GS
Nguyễn
Quang Tuyến
Nguyên
Giảng viên Khoa Tâm lý chiến
Trường Võ bị Quốc gia VNCH Đà Lạt
KHI TU HÚ KÊU
Truyện ngắn:
03-
Con Chó Con
Gió thốc vào mũi mùi tanh nồng của cá, mùi mặn của biển, tôi
vẫn tìm được nét đặc biệt của Phan Rang ngày nào. Những ngày
tháng qua, Phan Rang thêm lạ lẫm với bụi và khói, thêm màu
da của
lính ngoại quốc; cỏ xanh lề đường dọc
cánh đồng bây giờ xe lính tắm cho đầy bụi đất đỏ. Thành phố
ban ngày un khói dầu cặn và ban đêm vang tiếng hát nghêu
ngao của mấy chú lính ngoại quốc, bên tay một chai rượu bên
tay một cô bé Việt Nam mười bảy. Lời dân ca xứ sở họ
nơi xa kia nồng đượm hương cỏ miền viễn tây hay cuộc sống
giang hồ của những chàng trai tìm đất mới, giờ đây rã rời
chếnh choáng hơi men bên người kỹ nữ xa xứ. Người ta thấy
hắn khắp phố phường, hắn mặt đỏ gay môi mềm rượu; hắn mặt
buồn ngòi thộn ra trong quán rượu hai tay lông lá luồn qua
chiếc áo hở hang; hắn giữa công viên; hắn bên ổ nhện. Hắn có
mặt khắp mọi nơi và mọi người bắt đầu quờ quạng tìm hắn, tìm
hôn những đôi môi, bàn tay đô la. Phan Rang hôm nay mọi
người như rướn cao hơn, cao hơn nữa dù chỉ mới được quá phân
nữa chiều cao.
Mấy
hôm nay nắng gay, mùi vị cố hữu của bến xe đò này vẫn thốc
lên nồng nặc. Tôi trăn trở trên chiếc ghế bố, mồ hôi nhơn
nhớt, nhột nhạt làm tôi buồn lợm. Thoảng đâu đây như mùi
rong hôi tấp trên bãi cát miền Trung sau trận lụt, ơn ớn như
mùi cá ươn kho yếu lửa. Anh tài xế xe Thuận Đức đập tay đánh
hét vào đùi:
- Mẹ nó rác bao nhiêu cũng trút vào cái
lỗ này!!
- Cái mùi nó lợm như cóc chết, sư nó cái
gì mà nồng thế? - Chiếc giường tre bên quán trẹo răng rắc,
mụ Ba bán phở ưỡn mông lên the thé.
- Cóc mốc gì đâu, ba cái đồ hộp của Mẽo,
khi ăn thì thơm thiệt đến hồi ăn dở chừng vứt nó bỏ ra chua
vữa – chẳng khác gì cóc chết. Sư nó, ba con nỡm bây giờ bắt
đầu ăn đồ hộp rồi, nó có thèm ăn thịt heo thịt gà của mình
đâu.
- Thơm cái khỉ gì, chị Ba chịu mùi đó chớ
tui nuốt hỏng vô được. Thằng Sáu hôm trước nó mở hộp thịt gà
ra, tôi thấy nó nồng như mùi mồ hôi muối.
- Chị này kỳ thiệt cà, hơi đâu mà
nói xỏ! sao chị nói tôi chịu mùi Mỹ. Tôi đâu có bán
Salem
với kẹo chụt chụt, tôi có nồi phở rồi mà!!
Hai mụ đàn bà bắt đầu phân bua về cái mùi
Mỹ, mùi nồng như mồ hôi muối. Chị bán thuốc lá và kẹo cúi
xuống gãi sồn sột nơi gót chân nhổ đánh toẹt bãi nước trầu
xuống đất, nói tiếp:
- Chị em mình đừng nói vậy mà mất lòng
nhau, tui nghèo không có vốn mới bán thuốc lá, kẹo cho bạn
hàng xe, chứ nói thiệt ai chịu cái mùi tụi nó được, thịt gà
thịt heo hộp cái mùi nồng vậy nói chi thịt tụi nó. Con
Hương làm bar Phụng Hoàng, cháu thằng lơ Sáu Lễ, hôm trước
nó nói với tui thiệt phải nhắm mắt mà ngủ với tụi nó. Mồ hôi
nó cay nồng mùi tỏi, nồng chẳng muốn hun.
