|
HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975
CHƯƠNG
25
DỊCH-LÝ
易
理
(446,
tr. 605-699)
(480,
tr. 80-81)
(481,
tr. 129-138)
(482)
(483,
tr. 36-54)
(Tiếp
theo Kỳ 197)
TAM-DỊCH THÁM NGUYÊN
①
Kinh Dịch được làm ra cốt để nêu rõ nghiã ba tiếng ghép:
'bất-dịch', 'biến-dịch', và 'giao-dịch'. Nhờ đó, các khoa
lý-học, số-học và tượng-học mới được hoàn-bị. Lớn như
thánh-vực, hiền-quan, tâm-tính chí-mệnh, vi-diệu cuả
thiên-đạo, thứ đến cương-thường danh-giáo, trì thân thiệp
thế, sự-nghiệp cuả nhân-sự; tái thứ là trị lịch minh thì,
âm-dương doanh-hư, vật-số tiêu-trưởng, biến-hoá cuả cát
hung, hưu cữu. Khai vật trước thiên-hạ, thành vụ sau
thiên-hạ. Sở dĩ Dịch là tổ cuả chư kinh, cỗi nguồn cuả
vạn-pháp. Lý vi, đạo đại, thủ dụng đa môn. Người nhân thấy
nó gọi là nhân, người trí thấy nó gọi là trí, bách-tính hằng
ngày dùng đủ mà không hiểu tại sao. Trước Khổng-tử Dịch
chuyên về bói tượng, nên quan thái-bốc mới quản-lý, nhưng
chưa được liệt vào học-cung. Từ khi Phu-tử viết ra Thập Dực,
đề-xướng nghiã-lý, tham-bác danh-số, Kinh Dịch bắt được
truyền cùng với Ngũ-kinh, không còn bị liệt vào thuật-số
nữa. Bất-dịch là gì? Là Hà-đồ. Biến-dịch là gì? Là Lạc-thư.
Giao-dịch là gì? Là nhật-nguyệt biểu-tượng Dịch vậy. Hà-đồ
là lý vậy. Lý chủ ngũ-thường, thường ắt hằng-cửu bất-biến.
Tại thiên, gọi là thiên-lý, tại điạ gọi là điạ-lý, tại nhân
gọi là tính-lý. Lý gốc nơi tượng. Trời hiện Hà-đồ để
biểu-tượng đó. Hà-đồ hiện ra là vì lý. Lý tĩnh nên năng ứng
mà không thấy được, còn điạ tĩnh mà năng sinh, nên có thể
thấy được. Nên lấy Hà-đồ làm điạ-bàn. Lý gốc ở tĩnh mà đất
cũng tĩnh vậy. Số cuả Hà-đồ : 2, 7 tại phương nam thuộc hoả,
là lễ cuả văn-minh, hoả tính bốc lên trên, nên phuơng nam
nóng bức nhiều, nghìn đời không đổi. 1, 6 tại phương bắc
thuộc thủy, mà là trí trầm tiềm, thủy tĩnh ưa chỗ trũng, nên
phương bắc lạnh nhiều, nghìn đời không đổi. 3, 8 tại phương
đông thuộc mộc, là đức nhân hiếu-sinh, mộc năng sinh hoả,
nên mặt trời mọc ở phương đông. 4, 9 tại phương tây thuộc
kim, là nghiã cuả quả-đoán, kim năng sinh thủy, nên Hoàng-hà
phát-nguyên từ Côn-lôn. 5, 10 cư trung-ương thuộc thổ, là
chủ tín cuả thành-thật, nên âm-duơng điều-hoà nóng lạnh cuả
bốn muà . Ba điều ấy cũng là nghìn đời không đổi. Nên bảo
rằng bất-dịch, lý cuả vô-hình, quán trong dục-giới,
sắc-giới, vô-sắc-giới. Bên trên quản-lý Hà-Hán, tinh-đẩu,
ngũ-hành được chúng mà thuận-bố, bên dưới quản-lý thập điện
chư ty, cửu-u được chúng mà có trật-tự; ở trung-ương quản-lý
sơn-hà đại-điạ, vạn-tính, ức-triệu, phi (chim chóc), tiềm
(tôm cá), động(-vật), thực(-vật), phẩm-loại hữu-tình,
vô-tình cuả thế-gian, được chúng mà các đắc kỳ sở. Lý đó
siêu-thăng nơi dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới, mà cả bên
ngoài, là vô-cực lý thiên, lý tối-thượng. Vô-vi chân-linh,
con người được nó mà tiêu-diêu thiên-cổ, vạn kiếp thường
tồn. Lý mà không chỗ nào là vô-lý, các đắc kỳ lý, nên gọi là
chí-lý. Lý ấy tức duy-hoàng cuả giáng-trung, thượng thiên
cuả phú-tính, chí chân cuả vô-cực vậy. Bên trong dục-giới,
sắc-giới, vô-sắc-giới, ắt không dời khỏi khí, mà cũng không
tạp với khí. Bên ngoài dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới, ắt
ủy-khí độc-lập. Từ hội tý khai-thiên, đến hai hội tuất-hợi,
thời-kỳ chung-cùng cuả trời đất, dục-giới, sắc-giới,
vô-sắc-giới hàm quy vô-hữu. Mà lý ấy phục-sinh thiên-điạ.
