|
NHỮNG
D̉NG KỶ
NIỆM
GS Tiến Sĩ
Tô
Đồng
Khoa trưởng
trường Đại Học Dược Khoa Sài
G̣n
1974-1975.
CHƯƠNG 5
Kỳ
6 :
Tháng
Ngày
ở
Thượng
Phú
Vào
đầu
tháng 8 năm
1949, tôi rời
tỉnh
Hưng
Yên
để
sang Thái B́nh theo học
ban tú tài trường
trung học
Lê Quí Đôn làng Thượng
Phú. Thu
đang
trở
về
với
cái se lạnh
mênh mông, và cảnh
vật
hiện
ra thật
mờ ảo,
lẫn
chút vẻ
trong sáng trời
chiều
của
một
bức
tranh thủy
mạc.
Ḷng nặng
trĩu
nỗi
lo âu của
một
học
sinh nhỏ
tuổi
thời
chinh chiến,
tôi
đeo
ba lô
độc
hành trên
đường
ruộng,
xuyên qua những
cánh
đồng
thơm
mùa lúa chín. Bước
chân lặng
lẽ
mà vẫn
làm kinh
động
những
đàn
cào cào, châu chấu,
chúng vụt
bay rồi
đáp
xuống
rào rào như
những
chiếc
lá vàng rơi
rụng
sau một
cơn
gió lốc
xoáy lên cao. Tới
một
bến
đ̣
th́ trời
đă
xế
chiều,
tôi tạt
vào một
quán nước
nghỉ
chân,
ăn
uống
qua loa và
đợi
trời
tối
th́ xuống
đ̣
dọc
để
sang chợ
Đống
Năm,
Thái B́nh. Cũng
như
Chợ
Đại,
Cống
Thần,
Đống
Năm
là một
địa
danh
được
nhiều
dân tản
cư
vùng Khu Ba biết
tới
trong những
năm
đầu
kháng chiến.
Tại
nơi
này, hàng quán la liệt,
ngoài các món
ăn
nhậu
khoái khẩu
của
địa
phương,
c̣n có
đủ
các vật
dụng
xa xỉ
mang từ
Hà Nội
ra, bằng
những
đường
dây buôn lậu.
Đ̣
dọc
chỉ đi
ban
đêm
để
tránh phi cơ
giặc
bắn
phá, là những
con thuyền
chở
chừng
hai ba chục
hành khách, chạy
men theo các sông lạch.
Thuyền
có một
người
cầm
sào
để
khi cần
th́
đẩy
thuyền
ra giữa
ḍng hay
điều
khiển
hướng
đi,
và
được
kéo bởi
hai người
đàn
ông lực
lưỡng
đi
kèm hai bên bờ,
vai
đeo
dây chăo cột
vào phía trước
thuyền.
Hành khách nằm
ngổn
ngang trong khoang thuyền
trải
chiếu,
có mui tre che
ở
giữa.
Tôi
đắp
một
chăn
dạ
mỏng,
nằm
dựa
đầu
lên chiếc
ba lô, trong chứa
lỉnh
kỉnh
đủ
thứ,
từ
quần
áo, dầu
con hổ
và thuốc
cảm
cúm, khăn
mặt,
bàn chải
và thuốc
đánh
răng,
đến
sách vở
và những
quyển
tập
học
tṛ. Tuy rằng
trên sông về
đêm
trời
trở
lạnh,
tôi vẫn
cảm
thấy
đủ ấm
áp, v́ có mặc
trên ḿnh một
chiếc
áo trấn
thủ
mẹ
tôi
đặt
may bằng
vải
chúc bâu
đen,
nhồi
bông và máy theo h́nh quả
trám. Nằm
ngủ
gà ngủ
vịt
với
tiếng
sóng vỗ đều
đều
và nhè nhẹ
vào mạn
thuyền,
thỉnh
thoảng
tôi lại
giật
ḿnh nghĩ đến
những
chuyện
đâu
đâu,
như
nếu
đau
bụng
bất
tử
lúc này, hay nếu
có người
giật
mất
cái chăn
đang
đắp
th́ phải
làm sao? Và lại
nghĩ đến
các câu chuyện
đ̣
dọc
đủ
vẻ
hỉ
nộ
ai lạc,
thường
được
kể
trong giới
buôn bán nơi
bến
nước
sông hồ.
Một
bàn tay anh chị
lợi
dụng
đêm
khuya
để
ṃ mẫm
đă
trở
thành
đề
tài câu chuyện
chiếc
đồng
hồ
dạ
quang biết
ḅ...Rồi
liên tưởng
đến
bài hát B́nh Hồ
một
đêm
trăng,
một
làng trù phú mà tôi có dịp
tá túc mấy
ngày trên
đường
tản
cư:
Ánh trăng
mùa ngập
hồn
chinh biên,
Gió xóm quê gửi
lời
lưu
luyến.
Buông mái chèo khuấy
ḍng tâm tư,
Lá rơi
rơi
về
bến
đâu
xưa.
Tha phương
từng
đoàn
thuyền
xuôi
đêm,
Vốn
liếng
trơn
chỉ
c̣n niềm
tin....
Phải,
chỉ
c̣n một
niềm
tin
đem
lại
ư nghĩa
của
cuộc
sống
hôm nay,
để
mơ
mộng
đến
Những
h́nh bóng qua mà tôi
được
nghe tại
huyện
Ân Thi, Hưng
Yên. Dạo
ấy,
tôi c̣n học
ở
trường
trung học
Tiền
Phong làng B́nh Lăng
với
giáo sư
Nguyễn
Văn
Đỉnh,
và thi
ở
trường
trung học
Nguyễn
Thiện
Thuật
làng Bích Tràng mà hiệu
trưởng
là giáo sư
Chu Duy Khánh. Bài hát có những
câu sau:
Đàn thu trầm
dâng khúc ca sông hồ,
Mấy
đường
tơ
biếc
rung lời
năm
xưa.
