách ; rồi đến nhiều tiểu thuyết của Tư Lực Văn Đoàn,tiểu thuyết ca tung ḷng yêu nước chống bắc xâm qua bốn ngàn năm lịch sử ( thi ca cũng như tiểu thuyết giai đoạn từ 1940-1945 ).

 

Việc đưa chữ quốc ngữ vào trường học : Các Trường học ( Trung Tiểu học ) ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ trực thuộc Tổng Nha Học Chánh thuộc Phủ Toàn Quyền Đông Dương. Ở Trung kỳ ngoài chính phủ Bảo Hộ ( Ṭa Khâm Sứ ở Huế và Công Sứ ở các tỉnh ) c̣n có Thượng Thư Bộ Học ( Nam Triều ) cùng lo việc giáo dục.

 

Tuy Tiếng Pháp vẫn là chuyển ngữ ở các bậc trung học và tiểu học song trên cương vị Thượng Thư Bộ Học, Học Giả Phạm Quỳnh đưa tiếng Việt vào giảng dạy ở bậc tiểu học từ lớp năm đền lớp ba. Số trường học thời đó hiếm : Ở Hà Nội vả Huế mới có bậc trung học, c̣n các tỉnh chỉ có trường tiểu học.  Đến năm 1944 mới có có các kỳ thi tú tài ở Huế. Chủ Khảo kỳ thi tài năm đó là Thạc Sĩ Văn Phạm Phạm Duy Khiêm.

 

Tuy Tiếng Việt hay chữ quốc ngữ giữ vai tṛ thứ yếu, song sau ngày 9-3-1945, các trường Trung Tiểu học ở Bắc kỳ và Trung kỳ chuyển ra dùng Việt Ngữ rất suôn sẻ như kỳ thi tú tài năm đó các môn thi đều bằng chữ quốc ngữ : Làm bài thi triết học và toán. .

 

Đặc biết trên b́nh diện quốc gia có Chiếu Chỉ Tuyên Cáo Đế Quốc Việt Nam Độc Lập bằng chữ quốc ngữ.  Báo Điện Tín thời đó đăng tin trang đầu :

ĐẾ QUỐC VIỆT NAM (1)

 Độc Lập

Đó là tuyên ngôn độc lập đầu tiên được viết bằng Tiếng Việt hay Chữ Quốc Ngữ.

 

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập nêu trên do Hội Đồng Cơ Mật soạn thảo. Hội Đồng Cơ Mật được thành lập dưới thời Vua Minh Mạng, song sau Ḥa Ước 1884 nhất là khi Pháp lập Phủ Toàn Quyền ( cai tri 5 xứ Nam Kỳ Bắc Kỳ Trung Kỳ Cao Miên Lào ) th́ Cơ Mật Viện trở thành hữu danh vô thực.  Viên Khâm Sứ Trung Kỳ là Chủ Tịch Cơ Mật Viện. Sau 9-3-1945 Viên Khâm Sứ Trung Kỳ bị Nhật tống giam, do đó Hội Đồng Cơ Mật đảm nhiệm vai tṛ của ḿnh như trước 1884. 

 

Hội Đồng Cơ Mật hay Cơ Mật Viện gồm các Thượng Thư sau đây :

 

Phạm Quỳnh, Hồ Đắc Khải, Ưng Úy, Bùi Bằng Đoàn, Trần Thanh Đạt,Trương Như Đính.

 

Như trên đă đề cập Tuyên Ngôn được viết bằng chữ Quốc Ngữ v́ 61 năm trước đó vào ngày 6-6-1884 có một Ḥa Ước ra đời gọi là Ḥa Ước Giáp Thân giữa Pháp và Triều Đ́nh Huế :

 

Phía Pháp : Công sứ Jules Patenotre.

 

Phía Triều Đ́nh Huế : Nguyễn văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Phan.

 

Ḥa ước được làm thành hai bản : một bản bằng tiếng Pháp và một bản bằng Hán Văn. Bản tiếng Pháp có giá trị hơn v́ có ghi chú : nếu có điều khoản nào trong ḥa ước không thông th́ lấy bản tiếng Pháp làm gốc để giảng giải.

 

Khi Vua Kiến Phúc bi phế, Triều đ́nh Huế lập Vua Hàm Nghi, Viên Tổng Trú Sứ ở Huế hạch hỏi lập Vua không xin phép, Nguyễn Văn Tường làm đơn xin phép bằng chữ nôm (2) đó là cách từ chối việc xin phép.

 

Trở lại nội dung tuyên cáo độc lập ngày 11-3-1945.

…………………………………………………….......