Nên người Trung-hoa gọi đó là thượng-đế, người Tây-trúc tôn
kính nó làm thiên-vương, nói gom lại là đạo, là thiên-điạ
tam-giới thập-phương vạn-linh chân-tể, vạn-vật thống-thể một
chân-tể, vạn-vật mỗi mỗi có một chân-tể. Tam-giáo truyền
tâm, tức thị truyền tâm cuả chân-tể ấy. Chân-tể vạn-kiếp
thường tồn, tâm ấy cũng vạn-kiếp thường tồn. Tu tâm ấy ắt
cùng thọ với chân-tể, mê-muội với tâm ấy ắt mắc vào vòng
luân-hồi sinh-tử.
Đó là bất-dịch cuả Dịch, cho nên không dễ biết,
không dễ nói ra, mà là uyên-nguyên cuả đại-đạo vậy. Nên
Khổng-tử nói: "Dịch vô-tư dã, vô-vi dã, tịch nhiên bất-động,
cảm nhi toại thông thiên-hạ chi cố = Đạo Dịch không nghĩ
ngợi gì cả, yên lặng chẳng động, cảm-thông mà biết duyên-cớ
cuả thiên-hạ, nên nếu không phải là cái thần tột bậc trong
thiên-hạ, thì không làm được như vậy" (Thượng-Hệ X/4). Lại
nói: "Phạm-vi thiên-điạ chi hoá nhi bất quá, khúc thành
vạn-vật nhi bất di, thông hồ trú dạ chi đạo nhi tri, cố thần
vô phương nhi Dịch vô thể = Làm khuôn mẫu cho biến-hoá trong
trời đất mà chẳng vượt quá, uốn nắn nên muôn vật mà chẳng
sót, thông-suốt cái đạo ngày đêm mà am hiểu, cho nên thần
không có phương-sở, mà Đạo Dịch không có hình-thể"
(Thượng-Hệ IV/4). Trong Dược-sư Lưu-ly Quang Phật Kinh, Đức
Phật nói: "Quang minh tịch chiếu, vô sở bất thông, bất động
đạo-trường, biến chu sa-giới = Quang-minh lặng chiếu, không
chỗ nào là không thông, đạo-trường bất-động, phổ biến khắp
sa-giới (Thế-giới chúng sinh đông hơn những hạt cát trên
Hằng-hà bên Ấn-độ". Trong Thường Thanh-tịnh Kinh Thái-thượng
Lão-Quân nói: "Đại-đạo vô-hình, sinh dục thiên-điạ. Đại-đạo
vô-tình, vận-hành nhật-nguyệt. Đại-đạo vô-danh, trưởng-dưỡng
vạn-vật = Đại-đạo vô-hình sinh-thành trời đất, Đại-đạo vô
tình, vận hành nhật-nguyệt, Đại-đạo không tên, nuôi dưỡng
muôn vật lớn lên". Lão-tử cũng nói: "Đạo khả đạo phi thường
đạo, danh khả danh phi thường danh. Vô-danh thiên-điạ chi
thủy, hữu danh vạn-vật chi mẫu = Đạo có thể nói được không
phải đạo thường; tên có thể gọi được không phải tên thường.
'Không' là gọi cái có trước trời đất; 'có' là gọi mẹ muôn
loài". Các điều vừa kể đều thâm tri, thiện-dụng, thiện-ngôn
bất-dịch cuả Dịch. Trời 1 sinh thủy, đất 6 thành nó. Thủy ở
trên trời là mây mù, có khí, không có chất, gọi là sinh cuả
tiên-thiên. Tại đất, ắt khí biến thành chất, gọi đó là thành
cuả hậu-thiên. Đất 2 sinh hoả, trời 7 thành nó. Hoả ở trong
đất, ẩn nơi kim thạch, hữu khí vô-hình, ấy là sinh cuả
tiên-thiên. Kim thạch được trời kích thích nên thành lửa
chói sáng, khí biến ra hình, ấy là thành cuả hậu-thiên. Trời
3 sinh mộc, đất 8 thành nó. Mộc vốn là thực-vật, rễ sinh nơi
đất, mà nói rằng trời 3 sinh mộc là vì mộc tất được khí
trời, nên đất bắt đầu năng sinh nó. Đất 4 sinh kim, trời 9
thành nó, quặng cuả ngũ kim tất từ đất ra, thấy trời
kinh-doanh hoả, nên hoàn thành được dụng. Trời 5 sinh thổ,
đất 10 thành nó, hư không là bụi, xuống đất tích lại thành
khối. Hà-đồ xuất nơi Hoàng-hà, đó là trời sinh vật, thành
vật, rất đáng lẽ bất-dịch, chỉ bảo cho con người vậy.