Mùa trăng,
hàng dương
liễu
xanh
đôi
bờ,
Ai về
tôi nhắn
một
vài ư thơ....
Tà áo nhuốm
bao mầu
thời
gian,
Buồn
xa vắng
nghe chiều
than van.
Từng
đôi
mắt
nụ
cười
vương
hương,
Trên bến
đời
xanh thắm
muôn dường....
Năm
xưa
nhắc
nhớ
lá vàng cuốn
muôn phương,
Một
trời
thắm
gió.
Tới
năm
nay,
Đường
đời
đầy
gót phong sương,
Bao lần,
mơ
t́m theo bóng ai...
Cũng
có thể
chỉ
có h́nh bóng thôi, t́m
đâu
ra người
thật
mà mơ
với
mộng?
Nhưng
với
tiếng
đàn
của
Nguyễn
Thế
Thâu hay Bùi Xuân Lân thuở
ấy,
ai nghe mà không mơ?
Vào
tảng
sáng th́ thuyền
tới
Đống
Năm.
Ở đây
có trường
Quang Trung là trường
tư
có ban chuyên khoa. Bác tôi, giáo sư
Nguyễn
Tường
Phượng,
người
đă
truyền
cho tôi môn Việt
văn,
và một
người
bạn
thân của
gia
đ́nh,
giáo sư
triết
học
Trần
Mộng
Chu,
đang
dậy
ở
trường
này. Tôi vào một
quán chợ ăn
sáng và uống
cà phê, nơi
đây
có phở
tái, phở
xào, phở
áp chảo
và
đủ
thức
điểm
tâm. Thực
khách có nhiều
người
hút thuốc,
ngoài thuốc
lá ngoại
quốc
như
Camel, Philip Morris, c̣n có thuốc
lá nội
hóa Bắc
Lệ,
mà khói mang theo mùi va ni
đặc
biệt.
Sau này có
đôi
lần
tôi
đang
ăn
phải
ù té bỏ
chạy
khỏi
chợ,
v́ tầu
bay
địch
sà xuống.
May mà không bị ăn
bom
đạn
lần
nào. Nhớ
khi c̣n
ở
Gạo
Nam, trông thấy
chợ
Thi gần
đấy
bị
ném bom, làm cả
trăm
người
chết
hay bị
thương,
và những
cáng tải
thương
lầm
lũi
chạy
trên
đường
quê,
để
nhỏ
xuống
mặt
đất
những
giọt
máu
đỏ đặc
loang lổ,
tôi thực
sợ
hăi không bút nào tả
xiết.
Từ
Đống
Năm
đi
bộ
chừng
một
tiếng
th́ về
phủ
Thái Ninh, rồi
tới
làng Thượng
Phú, là nơi
mà
đ́nh
làng
được
đặt
làm trường
trung học
Lê Quí Đôn. Đ́nh có nhiều
gian, mỗi
gian có thể
ngăn
thành những
lớp
học
bằng
các phên liếp.
Tại
Liên Khu Ba hồi
đó,
Lê Quí Đôn là trường
trung học
công, có ban chuyên khoa. Ban giảng
huấn
rất
nổi
danh và có nhiều
con cái theo học
tại
trường.
Hiệu
trưởng
là giáo sư
Vũ
Chứ,
có các anh Vũ
Đạm,
Vũ
Hoạt,
chị
Vũ
Xuân Chiêm.
Giáo
sư
Tăng
Xuân An dậy
môn Pháp văn,
con thầy
là chị
Tăng
Thị
Tuyết.
Giáo sư
Vũ
Ngô Xán có các chị
Vũ
Nhất
Thanh, Vũ
Nhị
Thủy.
Được
tiếng
là
đẹp
và nhiều
chàng trai mơ
tưởng
là các chị
Tăng
Thị
Tuyết,
Vũ
Nhị
Thủy...
Học
tṛ có thể ở
trọ
tại
phố
phủ
hay tại
làng, v́ từ
phủ
vào làng chỉ độ
một
hai cây số.
Tôi và mấy
người
bạn,
My, B́nh, Mạnh,
ở
trọ
tại
nhà một
học
sinh cùng lớp
của
làng này và
đă
có gia
đ́nh.
Làng Thượng
Phú là một
làng giầu
có, rất
nhiều
nhà gạch
lợp
ngói, và
đường
trong làng
đều
lát gạch
đỏ
từ
đầu
đến
cuối
ngơ. Xế
nhà chúng tôi trọ
học
là nhà ông phán Phụng,
có gia
đ́nh
giáo sư
Tăng
Xuân An
ở
nhờ.
Anh Phạm
Công Lăng,
một
người
bạn
thân cùng lớp,
cũng
ở
nhà này th́ phải.
Tôi
học
môn lư hóa với
giáo sư
Vũ
Lai Chương.
Thầy
là một
nhà mô phạm
hiếm
có, giảng
bài kỹ
lưỡng,
viết
trên bảng
đen
thật
rơ ràng những
công thức
vật
lư hay phản
ứng
hóa học.
Tôi thường
được
thầy
gọi
lên làm một
vài con tính lư hóa. Thầy
Đính dậy
toán học.
Tôi không nhớ
những
ǵ
đă
được
học,
tuy toán là môn tôi sở
trường.
Thầy
An dậy
văn
phạm
và văn
chương
tiếng
Pháp, là một
giáo sư
giỏi,
tính t́nh rất
hiền
hậu.