- Mẹ nó, chứ tối nào nó chẳng ôm một khối
thịt hôi nồng mùi tỏi ấy. Hồi chiều ni nó còn ôm cái ra-dô
phê phê đi ngoài bến. Tôi thà đói mà sống với thằng người
mình còn hơn. Phải không cậu?
Tôi đang lơ mơ nhìn mấy cụm cây
im ngủ, xa xa mấy trái hoả châu thắp rực một góc trời. Tôi
nghĩ đến hộp thịt, hộp trái cây méo mó lăn lông lốc dọc
những đụn cát hoi nắng miền Trung, những bà già, trẻ con hốc
hác sắp từng dãy, tay cầm cuốc chĩa đào bới những đống rác
của quân đội ngoại quốc để tìm thức sống tại ngoại ô Đà
Nẵng, Nha Trang, Cam Ranh. Người ta thầu từng đống rác,
người ta đào bới những hộp thịt vữa, quá thời hạn đem bán về
thành phố. Hình ảnh hai thằng bé ngực trần, đen đủi, bận mỗi
chiếc quần cụt, mặt mày nhem nhuốc, vật lộn nơi bãi cát nóng
vùng Hòa vang, chúng dành nhau đống rác mới đổ, làm tôi xốn
xang. Mặt nhem nhuốc mồ hôi, chúng lăn lộn bên đống rác như
hai con chó bên mấy miếng xương thừa. Nắng miền Trung gay
gắt chói chang trên bãi cát nóng bỏng, dọc theo quốc lộ từ
Huế vào gần Đà Nẵng, hơn một cây số người ta đổ rác, biết
bao nhiêu người nối đuôi nhau cào xới, tranh nhau từng hộp
đồ, từng bao ni lông, gói giấy. Những vật dụng thừa moi móc
trong từng đống rác rưởi kia lại đổ về thành phố, chất nghễu
nghệnh dọc lề đường. Từ Sài Gòn cho đến các tỉnh nhỏ, những
thứ này bán tự do. Với số tiền còm cõi, với thời giá bây giờ
người ta khó mua được miếng thịt tươi, thế là người ta lại
tìm mua những đồ hộp thừa thải bên lề đường. Tôi không hiểu
những người lính ngoại quốc
khi đi ngang qua những đống rác
kia với những người nhem nhuốc tranh giành nhau, qua những
hộp thịt méo mó chất giữa phố, họ nghĩ gì? Khốn khổ này biến
chúng ta trở thành những đứa trẻ con chen nhau lượm bánh kẹo
trên mặt đất mà họ ném vãi trên đường hay sao?
- Thực tôi chẳng hiểu gì.
Đâu đây tiếng rúc rích của chuột lẫn
tiếng cười đú đởn của mấy con nhỏ bán nước mía ở góc phố.
Tiếng hỏi của mụ đàn bà như chìm trong mệt mỏi, tôi ầm ừ cho
qua chuyện.
- Dạ phải.
- Ai chẳng biết vậy mà mấy con nhỏ ngủ
đêm này qua đêm khác, nghĩ cũng phục thiệt.
- Sức mấy, tụi nó làm ăn riêng chứ bộ,
loay hoay tụi nó cũng tìm mấy thằng Việt Nam ôm ấp như con
Hường đó, chị coi ban đêm đi với Mỹ, ban ngày về với thằng
nhỏ dưới ngỏ ba. Thằng nhỏ khỏi đi làm gì cả, ở nhà cả ngày
mập tròn. Nằm nhà có người nuôi mà khỏi lo bị bắt lính.
Tiếng nói hai mụ đàn bà nhỏ dần, thầm thì
ra chiều quan trọng về việc mấy chàng trai trốn lính có tình
nhân bán thân cho lính Mỹ lấy tiền về nuôi. Mùi hôi lợm của
rác vẫn thốc lên mũi, anh tài xế xe Thuận Đức trùm chiếc
khăn lông màu cháo lòng quanh đầu ngáy o o. Tiếng đại bác ở
vùng Khánh Sơn rền ầm ì như tiếng rên từ lòng đất, day dứt
không yên. Tôi ngồi đó đốt thuốc lá, nhìn bến xe về khuya
nặng nề ngột ngạt, những câu chuyện rã rời như đứt đoạn, nối
khúc trong đầu óc. Tôi nghĩ đến những cánh hoa xương rồng
màu đỏ chói như chảy nhỉ những giọt máu rỉ trên thân cây
trơ trọi, gai góc dọc đường xe lửa qua miền Tháp Chàm. Cách
đây mấy năm, chuyến xe lửa chạy ngang qua vùng ấy vào buổi
chiều, tôi còn thấy mấy người Chàm bận đồ xanh, thờ thẫn
nhìn theo con tàu ì ạch chạy; những nhà lụp xụp vươn khói,
bầy trâu gặm cỏ trơ trong khoảng rừng thưa nồng đất sỏi.