 Trẩm tuyên bố xóa bỏ các ḥa ước bất b́nh đẳng 1862, 1874, 1883, 1884 và sáp nhập Nam Kỳ vào Đế Quốc Việt Nam.....

........................................................................................

 Làm tại Huế ngày 11 tháng 3 năm 1945

 Khâm thử

 Bảo Đại

 

So với bản Ḥa Ước bằng tiếng Pháp ngày 6-6-1884 :

 

 Fait à Hue, le 6 Juin 1884.

........................................................................................

 

Hơn 70 năm sau có hai hiện tượng xẩy đến cho Tiếng Việt.  Đó là công tŕnh của hai tiến sĩ : một của Giáo sư Hồ Ngọc Đại và một của Giáo Sư Bùi Hiền.

 

Về Giáo Sư Đại th́ có chương tŕnh Tiếng Việt lớp 1 Công Nghệ Giáo Dục th́ có cách đánh vần lạ : ba chữ /c/, /k/, /q/ đọc là /cờ/. Chương tŕnh công nghệ đă thử nghiệm 40 năm rồi bây giờ c̣n tiếp tục thí nghiệm cho 39 tỉnh thành cả nước. Ông Tiến Sĩ muốn làm chuyện khác lạ qua mặt bậc tiền bối Giáo Sư Hoàng Xuân Hăn thay thế tiếng Pháp trong bằng chữ quốc ngữ trong kỳ thi tú tài năm 1945.

 

C̣n như Giáo Sư Bùi Hiền th́ có công tŕnh cải tiến chữ viết như Tiếng Việt thành Tieq Viêt ; Người đep Châu Lục thành Quời điọp Câu Lộk.

Cải tiến như thế không khác ǵ trở lại cách viết chữ quốc ngữ hồi thế kỷ 17 như “ Bản “ Kinh Kính Lạy Cha “ (1632 ) hay Phép Giảng Tám Ngày ( 1652 ).

 

Đó là hai hiện tượng trong bức tranh u ám của Tiếng Việt : học sinh không nói rành Tiếng Việt, học sinh dốt và ghét Tiếng Việt.

 

Học sinh kém rồi ghét Tiếng Việt bắt đầu từ nhiều nguyên nhân:

 

Trước hết ngôn từ của Hà Nội ngàn năm văn vật dần dần biến mất hay mai một sau ngày 10-10-1954, ngôn từ hay âm thanh theo đoàn người di cư xuôi nam hay bị lưu đày đến quê hương mới nơi miền thượng du. Thay vào đó là ngôn ngữ của thời chiến tranh hay âm điệu của quân hành :

Đánh lớn thua lớn, đánh nhỏ thua nhỏ, càng đánh càng thua, đánh nữa thua nữa.

 

Do tinh thần dân tộc : tránh dùng tiếng Hán Việt như Làng Sen thay cho Làng Kim Liên, Bến Nghé thay cho Ngưu Chữ ; Bến Tre thay cho Trúc Giang. Song theo tinh thần trên mà đảo ngược th́ mất ư nghĩa.  Chẳng hạn Ngữ Học thành Học Ngữ ( Ngữ Học là môn học về Ngôn Ngữ của một quốc gia như Ngữ Học Anh, Ngữ Học Pháp ; c̣n Học Ngữ có đúng với ư nghĩa như vừa nêu không ? ) ; c̣n nữa B́nh Ngô Đại Cáo lại đổi thành Cáo B́nh Ngô. 

B́nh Ngô Đai Cáo nguyên bản bằng chữ Hán th́ nên để như vậy để tôn trọng tác giả - một anh hùng của dân tộc.

 

Đại ở đây không có nghĩa là to lớn về kích thước mà vĩ đại hay trọng đại ( Great chứ không phải là big ). Như một ông Vua vừa mới qua đời chưa an táng th́ gọi là Đại Hành Hoàng Đế. Đại hành là chuyến ra đi trọng đại.  Sau khi an táng xong Vua mới cùng đ́nh thần luận bàn và đăt tên mới như Vua Gia Long có tên hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế.

C̣n như sợ mang tiếng sính Tàu mà dịch Đại Hành Hoàng Đế thành” Vua đi “

Nghe có thuận tai hay không và có ư nghĩa ǵ nữa không.

 

Lại có chuyện thay đổi địa danh một đoạn trong câu ca dao. Chúng ta đều biết ca dao là khúc hát trong dân gian được lưu truyền theo thời gian cũng như nơi chốn. Người ta không biết tác giả đầu tiên là ai.  Tuy nhiên không v́ thế mà dùng ngôn ngữ tự nhận hoăc người khác bắt tự nhân.  Như đoạn ca dao sau đây :

 Đường vô xứ Huế quanh quanh

 Non xanh nước biếc như tranh hoa đồ

 Ai vô xứ Huế th́ vô.