Tôi
đă
học
được
ở
thầy
biết
bao nhiêu kiến
thức
về
thi, văn,
tuồng,
kịch...Pháp
văn
là môn tôi vốn
ưa
thích, mà cũng
là môn tôi thừa
hưởng
nhiều
sự
dậy
dỗ
của
bố
tôi. Có những
bài luận
tôi viết
được
thầy
mang
đọc
cho cả
lớp
nghe, như
bài tả
tết
trung thu tại
Thượng
Phú. Tôi không nhớ
được
những
ư và cảnh
ǵ tôi
đă
diễn
tả,
khi mà nơi
đây,
đang
thời
kháng chiến,
sự
thiếu
thốn
cái mặc,
nơi
ăn,
chốn
ở đă
thành cùng cực.
Đâu c̣n những
con giống
đủ
loại
đủ
mầu
đủ
sắc?
Đâu c̣n ông tiến
sĩ
giấy
xinh xinh, con thỏ
ngọc
làm bằng
trái bưởi
phủ đính
bông g̣n, chiếc
tầu
thủy
chạy
bằng
dầu
hay nến
trong chậu
nước?
Và nhất
là
đâu
c̣n những
chiếc
bánh dẻo,
bánh nướng
của
một
tiệm
Tầu
nơi
thành phố?
Nhưng
vào mùa cưới
này, mùa của
cốm
thơm
và hồng
mềm
nơi
trần
thế,
các trẻ
em vẫn
dung dăng
dung dẻ,
họp
đàn
vui chơi
hồn
nhiên, chẳng
cần
biết
khói lửa
đang
tràn ngập
quê hương.
Mà trăng
rằm
tháng tám như
những
ngày xửa
ngày xưa,
vẫn
hiện
ra thật
tṛn và tuyệt
đẹp,
đi
lững
thững
trên bầu
trời
trong vắt,
tỏa
ánh sáng êm dịu
tràn ngập
không gian. Chú cuội
c̣n ngồi
thơ
thẩn
dưới
gốc
đa,
biết
đâu
chả đang
mơ
mộng
được
nhập
đoàn
với
tuổi
trẻ
vô tư đất
Việt,
để
rước
những
đèn
xếp,
đèn
kéo quân,
đèn
ông sao,
đèn
tầu
bay và
để
ca những
bài hát líu lo về
chị
Hằng?
Lớp
đệ
tam chuyên khoa chúng tôi gần
năm
chục
học
sinh. Tôi c̣n nhớ
các bạn
Phạm
Công Lăng,
Phạm
Xuân My, Phạm
Gia Chung, Nguyễn
Văn
Mạnh,
Trần
Xuân Soạn,
B́nh nhỏ,
B́nh lớn,
Bá, Thơm,
Tính, T́nh, Quư, Triết...B́nh
nhỏ
giỏi
Pháp văn,
chắc
v́ anh thông thạo
tiếng
La tinh. Chung th́ học
rất
gạo,
không bỏ
sót một
bài nào. Lăng
th́ tài tử,
vừa
học
vừa
chơi.
Bá và Thơm
trong giờ
học
c̣n liếc
xuống
lớp
dưới,
vẽ
chân dung các nữ
sinh ḿnh yêu trộm
nhớ
thầm.
My là người
bạn
thân nhất
của
tôi thời
đó,
người
nhỏ
nhắn,
trắng
trẻo,
tiếng
nói rất
thanh, khôn ngoan và từng
trải
việc
đời.
Sau này, về
lại
Hà Nội,
My trở
thành một
sĩ
quan quốc
gia, thường
gửi
cho tôi những
bức
ảnh
mái tranh, thôn xóm, cây cỏ,
sông lạch,
chụp
từ
miền
trăng
nước
Đồng
Nai.
Cơm
tại
nhà trọ
thật
là thanh
đạm.
Thịt
cá rất
ít, thường
thịt
heo th́ già, dai và khó nuốt.
Món
ăn
chỉ
nhiều
rau
đậu,
mà rau muống
vùng này
đỏ
quạch,
quả
chấp
được
dùng thay chanh th́ vị
lại
đắng.
Vào những
ngày sáng trăng,
sau bữa
tối,
chúng tôi hay tản
bộ
ra phố
phủ,
để ăn
xôi chè, uống
cà phê, trứng
đường.
Ở đây
có một
quán giải
khát, nghe nói là nơi
đă
xẩy
ra câu chuyện
làm
đề
tài cho Lá ngọc
cành vàng của
Nguyễn
Công Hoan. Phủ
Thái Ninh, nếu
như
vậy,
cũng
là nơi
có ông phủ
cấm
cô con gái yêu lấy
người
học
tṛ nghèo con một
bà góa bán xôi chè,
đến
nỗi
nàng có mang với
chàng mà c̣n bị
ép uống
thuốc
phá thai rồi
chết.
Nguyễn
Công Hoan là một
nhà văn
hiện
thực
nổi
danh thời
tiền
chiến,
với
Lệ
Dung, Cô giáo Minh, Tắt
lửa
ḷng, Thanh
đạm...,
người
cùng quê với
tôi
ở
Xuân Cầu.
Ông là một
người
từng
tham gia Quốc
Dân Đảng
của
Nguyễn
Thái Học,
rồi
sau gia nhập
cộng
sản.
Từ
đó
về
sau, ông cũng
chẳng
sáng tác
được
ǵ hay ho trong một
xă hội
viết
lách rập
khuôn. Và h́nh như
ngày xa xưa,
Thái Ninh c̣n có tên là Thanh Quan, mà bà Huyện
đă
để
lại
cho
đời
sau những
bài thơ
hoài cổ
tuyệt
tác?
Thời
đó
phố
phủ
có nhiều
sinh hoạt
văn
nghệ.
Ban Kim Chung với
Phụng
Khánh, Bích Hợp
tŕnh diễn
thường
đêm,
lúc nào rạp
cũng
chật
ních khán giả.
Cô Mai, em gái ông phán Phụng,
mà tôi coi như
một
bà chị,
hay phải
đến
lấy
vé vào trước
để
giữ
cho tôi
được
chỗ
ngồi
tốt.