Hình ảnh xưa nơi miền đất cằn cỗi này ngày nay như mất mát
tất cả, vẻ đẹp bi tráng của cánh hoa xương rồng đỏ như máu
rỉ được thắp sáng bằng hỏa châu, rên xiết bằng đại bác,
đoàn tàu lửa nghiến trẹo trẹo dò dẫm đi trong đêm.
Từ góc phố, công viên vắng người nhuộm
màu đèn ủ dột, mấy người lính Mỹ vừa đi vừa cười hô hố bên
mấy cô gái Việt bận mini-jupe, đưa đôi chân trắng muốt lóng
cóng trên đôi giày cao gót. Bóng người đi lần vào bóng cây,
đêm đen hun hút.
- Tổ cha mày, con ơi, tổ cha mày …
Tiếng chửi hực lên như tiếng nấc rồi tắt
nghẹn tấm tức trong bóng tối dưới hiên mái tôn. Chiếc giường
tre của mụ bán phở rên lên ken két, mụ quạt phành phạch:
- Ông có chửi nó cũng không về mà. Ông
tính coi gần nửa tháng rồi, tối mô ông cũng đến tìm mà nó có
chịu về đâu. Cái nghề đời mà, nữ sinh ngoại tộc ông mặc xác
nó đi. Tội nghiệp!
Tôi nhìn vào khoảng tối lờ mờ, bóng lão
già lom khom đứng dậy, nặng nhọc bước ra ngoài. Mái tóc bạc
phơ, mặt hom hem rúm lại làm chòm râu thưa dưới cằm thừa
thãi. Chiếc áo đen cộc vá lỗ chỗ, chiếc quần bà ba cáu bẩn
nhăn nhúm, thân hình còm cỏi của lão nằm lỏng lẻo trong cặp
đồ ấy. Lão quờ tay vịn chiếc giường tre của chị Ba đứng lên
:
- Chị Ba à, đằng mô nó cũng là con tui mà
chị.
- Tính răng chớ tui thấy nó làm khổ ông
nhiều quá. Tội nghiệp. Chừ ông định lại đằng đó nữa à? Sư
cha nó, con với cái!!
- Tội nghiệp nó thương tui lắm chị ơi.
- Thương mà để ông khổ thế ni. Thằng Hữu
không biết nó đi đâu rồi, để tui biểu nó đưa ông lại đó. Tội
nghiệp!
Lão già ngơ ngác nhìn các lối đi, đèn
điện vàng úa ngủ thiếp trên đường nhựa. Tôi quay lại hỏi chị
Ba :
- Ông ấy đi đâu đó chị? Tôi đưa ông đi
được không?
- À phải đó cậu, làm phước đưa ổng đi.
Tội nghiệp! Sư cha con với cái! Nó làm khổ ổng quá. Cậu tính
xem, ổng kiếm con gái ổng, nó làm cái bar ở đầu kia, ổng kêu
mãi mà con nhỏ có chịu về đâu. Cậu làm ơn đưa ổng lại cái
bar có vòng đèn đỏ gần khách sạn Phước Thuận đó. Đi ngã ni
nè. Tội nghiệp!
Lão quay lại nhìn tôi như van
lơn, tôi đứng dậy châm một điếu thuốc rồi đi với lão về bên
kia đường. Chiếc nón kẹp sát vào người, lão bước hấp tấp,
luộm thuộm, chiếc lưng khòm xuống, đôi chân đen
khẳng khiu, mấy ngón chân trần
bám sát vào đôi dép nhựa. Nhìn đôi mắt hom hem ấy lòng tôi
se lại, tôi nhớ một buổi chiều Quảng Ngãi, một lão già ôm
đứa cháu trai bị cụt một chân vì đại bác, lão ngồi bên hè
bệnh viện tỉnh. Cũng đôi mắt ấy hom hem mệt mỏi, ngơ ngác
như mắt người điên bị đưa lên máy chém: những ánh mắt cầu
khẩn, vô hồn …
- Cụ ở đâu đến đây tìm con?
Lão đứng khựng lại nhìn tôi. Tôi nhắc lại
câu hỏi. Lão cười như mếu máo chìa mấy chiếc răng đen rời
rạc trên nướu:
- Tui ở Vạn Giả, thầy biết Vạn Giả chớ?