Th́ địa danh Huế thành Nghệ và tác giả là Thanh Tịnh. Thanh Tịnh là thi sĩ gốc Huế có tên là Trần Thanh Tịnh tác giả bài : “ Tôi đi học ”.

Xác nhận Huế chứ không phải Nghệ nếu đọc tiếp:

Thương em anh cũng muốn vô

Sợ Truông Nhà Hồ sợ phá Tam Giang (3)

Phá Tam giang ngày rày đă cạn

Truông Nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm.

Cũng có chuyện lấy tác phẩm của người làm tác phẩm của ḿnh : như xứ Đàng Trong có tác phẩm Khai Quốc Công Nghiệp Diễn Chí của tác giả Nguyễn Khoa Chiêm th́ được đổi lại thành “ Mộng Bá Vương “ ; như Nhà Nghiên Cứu Phan Khoang, Giáo Sư Đại Học trước năm 1975 ở Miền Nam, là tác giả của Lịch Sử Xứ Đàng Trong, tác phẩm nầy được in lại không ghi tên tác giả ( Phan Khoang ) mà mập mờ ghi Nhà Xuất Bản X hay Y ǵ đó, suốt tác phẩm chỉ thay đổi có một chữ duy nhất “ phúc “ thành “phước “ ( Nguyễn Phúc thành Nguyễn Phước )

 

Rồi có chuyện dùng ngôn ngữ xen lẫn tây ta : sô- vanh nước lớn, tư duy lo- gic ( có nơi đọc là lô – ghic ).  C̣n đối với ngoại ngữ th́ nhấn và kéo dài phần cuối một cách vô tội vạ như chữ Le Monde hay Homere hay Geneve th́ nhấn mạnh de thành / đờ / hoặc nhấn mạnh mà c̣n kéo dài nữa re thành /rơ/ ve thành / vơ/. Những ai quen nhấn hoăc kéo dài phần cuối nên coi chừng : người nghe có khi phải bịt tai v́ dung tục.

 

Thế là chữ quốc ngữ hay Tiếng Việt trải qua nhiều chặng đường phong trần trong cuộc bể dâu hơn 40 năm rồi ví như cô tiểu thư mới lớn lấy phải anh lực điền hai cánh tay như hộ pháp ôm ấp dày ṿ.

 

Tuy nhiên quá tŕnh phát triển Tiếng Việt có hoàn toàn vô vọng, bế tắc không hay Tiếng Việt có hội trở lại trong sáng như nhiều người mong ước không. Câu trả lời là có.

 

Đó là bắt chước Nam Hàn (nay gọi là Hàn Quốc): mở một Hôi Nghị về ngôn ngữ như trước đây hai miền Nam-Bắc Triều Tiên đă làm. Hai miền tổng kết có 50. 000 từ ngữ hai bên chưa đồng thuận và hẹn có cơ hội gặp lại bàn tiếp. Năm mươi ngàn từ ngữ có một số chịu ảnh hưởng ngôn ngữ xă hôi chủ nghĩa, phần c̣n lại chịu ảnh hưởng của xă hội phương tây.  Họ rút kinh nghiệm về sự thống nhất ở Việt Nam năm 1975.  Công việc nầy không khó như việc Nhà Nước Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năn nỉ Tập Đoàn Samsung phát triển kinh doanh nhiều ngành ngoài sản xuất I-phone. Lúc đó sẽ có nhiều người tâm huyết sẽ đóng góp công sức vào công việc ḥa hợp nầy. /.

 

 

 

 

 

 CHÚ THÍCH

 

 

- (1) Đế Quốc nên hiểu là Vương Quốc khác xa danh xưng Đế Quốc Mỹ như nhiều nước Xă Hội Chủ Nghĩa thường gọi.

 

- (2) Trong phái đoàn Pháp có một người Tàu thông thạo hai tiếng Pháp Hán tên gọi là Lư Ngọc Tŕ.

 

- ( 3) Truông ( b́a rừng ) Nhà Hồ thuộc Hồ Xá – ranh giới giữa Quảng Trị và Quảng B́nh. Phá Tam Giang ở phía bắc Thừa Thiên Huế nơi ba con sông chảy vào.  Quan Nội Tán có tên là Nguyễn Khoa Đăng phá tan sào huyệt cướp ở Hồ Xá.

 

        

 

 Ngày 6 tháng 11 năm 2018

 

TRẦN HÀ THANH

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

trang truyện và Thơ của Trần Hà Thanh             |                 www.ninh-hoa.com