Ngoài những
kịch,
tuồng,
c̣n có những
màn ca hát. Khán giả
đặc
biệt
ưa
thích những
bài hát trữ
t́nh của
Ngọc
Bích như
Mộng
Chiều
Xuân, của
Phạm
Duy như
Bên Cầu
Biên Giới,
của
Tô Hải
như
Nụ
Cười
Sơn
Cước,
của
Tô Vũ
như
Tạ
Từ,
Em Đến
Thăm
Anh Một
Chiều
Mưa,
của
Tử
Phác như
Tiếng
Hát Quay Tơ,
của
Việt
Lang như
T́nh Quê Hương,
Đoàn Quân Đi... Nhất
là
được
nghe Ngọc
Dậu,
một
đào
thương
tuổi
chừng
mười
ba, mười
bốn,
hát lên những
lời
bay bướm
sau
đây:
Nhà em
ở
tận
nẻo
xa,
Có cây bên suối,
Có nhà sàn bương.
Quanh co
độ
mấy
thôi
đường,
Men rừng,
men núi, men nương,
men
đồi...
Hôm qua anh
đến
nhà em,
Thấy
đôi
mắt
đẹp,
Anh thèm muốn
xin...
Hay là:
Đêm qua gió lọt
song
đào
Để
cho
Để
cho hương
ấm
Lọt
vào pḥng em...
Có
một
chiều
chủ
nhật,
người
ta xử
bắn
một
tên Việt
gian tại
sân vận
động
phủ
Thái Ninh. V́ ṭ ṃ, tôi cùng mấy
người
bạn
rủ
nhau
đi
xem. Dân chúng kéo
đến
đầy
sân vận
động,
có chừng
năm
sáu trăm
người.
Nơi
thường
dùng làm khán
đài,
được
đặt
một
chiếc
bàn với
mấy
cái ghế
cho các viên chức
xử
án, xa xa là cây cột
gỗ
chôn xuống
đất,
cạnh
bên một
cái quan tài bằng
gỗ
mộc.
Tội
nhân, một
thanh niên có vẻ
trí thức,
mặc
áo khoác
đen,
được
dẫn
ra pháp trường,
bị
bịt
mắt
và trói vào cột.
Ông ṭa
đọc
bản
án qua chiếc
loa phóng thanh. Rồi
tiếng
lên
đạn
của
một
tiểu
đội
hành quyết
dàn hàng ngang, tiếp
theo là những
tiếng
nổ
chát chúa từ
các khẩu
súng trường.
Và người
tử
tội
rùng ḿnh,
đầu
nghẹo
sang một
bên. Sau tiếng
súng
đặc
ân của
người
đội
trưởng,
không hiểu
v́ lư do ǵ,
đám
người
đi
xem bỗng
tràn lên phía trước.
Chúng tôi
đang
ngơ
ngác không biết
có nên theo lên xem không th́ có một
vài người
hô to mấy
tiếng
máy bay, máy bay. Mọi
người
không ai bảo
ai tranh nhau chạy
thoát thân khỏi
sân vận
động.
Thật
là tài t́nh, nghe dọa,
đám
đông
chưa
thấy
máy bay
đă
tự
giải
tán dễ
dàng v́ sợ
hăi. Nghe
đâu
theo yêu cầu,
người
tử
tội
được
ăn
một
bữa
cơm
tầu
và
được
nghe Bích Hợp
hát trước
khi thọ
h́nh. Thật
là một
câu chuyện
quá buồn.
Trở
về
một
quán nước
để ăn
xôi chè
đêm
đó,
một
anh học
sinh cùng lớp
đă
nhận
lời
thách thức,
dám ra sân vận
động
t́m mang về
sợi
dây thừng
dùng
để
cột
người
tử
tù cho chúng bạn
xem. Người
xưa
đă
nói
đúng,
nhất
quỷ
nh́ ma, thứ
ba học
tṛ.
Ôi,
trong thời
buổi
loạn
lạc
và nhiễu
nhương
hiện
tại,
những
bản
án tử
h́nh như
trên có sự
có mặt
của
công lư hay không? Tôi không tin là có. Nhưng
hồi
đó,
luật
sư
Nguyễn
Mạnh
Tường
thường
xuất
hiện
để
bào chữa
cho bị
can tại
các phiên ṭa dân sự
Liên Khu Ba
ở
phủ
Thái Ninh. Luật
sư
Tường
đă
nổi
danh trong nước
v́
đậu
cả
hai bằng
Tiến
sĩ
Luật
lẫn
Văn
Chương
tại
Pháp lúc mới
22 tuổi.
Thông thường
nếu
có dịp,
chúng tôi cũng
rủ
nhau
đi
nghe những
lời
biện
hộ
của
ông. Với
những
vụ
án
đủ
loại,
tôi lấy
làm thích thú
được
nghe những
lư luận
đanh
thép và tài hùng biện
có một
không hai của
ông. Sau này, khi di cư
vào Nam, tôi
được
biết
ông liên hệ đến
nhóm Nhân Văn
- Giai Phẩm,
và bài Những
sai lầm
trong chính sách cải
cách ruộng
đất
đă
làm tôi tâm phục
ông hơn.
Ông thật
là một
kẻ
sĩ đáng
kính trọng
của
Việt
Nam. Gần
đây,
đọc
quyển
Un excommunié của
ông, tôi c̣n cảm
thấy
xót xa cho một
nhân vật
sáng giá của
đất
nước..
Tại
Thượng
Phú, tôi c̣n có một
kỷ
niệm
thật
đẹp,
một
chuyện
kỳ
ngộ.
Tôi không hiểu
tại
sao, và v́ lư do ǵ, tôi
được
quen thân với
bác sĩ
Phạm
Ngọc
Thạch.
Tôi
được
biết
tiếng
ông như
một
thủ
lănh của
Thanh Niên Tiền
Phong, một
chủ
tịch
Ủy
Ban Hành Chính Kháng Chiến
Nam Bộ,
hay một
Bộ
Trưởng
Y tế.