- Dạ biết, Vạn Giả có bánh chuối, có bánh
ướt chấm mắm cái…
Lão chớp mắt nhanh, ánh đèn vàng trên cột
điện tạt xuống cho tôi thoáng thấy rõ chút vui mừng như quê
hương sống lại trên khuôn mặt ấy.
- Ừ đó đó, nhưng cỡ xưa kìa chớ
bây giờ thì hết trọi rồi thầy à. Hết trọi rồi. Ăn
bánh chuối Vạn giả mà uống bát
nước chè vối nóng.
- Lát chuối thơm xắt mỏng mật ươm ra
trong lá chuối khô, thơm ngon lắm. Cháu có ghé lại Vạn giả
mấy ngày. Cụ ở làng nào?
- Bên kia đàng xe lửa đó thầy. Còn chi
mô, hết trọi rồi!!
Tôi chờ đợi lão nói nữa, nhưng lão im
lặng ngẩn ngơ nhìn ánh đèn màu ở quán bên đường. Những từ “
còn chi mô, hết trọi rồi” mà lão không nói lên lời đó tôi đã
hiểu rõ, đã nhìn tận mắt. Nhưng tôi muốn lão nói ra để đỡ
khổ, quê hương đã một lần tan nát đừng để nó tan nát lần thứ
hai trong lòng mình.
Tôi đã qua những làng miền Trung
không bóng người, cánh đồng không bóng trâu phơi nắng. Những
bãi cát phẳng phiu trơ vơ mấy vệt cháy xám, vài cuộn dây
thép gai quằn quại. Những làng miền Nam vắng vẻ: thân dừa toe toét mảnh
đạn ca-nông tạc đạn. Nhưng giờ đây tất cả đau thương đó đang
cài lên từng vết trên khuôn mặt lão. Mái nhà nơi Vạn Giả có
bánh chuối ươm mật giờ đây lờ mờ hiện giữa thành phố đèn mờ,
lão trở nên trơ trọi
giữa quê hương .
- Thế sao cụ lại bỏ vào đây?
Lão hít nước mũi sụt sịt, cúi gầm đầu.
- Hai vợ chồng tui có đứa con gái thôi
thầy à, tội nghiệp bả bị lạc đạn chết. Hai cha con đi tản cư
nhưng sống chật vật quá, con Chó con nó đi bán quán rồi nó
nghe lời rủ rê đi vô Nha Trang, rồi vô đây. Tui đi theo tìm
nó về.
- Con chó con nào?
- Tên đứa con gái tui, đó là tên xấu
háy, tên trong khai sinh nó là Nguyễn Thị Hồng, mười sáu
tuổi.
Đến dưới cột đèn khách sạn, lão dừng lại,
mắt hom hem nhìn qua bên kia đường; lão đang muốn tìm thấy
quê hương thất lạc đâu đây, đang vướng víu đâu đây. Lão cúi
xuống hỉ mũi, quay lên nhìn tôi, chút rãi mũi còn dính trên
môi, trên mấy sợi râu lưa thưa.
- Thầy coi, phải chỗ đó không thầy?
- Dạ đúng rồi, để cháu đưa bác vào.
Lão tần ngần nhìn màu đỏ chói hắt trên
mặt đường. Tôi nhìn hàng chữ đèn nê-ông “Bar Texas”, một
vòng tròn đỏ rực khép kín hàng chữ màu xanh. Từ bên trong
tiếng nhạc nhói lên hòa với tiếng cười rời rạc đượm hơi men.
Từ hơn một năm nay khắp các thành phố và vùng quê, nơi nào
có vết chân quân đội ngoại quốc, nơi đó bar mọc đầy rẫy từ
những bar có bề ngoài sang trọng, tiếp khách, bán hoa được
che đậy bằng nụ cười dễ dãi, bằng mấy tiếng Anh bập bẹ; đến
những bar làm bằng hai miếng tôn che nắng, mấy chai la de
hình thức, một màn vải giăng ngang một chiếc giường tre. Từ
miền đất đỏ Pleiku cho đến vùng cát nóng Chu Lai, người ta
thấy bar xuất hiện dưới nhiều hình thức. Đó là cách sống bây
giờ. Người ta thừa biết anh lính Mỹ làm gì với cô gái Việt
sau nụ cười nhả nhớt ở quán sang trọng; sau miếng vải dưới
mái tôn vùng cát nóng, và sau đó nữa … Có ai dám nói thật
một điều gì.