Lúc
đó,
ông có nhiệm
vụ
giảng
dậy
về
chính trị
cho các sĩ
quan cao cấp
cộng
sản
tại
đây.
Ông thường
đi
với
bà vợ
người
Việt
gốc
Hoa, và một
sĩ
quan phụ
tá mang quân hàm Trung tá. Ông coi tôi như
một
người
bạn
tuổi
nhỏ,
nhưng
gần
như
chưa
bao giờ
chúng tôi bàn tán hay nói
đến
những
chuyện
về
chính trị,
hoặc
về
gia
đ́nh.
Ông bà bác sĩ
Thạch
hay rủ
tôi
đi
ăn
chè, uống
cà phê, xem kịch...Có
lúc cả
buổi
chúng tôi ngồi
nói chuyện
trên trời
dưới
biển,
để
quên
đi
những
nỗi
nhọc
nhằn
thời
tao loạn,
mà không một
ai không bị
ràng buộc
vào. Tôi th́ gia
đ́nh
nay phân tán
ở
nhiều
nơi,
lâu lắm
mới
có chút ít tin tức.
Chị
Xuân Nhân của
tôi, một
nữ
sinh xuất
sắc
của
trường
Đồng
Khánh Hà Nội,
đă
ra
đi
công tác
ở
Việt
Bắc
từ
ngày
đầu
kháng chiến.
Bố
tôi c̣n làm việc
tại
Hưng
Yên, có hai
đứa
em trai
đi
theo. Mẹ
tôi và bốn
đứa
em nhỏ
tá túc nơi
quê ngoại
Kim Ngưu,
nay
đă
trở
thành vùng bị
tạm
chiếm.
Bác
sĩ
Thạch
một
hôm nói với
tôi:
-“Chú học
giỏi
th́ chỉ
nên chú tâm vào việc
học,
chuyện
chính trị
có nhiều
điều
bẩn
lắm”.
Tôi
không có khiếu
mà cũng
chẳng
ưa
ǵ những
công việc
về
chính trị.
Tuy nhiên, từ
hồi
c̣n trẻ,
tôi
đă
mê
đọc
loại
sách tiểu
thuyết
lịch
sử
kư sự,
như
Đông Chu Liệt
Quốc,
Hán Sở
Tranh Hùng, và các tài tử
thư
của
Trung Hoa như
Tam Quốc
Chí, Thủy
Hử..
để
xem cách người
xưa
xử
thế
ra sao với
những
sự
biến
chuyển
khó lường
trước
được
của
ḍng
đời.
Một
đôi
lần
tôi
được
theo
đi
dự
lớp
bác sĩ
Thạch
giảng
dậy.
Tôi thực
sự đă
bị
thu hút bởi
tài diễn
thuyết
của
ông, với
lời
nói tâm huyết
và
đanh
thép, với
lối
lư luận
khoa học,
mang theo những
ư tưởng
thật
cao
đẹp.
Đến
bây giờ,
tôi vẫn
c̣n ngưỡng
mộ
ông, một
kẻ
sĩ
đáng
kính mến
và hiếm
có của
đất
nước.
Vào tháng 11 năm
1968, trong khi
đang
đi
thăm
viếng
các
đại
học
Hoa Kỳ,
tôi bàng hoàng và xúc
động
khi nghe tin ông bị
tử
nạn
trên chiến
trường
miền
Nam v́ B52. Một
bác sĩ
tài năng
và
đức
độ
của
Việt
Nam
đă
nằm
xuống...
Trung
tá phụ
tá bác sĩ
Thạch
là một
người
ít nói. Ông c̣n trẻ
mà tóc
đă
muối
tiêu. Ông tâm sự
với
tôi ông là một
đảng
viên Quốc
Dân Đảng,
từng
mang tiền
sang Tầu
để
t́m cách mua máy bay cho Vệ
quốc
quân. Ông có vợ
và một
đứa
con nhỏ
mà
đă
mấy
năm
không gặp
mặt.
Thỉnh
thoảng,
lúc buồn,
ông lại
ngâm cho tôi nghe vài câu thơ:
Cất
bước
ra
đi
chiều
năm
xưa,
Bụi
đường
trường
chinh pha mái tóc...
Phải,
trên
đường
dài kháng chiến,
nhiều
người
con dân
đành
quên cả đường
về...
Mùa
đông
lại
đến
nơi
này,
đồng
ruộng
có chỗ đất
khô nứt
nẻ,
đây
đó
c̣n trơ
trọi
một
vài cọng
rạ.
Lác
đác
cũng
có vài
đám
cỏ
dại,
bụi
rau muối
vị
mặn,
khóm rau khúc xanh
để
làm bánh. Thường
nhiều
ngày
đẹp,
bầu
trời
trong nhẹ,
điểm
vài áng mây trắng
như
bông g̣n bay lờ
lững.
Đôi lúc trời
mưa
phùn, có những
làn gió lạnh
buốt
xương
chợt
đến,
nhẹ
nhàng luồn
qua các khóm cây im vắng
bóng chim xanh và các rặng
tre
đầy
c̣ trắng
đậu
ủ
rũ.
Có ngày mây
đen
kéo
đến
thật
dầy
đặc,
phủ
kín một
vùng từ
làn ngang thẳng
tắp
xuống
tận
chân trời
như
một
trường
thành xám ngắt,
làm bầu
trời
trông tưởng
như
sa xuống
thấp.
Tin hay không th́ mây thành
đó
đă
báo hiệu
những
cảnh
ly loạn
liên tục
sẽ
lan
đến
vùng này. Bên Tầu,
cộng
sản
mới
thắng
lợi,
đẩy
phe quốc
gia ra khỏi
lục
địa.
Có thể
v́ thế,
Việt
Nam hy vọng
sắp
sửa
được
Trung cộng
tăng
viện
để đẩy
kháng chiến
đến
thành công rồi
chăng?
Chúng tôi vừa
thi xong
đệ
nhất
lục
cá nguyệt,
và lớp
học
đă
sửa
soạn
làm bích báo mùa xuân. Tôi có linh cảm
t́nh h́nh không
ổn,
không khí chiến
tranh như
bao phủ
nơi
hậu
phương
này, nên chẳng
tha thiết
ǵ
đến
việc
thi cử.
Tuy từng
đậu
thủ
khoa kỳ
thi Sơ
học
Bổ
túc tỉnh
Hải
Dương,
thủ
khoa kỳ
thi Trung học
Phổ
thông tỉnh
Hưng
Yên, tôi
đă
bỏ
không thi rất
nhiều
môn học,
mà chỉ
thi có Pháp văn,
Toán, Lư Hóa là những
môn
ưa
thích. Tôi không
được
xếp
thứ
hạng
trong
đệ
nhất
lục
cá nguyệt,
nhưng
định
bụng
rồi
ra sẽ
học
hành cẩn
thận.
Nhà trường
thời
gian này bỗng
nhộn
nhịp
những
sinh hoạt
tuyên truyền
của
đoàn
Văn
công Hồng
quân Trung Hoa, của
đoàn
Văn
nghệ
Liên Khu Ba. Tối
nào cũng
có tŕnh diễn
ca vũ
nhạc
kịch,
và
đôi
khi chúng tôi cũng
được
hát những
bản
hợp
ca ba bè như
Trường
Ca Sông Lô của
Văn
Cao, Người
Du Kích Sông Thao của
Đỗ
Nhuận.
Đặc
biệt
là bài Tiến
về
Hà Nội
mang theo bao
ước
vọng:
Năm
cửa
ô
đón
mừng
đoàn
quân tiến
về,
Như
loài hoa
đón
chào
Mà năm
cánh
đào
chảy
ḍng sương
sớm
long lanh.
Chúng ta
ươm
lại
hoa,
Sắc
không phai ngày xa,
Ôi phố
phường
Hà Nội
xưa
yêu dấu...
Mỗi
đêm
khi nghe bài Tiến
quân ca sắt
máu mở đầu
buổi
sinh hoạt
văn
nghệ,
chúng tôi như
bị
kích
động,
ḷng sôi sục
muốn
xông ngay ra xa trường.
Tin nhà trường
phải
tạm
đóng
cửa,
học
sinh các lớp
chuyên khoa sẽ được
theo học
lớp
lục
quân Trần
Quốc
Tuấn,
đă
được
loan ra. Phong trào xung phong ṭng quân
được
cổ
vơ và vận
động
từ
đấy.
Là
một
học
sinh nhỏ
tuổi
nhất
trong lớp,
tôi băn
khoăn
lo lắng
làm sao
đủ
sức
khỏe
để
học
tập
quân sự
tại
Việt
Bắc.
Tôi nên làm ǵ bây giờ?
Tôi t́m gặp
bác sĩ
Thạch
và ông bảo
tôi:
-“Chú khỏi
phải
xin xung phong ṭng quân. Để
anh giới
thiệu
chú vào làm giáo sư
trường
Thiếu
sinh quân Liên Khu Ba, rồi
ra chú có th́ giờ
học
thêm”.
Trở
về
nhà trọ,
B́nh thấy
tôi có giấy
giới
thiệu
cũng
muốn
tôi xin cho anh
đi
cùng. Tôi lại
được
bác sĩ
Thạch
chấp
thuận
cho B́nh cùng
đi,
để
chúng tôi
đỡ
lẻ
loi. Lúc này, người
ta bắt
đầu
lập
danh sách những
học
sinh xung phong ṭng quân. Trong một
buổi
họp,
vài người
lớp
tôi dơ
tay xung phong, dần
dần
kéo theo cả
lớp.
Những
học
sinh ra
đi
chỉ
có mấy
ngày sửa
soạn
rồi
phải
lên
đường.
Ai nấy
sự
âu lo hiện
ra nét mặt.
Phạm
Gia Chung mà gia
đ́nh
h́nh như đă
hồi
cư
về
Hà Nội,
sợ đến
mất
ăn
mất
ngủ.
Tôi
đă
gửi
gấm
mấy
dân buôn lậu
quen biết
để
dẫn
Chung theo về
tề.
Chung vội
vă ra
đi
ngay trong
đêm,
bỏ
lại
cả
những
sách vở
mà anh thường
giữ
như
bảo
vật.
Rồi
mấy
hôm sau tới
buổi
lễ
tiễn
đưa,
mỗi
chiến
binh tương
lai mang theo một
khăn
tay do nữ
sinh của
trường
thêu tặng
làm kỷ
niệm.
Tôi không dám
đi
dự
cảnh
chia tay bịn
rịn
này. Cảnh
biệt
ly mà từ đây
kẻ
ở
lại
buồn
tủi,
người
ra
đi
có mong chi ngày về...
Trường
Thiếu
sinh quân Liên Khu Ba nằm
trong một
làng cách Thượng
Phú chừng
hơn
chục
cây số.
Vào một
buổi
chiều
nhạt
nắng,
B́nh và tôi
đến
tŕnh diện
vị
chỉ
huy là Trung tá Xuân, một
sĩ
quan cao, gầy,
da ngăm
ngăm
đen.
Chúng tôi
được
nhận
làm giáo sư
toán lư hóa, mang phù hiệu
cấp
úy, ngoài việc
ăn
mặc
do trường
lo liệu,
sẽ
có tiền
tiêu vặt
hàng tháng. Rồi
chúng tôi
được
Trung tá Xuân
đưa
đi
thăm
trường.