Bar
Texas
kín như một hộp quẹt, ngoài cửa giăng lưới sắt, một chú bé
mặt đồ trắng đứng nơi cửa ra vào. Lão già lượm thượm bước
lại để nón lá ngoài hiên, lão nhìn tôi hỏi han, bàn tay nắm
lại lom khom lễ mễ, lo sợ.
- Lại cái ông mắc dịch này! Đi chỗ khác!
Thằng bé trợn tròn mắt quát tháo lão già.
Lão miệng mím lại, tay gãi ót.
- Tội nhiệp tôi mà cậu!!
- Ông vô hoài mà đâu có thấy. Cái tướng
thập thò như V C làm khách họ khiếp!
Ông lão quay lại nắm lấy tay áo
tôi, bàn tay xương gầy cố bám một
hy vọng sắp mất, một mong ước
hắt hiu, thảm đạm. Tôi mở cửa bước vào, tay dắt ông lão,
thằng bé gác cửa trố mắt nhìn không nói. Dưới ánh đèn đỏ đục
như bóng ráng chiều, hơn mười cô gái cúi gục đầu vào những
anh lính Mỹ. Những anh lính Mỹ to con đưa chiếc lưng tấm
phản, đang ôm ấp một tiếng cười nhỏ bé,
rời rạc tựa như lời nấc khan.
Nhạc Jazz rú lên, tiếng kèn đồng ai nức nở đó, lão già
nhướng mắt lục lọi trong những vòng tay, sau các thân hình
đồ sộ kia hình bóng đứa con gái
bé bỏng thân yêu của lão. Chai La-de sùi bột, ly Whisky đầy
vơi nơi đây chỉ là cái cớ; đây là nơi cho những bàn tay tò
mò, đôi môi khao khát, nơi chọn lựa của món hàng một đêm.
Lão hít nước mũi kéo tay tôi chỉ về phía
góc phòng:
- Đó, đó thầy, nó đó.
Con bé đang nằm gọn trong tay anh
lính Mỹ da đen, nó cười ngây dại rúc đầu vào cánh ngực nở
nang. Một tay cầm ly rượu một tay quàng vai cô gái, người
lính
cười hiền lành; con bé bận
mini-jupe đưa đôi chân trắng muốt, con bé như đứa bé con nằm
trong lòng mẹ, lọt thỏm trong hai cánh ngực áo rằn ri.
Lão già bấu chặt tay áo tôi, lão
rớm người lên như muốn chạy lại, tôi nghe tiếng nấc ừng ực
trong cổ lão. Khi người lính cúi sát hôn vào cổ con bé,
con bé cười nắc nẻ, lão già hít
mũi sìn sịt như tiếng nấc khan.
- Kìa, Chó Con! Thầy coi chi mà ác rứa,
Thầy ơi, chết con gái tôi!
Một phút im lặng trôi qua, lão nhướng đầu
như quyết định điều gì, đôi môi lão mấp máy, lão hít nước
mũi.
- Kìa, Chó Con!
Tiếng gọi thất nhanh, người lão
rúm lại, tiếng gọi như tiếng của lão trong buổi chiều ở vùng
quê gọi con gái dẫn trâu về; như sau buổi cày trở về gọi
con rót bát nước chè
vối nóng hổi. Tiếng kêu quê mùa
và thảng thốt đó xoáy lên, chập chững đọng lại khô khan. Con
bé tự nhiên thoát khỏi vòng tay tên lính đứng dậy:
- Dạ!
Chó con nhướng mắt
đứng choàng dậy, tiếng kêu của
quá khứ đánh thức nó dậy, đôi mắt mở to, ngơ ngác, trong
khoảnh khắc nó như tìm về những ngày sống cũ, nó như tìm
thấy bóng cha già, ruộng lúa và bầy trâu; như tiếng dạ của
em ở bờ nương rẫy nghe vọng tiếng gọi của Cha già khi hoàng
hôn tê tái phủ xuống nương chiều. Phản ứng vô thức mở choàng
ra đã vội tắt lịm dưới ánh đèn đỏ chói, dưới tiếng nhạc jazz
dậm dực đổ hồi, con bé ngơ ngác nhìn về phía cửa, lão già
lắc đầu, lẩm bẩm trong miệng:
- Chó Con! Chó Con! Con ơi!