Chỗ
nào cũng
ngăn
nắp,
trật
tự,
kỷ
luật
như
một
trại
lính. Có cả
ngàn thiếu
sinh, nhiều
em tuổi
chắc
không kém tôi là bao. Có lớp
các em
đang
học,
có lớp
các em
đang
ca hát, có chỗ
các em làm bếp,
giặt
giũ,
vui vẻ
chơi
đùa
nhộn
nhịp.
Tôi như đi
lạc
vào một
thế
giới
khác lạ.
Chúng tôi ra về,
hẹn
tuần
sau sẽ đến
nhận
việc.
Ngày
hẹn
rồi
cũng
đến.
Ba lô trên vai, B́nh và tôi lặng
lẽ đi
bên nhau qua mấy
cánh
đồng
để đến
nơi
nhận
công tác. Sáng mùa
đông
hôm
ấy
c̣n
đầy
sương
móc
ẩm
ướt,
nhưng
tới
trưa
ánh nắng
chiếu
thẳng
trên
đỉnh
đầu,
trời
trở
nên oi bức
khó chịu.
Chúng tôi bảo
nhau tạm
nghỉ
tại
đầu
làng, v́ qua cổng
là tới
trường
Thiếu
sinh quân. Chúng tôi nằm
dưới
bóng mát cây
đa
cổ
thụ,
gối
đầu
lên những
rễ
cây chằng
chịt
ḅ lan mặt
đất.
Trời
xanh trong vắt,
không một
đám
mây, không một
ngọn
gió. Nhưng
sao tâm tư
tôi th́
đầy
bâng khuâng lo lắng,
bao xao xuyến
ngổn
ngang. Tương
lai ḿnh sẽ
ra sao khi bước
chân qua cổng
làng này? Muốn
suy nghĩ
mà chẳng
nghĩ được
ǵ. Không biết
tại
sao, ḷng thương
nhớ
gia
đ́nh
bỗng
hiện
ra hay là tinh thần
tiểu
tư
sản
chợt
nổi
dậy.
Nhớ
ông bố
lúc nào cũng
lo dậy
dỗ
cho tám anh chị
em chúng tôi nên người.
Nhớ
bà mẹ
sớm
ngày buôn bán tần
tảo
để
gửi
cho chồng
con từng
cái bút máy,
đồng
hồ đeo
tay, chai dầu
tây,
đôi
dép cao su con hổ,
hay mấy
thước
vải
kaki. Mẹ
tôi c̣n bắt
tôi phải
đeo
chiếc
nhẫn
cưới
một
chỉ
vàng, mở
ra bấm
lại
được,
pḥng khi cần
th́ bán
đi
mà sống.
Nhớ
người
chị
c̣n phiêu bạt
phương
xa, nhớ
các em
đă
bao lâu không gặp.
Nhớ
bà ngoại
thân thương,
nhớ
họ
hàng làng nước
tại
Xuân Cầu,
Kim Ngưu...Tôi
nói với
B́nh là muốn
về
gặp
gia
đ́nh
đă
rồi
sẽ
tính sau. B́nh cũng
thổ
lộ
không muốn
đi
nữa,
để
t́m lại
người
nhà trước.
Không ai bảo
ai mà ư nghĩ
như
nhau. Thế
là chúng tôi chia tay ra về.
Cho
đến
nay không biết
B́nh và những
người
bạn
xung phong ṭng quân thời
ấy
trôi dạt
về
phương
trời
nào?
Tôi
trở
về đến
Đống
Năm
kiếm
gia
đ́nh
bác tôi là giáo sư
Nguyễn
Tường
Phượng,
th́ gặp
được
bố
tôi và hai em tôi cũng
vừa
từ
Hưng
Yên chạy
sang. Hưng
Yên
đang
bị
càn quét. Mấy
gia
đ́nh
chúng tôi thường
cùng chạy
loạn
từ
những
ngày
đầu
khói lửa,
nay gặp
nhau mừng
mừng
tủi
tủi.
Thêm gia
đ́nh
giáo sư
Trần
Mộng
Chu nhập
bọn.
Bàn lên tán xuống,
làm sao thoát ra khỏi
Thái B́nh
đang
bị
bao vây? Thôi th́ chạy
ṿng quanh,
đàn
chim
đă
bị
vỡ
tổ,
về đâu
mà chẳng
được.
Giáng sinh rồi
tết
Dương
lịch
1950 qua lâu rồi
mà không một
ai
để
ư tới.
Muốn
xuống
phía nam th́ mới
chạy
đến
vùng Thần
Đầu
Thần
Huống
huyện
Tiền
Hải
đă
gặp
dân chúng từ
Ninh B́nh kéo ra. Giặc
đă
tới
Khu Tư.
Đành phải
quay trở
lại
phía bắc.
Đi trong
đêm
qua những
cầu
khỉ,
những
cống
nước
chảy
ào ào như
thác
đổ
của
đập
Trà Linh, bác Phượng
gái sợ đến
ríu chân bước
không nổi,
phải
bám chặt
lấy
tay tôi. Muốn
trở
lại
Hưng
Yên, mà vừa
tới
huyện
Quỳnh
Côi
đă
bị
nghẽn
lối.
Lúc này xuân Canh Dần
cũng
mới
đến,
mang theo thời
tiết
ấm
áp, và
đàn
chim ríu rít ca trong những
khóm cây
đâm
chồi
nẩy
lộc.
Lại
thêm mấy
gia
đ́nh
quen cùng tụ
lại
ở
làng Khuốc
bên sông Luộc.
Mồng
một
qua
đi
như
một
ngày cuối
năm,
lo
ăn,
lo uống,
lo chạy
loạn,
không ai buồn
nói chuyện
tết
nhất.
Sáng ngày mồng
hai, bố
tôi phái tôi
đi
nghe ngóng khi có tin giặc
về
càn quét khu này. Tôi men theo ven
đê
sông Luộc,
qua mấy
làng kế
cạnh
nằm
im ĺm, không một
bóng người.
Đến
một
mé thấp,
vừa
nhô
đầu
lên khỏi
mặt
đê,
tôi
đă
thấy
ca nô giặc
đang
chạy
dọc
trên sông, tiếng
súng bắt
đầu
nổ
từng
loạt.
Tôi lăn
vội
xuống
chân
đê,
chiếc
mũ
bê rê
đen
rơi
mất
lúc nào không biết.
Tôi chạy
về
làng Khuốc
báo tin
để
cùng mọi
gia
đ́nh
lùi sâu vào phía trong. Phải
nhiều
ngày sau mới
bắt
liên lạc
được
với
người
dẫn
đường
đưa
chúng tôi qua
đ̣
về địa
phận
tỉnh
Hưng
Yên. Để
khỏi
bị
bắn,
hành khách
được
chở
lặng
lẽ
qua sông trong
đêm
tối,
vào khoảng
giữa
hai
đồn
giặc.
Rồi
loanh quanh măi tại
nơi
đây
chưa
t́m
được
lối
chạy
tiếp,
th́ một
hôm giặc
càn quét, bắt
tất
cả
chúng tôi lên
đồn
bót. Thế
là mộng
lên Việt
Bắc
tiêu tan.
Rồi
mấy
gia
đ́nh
được
giấy
thông hành tạm
và xe cam nhông nhà binh chở
lợn
đă
chở
chúng tôi theo về
thẳng
Hà Nội
và bỏ
chúng tôi xuống
phố
Hàng Đậu.
Trời
về
tối
đen
như
mực,
nhưng
khi xe qua cầu
Long Biên, muôn ánh
đèn
phía Hà Nội
hiện
ra lấp
lánh như
những
v́ sao
đẹp
giải
Ngân Hà. Tôi bồi
hồi
nhớ
lại
cảnh
Hà Nội
rực
cháy nh́n từ
quê nội
trong
đêm
19 tháng 12 năm
1946...Rồi
h́nh
ảnh
kiêu hănh của
những
ngày theo kháng chiến
nhạt
phai dần
với
thời
gian. Tôi miệt
mài theo
đời
thi cử
tuổi
thanh xuân, trong cảnh
phồn
hoa
đô
hội
đất
Thăng
Long. Ngay tháng 6 năm
đó
tôi
đậu
tú tài một,
rồi
vào học
lớp
đệ
nhất
trường
Nguyễn
Trăi. Tôi gặp
lại
Phạm
Gia Chung và quen thêm biết
bao nhiêu bạn
mới
như
Từ
Uyên, Vũ
Quí Đài, Nguyễn
Văn
Phác, Tạ
Văn
Quang, Nguyễn
Cao Đằng...Tôi
ngồi
bàn nhất
bên phải,
cùng với
Nguyễn
Tuấn
Ngọc,
Lê Văn
Kiên, Nguyễn
Phú Duyệt.
Bàn sau có Đỗ
Thị
Nhuận,
Nguyễn
Hạc
Hương
Thư,
Bùi Thị
Nhu Thuận,
Nguyễn
Thị
Hồng
Loan... Tại
đây,
tôi cũng
chỉ
học
được
có
đệ
nhất
lục
cá nguyệt.
Sau tú tài hai, th́ có lệnh
động
viên
đi
khóa sĩ
quan Nam Định.
Một
số
bạn
lại
xếp
bút nghiên theo việc
đao
cung, và ngay sau khi 84 Tháng Ngày
ở
Thượng
Phú tốt
nghiệp
sĩ
quan, lớp
tôi có Nguyễn
Văn
Ngọc
tử
trận,
Nguyễn
Tuấn
Ngọc
bị
thương.
Trên
nửa
thế
kỷ đă
qua
đi,
nên những
h́nh
ảnh
ở
Thượng
Phú, tuy có nhiều
nét c̣n rơ như
mới
xẩy
ra, cũng
có nét nhạt
nḥa theo thời
gian. Những
bạn
tôi có người
xung phong ṭng quân phía cộng
sản,
có người
được
gọi
động
viên lớp
sĩ
quan quốc
gia. Người
ta
ở
hai chiến
tuyến
đối
nghịch
nhau, nhiều
khi chỉ
v́ thời
thế
và cảnh
ngộ
chăng?
Từ
mùa thu năm
1962, tôi trở
thành một
giáo sư
trường
Dược
của
Sài G̣n hoa lệ,
nhưng
nếu
thời
đó
không gặp
gỡ
bác sĩ
Thạch,
không có cây
đa
ở
một
đầu
làng tỉnh
Thái B́nh, hay không bị
vụ
càn quét
ở
Hưng
Yên, không biết
tôi
đă
phiêu dạt
về đâu?
Từ
thời
c̣n học
trung học,
chưa
bao giờ
tôi tin
được
lư thuyết
cộng
sản
là
đúng
đắn.
Nhưng
tại
sao Việt
Nam lại
trở
thành cộng
sản?
Thôi cứ
cho là v́ sự
thô bạo
của
thế
giới
sau thế
chiến
thứ
hai, là tại
ở
gần
một
nước
cộng
sản
khổng
lồ,
hay tốt
hơn
hết,
là tại
vận
nước
nhà
đen
tối.
Tự
nhiên, tôi bỗng
thấy
mơ
như
lúc c̣n
ở
Thượng
Phú, tới
một
mùa thanh b́nh trên quê hương
yêu dấu,
khi mà tự
do,
độc
lập,
hạnh
phúc không phải
chỉ
là khẩu
hiệu
trống
rỗng.
1 tháng 6, 2002
Xem
tiếp CHƯƠNG 6
Giáo Sư
Tô
Đồng
Khoa trưởng
trường Đại Học Dược Khoa Sài
G̣n
1974-1975.
www.ninh-hoa.com |
|