Người lính da đen nhìn con bé
cười ồ ồ, nhại lại tiếng dạ của nó. Cả sức sống quê hương
của làng mạc tắt nghẹn trong
tiếng bom và đại bác! Giờ đây hình ảnh quê hương le lói
trong tâm hồn Chó con lại lịm chết trong tiếng nhạc, tiếng
cười của gã lính da đen. Con bé nháy mắt rùng mình bỏ dở
giấc mơ, nó lắc đầu cười và quàng tay ôm cánh ngực đồng đen.
- Cô đó là Tuyết Hồng, trong khai sanh là
Nguyễn Thị Hồng, mười sáu tuổi.
Thằng bé kéo lão ra ngoài, lão ngoái đầu
nhìn lại, miệng lão méo, mũi sụt sịt. Tôi nhìn Chó con một
lần cuối, mắt nó dại đi dưới làn khói thuốc. Quá khứ như
chồm dậy, rồi rã rời, gục ngã trong vòng tay lông lá đó. Tôi
bước ra khỏi quán với lão già.
Lão già ngồi chồm hổm bên vỉa hè, mặt lão
choét lại, lão khóc rưng rức, đôi vai run lên. Hai bàn tay
nắm chặt chống trên má, lão như một bộ xương khốn khổ được
kéo ra khỏi quan tài. Lão khóc khô, không một giọt nước mắt,
tiếng hậm hực trong cổ kéo dài lạnh buốt :
- Sao dại vậy con ơi! Chó con của cha
ơi!!..
Gió lạnh về khuya thổi luồn qua đường
vắng, vài chiếc lá khô xoáy tròn trên đường nhựa.
Tôi kéo tay lão lại bến xe đò. Bàn chân
lão nặng nề khó nhọc, gió lạnh ớn làm hồn tôi buồn dại. Lão
nhúm môi nhìn tôi:
- Thầy hè, thầy coi phải con Chó Con đó
không thầy?
- Dạ phải, chính con của bác đó.
Tôi muốn nói với lão như lão mô tả về quê
hương “hết trọi rồi” tất cả như một bóng mờ, một đứt quảng.
Tuyết Hồng đã thay cho Chó Con, Chó Con đã chết trong bom
đạn và trong lòng quê hương tàn lụi. Lão làm sao tìm thấy
được những gì đã mất mát, có chăng chỉ có trong đài phát
thanh hay trên những bài diễn thuyết. Khắp vùng chiến hàng
vạn Chó con đã thay tên, đổi nghề, đã gởi đồng ruộng, con
trâu ,mái tranh cho bom đạn; và giờ đây những Chó con đáng
thương ấy ẩn náu trong những nơi như thế đấy…
Tôi và lão đã trở về đến bến xe đò, mụ Ba
bán phở vẫn còn ngồi nói chuyện ba hoa với chị Bảy về mùa
gặt ngoài quê mụ. Mụ say sưa kể đến cái thú ăn gạo mới, cái
vui những đêm lùa trâu đập lúa. Thấy lão già về, mụ quay
sang hỏi:
- Răng, ông có thấy nó không mà thút thít
đó.
Lão im lặng không trả lời, lủi vào góc
tối ngồi. Chị Ba nhìn lão ái ngại:
- Thôi ông buồn chi, làm tui rầu thúi
ruột. Sinh con ai dễ sinh lòng.
Tôi nằm trên ghế bố nhìn bầu trời sao,
gió lay mấy cành cây cao. Tiếng đại bác vẫn rền vang phía Ma
Lâm, Khánh Sơn. Mụ Ba vừa lấy quạt đuổi muỗi vừa ca bài ca
về quê mụ. Lão già vẫn sụt sịt trong góc tối. Lời ca của mụ
mệt mỏi như bước lê lếch của dĩ vãng xa xôi.
Ai đưa
con sáo tình bạn sang sông.
Ôi mần
răng! Ôi mần răng!
Chao ơi,
chao ơi! Em đau bụng quá.
Lấy gừng
cho em!
Tiếng thút thít của lão già chậm dần,
giọng hát mụ Ba vời vợi trong đêm vắng. Trong bóng tối lờ mờ
tôi nghĩ có lẽ lão già đang ngầy ngật sống trong lời ca và ở
nơi đó, Chó Con đã về với lão.
( 1967 )
oOo
ĐÓN
XEM
Bài Số 4 - Bông Dủ Dẻ
GS
Nguyễn
Quang Tuyến
Nguyên
Giảng viên Khoa Tâm lý chiến
Trường Võ bị Quốc gia VNCH Đà Lạt
www.ninh-hoa.com |