Lạc-thư là biến-dịch cuả Dịch, một khí lưu-hành, không một
ngày nào là không biến, không một muà nào là không đổi. Từ 1
đến 9, Phục, Lâm, Thái, Đại-tráng, Quyết, Kiền, từ đông nhập
hạ, đó là dương-nghi cuả thái-cực vậy. Từ 9 đến 1, Cấu, Độn,
Bĩ, Quan, Bác, Khôn, từ hạ nhâp đông, đó là âm-nghi cuả
thái-cực vậy. Trong dương-nghi bao-hàm Nguyên 8, Hanh 7,
nhị-thiếu cuả xuân-hạ. Trong âm-nghi bao-hàm Lợi 9, Trinh 6,
nhị-lão cuả thu-đông. Hai nghi đó sinh tứ-tượng sinh
tứ-tượng vậy. Xuân có cấn cuả lập-xuân, chấn cuả xuân-phân,
tốn cuả lập-hạ, ly cuả hạ-chí, đoài cuả thu-phân, kiền cuả
lập-đông, khảm cuả đông-chí, đó là bốn quẻ trong âm-nghi
vậy. Thu có khôn cuả lập-thu, đoài cuả thu-phân, kiền cuả
lập-đông, khảm cuả đông-chí, đó là bốn quẻ trong âm-nghi.
Bốn quẻ cuả dương-nghi : 8 trắng (bạch), 3 biếc (bích), 4
xanh lá cây (lục), 9 tiá (tử); bốn quẻ cuả âm-nghi là: 2 đen
(hắc), 7 đỏ (xích), 6 trắng (bạch), 1 trắng (bạch). 5 vàng
(hoàng) là bản-thể cuả nguyên-khí, cư trung-cung mà ứng với
bát-phương, là cực-nữu cuả cửu-cung, là chủ-tể cuả bát-quái.
Một quẻ thống-lĩnh 3 khí, khí biến thành 24. Một khí
thống-lĩnh 3 hậu, hậu biến thành 72. Biến cuả hậu 5 ngày có
lẻ, hợp thành 365 ngày ¼. Từ Nguyên đến Trinh là đi giáp
vòng một tuế. Bỏ phần lẻ không dùng, được 360 ngày, là 360
hào, hợp thành 60 quẻ. Gia dĩ bản-thể cuả nguyên-khí là
kiền-khôn, dụng cuả nguyên-khí là khảm-ly, hợp thành 64 quẻ,
384 hào, mà khí cuả tuế đi giáp vòng vậy. Đó là dịch cuả
biến-dịch, thái-cực khí thiên vậy. Hà-đồ có tượng là
điạ-bàn, Hà-đồ vô-hình là thiên-lý. Vô-cực lý thiên, bao
ngoài thái-cực khí thiên, quán bên trong thái-cực khí thiên.
Bao ngoài thái-cực khí thiên là trời bên ngoài trời, trời
bất-động, đại-la-thiên, tam-thập-tam thiên. Quán bên trong
thái-cực khí-thiên, là trời ở trong trời, là tâm cuả trời
đất, là trời cuả thái-cực. Quán bên trong đại-điạ, bao bên
ngoài đại-điạ. Đến tinh-đẩu-thiên thì ngừng. Nhị-thập-bát Tú
kinh-tinh, chuyển theo trời, mỗi ngày quay một vòng, thường
quá 10, 30 ngày chuyển một cung, 365 ngày có số
thừa. Khởi từ không-phận Hư-Nguy, làm một vòng chân trời.
Kiền là trời, thuần dương mà tráng-kiện, ly là mặt trời, hai
hào dương, một hào âm, nên thứ-kiện. Một 8iểngày, trọn một
vòng, mỗi ngày không đầy 10 trời. Tích lại hội
với không-phận cuả thiên nguyên, gọi là một tuế. Mỗi tuế 12
tháng, mỗi tháng 30 ngày, cộng 360 ngày là một tuế. Mà trời
hội với mặt trời, trên thực-tế là 360 ngày ¼. Dư 5 ngày 3
giờ, gọi là khí-doanh. Sau năm nay, muốn biết xuân năm tới,
tái gia 5 ngày 3 giờ. Khí thái-cực, nửa âm, nửa dương,
âm-khí lạnh, dương-khí ấm. Dương tự nửa đêm đông-chí
chính-tý, thượng-thăng, một tháng vượt qua một cung, trải
qua tý, sửu, dần, mạo, thìn, tỵ đến hạ-chí, ngọ, mùi, thân,
dậu, tuất, hợi tới đông-chí, dương toàn tại tuyền, âm toàn
tại thiên, nên nóng dưới mặt đất, lạnh trên mặt đất.
Dương-khí thượng-thăng, ắt bách cốc, thảo mộc, xuân-phát,
hạ-trưởng, dương chủ sinh vậy. Âm-khí hạ-giáng, ắt thảo-mộc
vàng uá rồi rụng, thu thâu đông tàng, âm-khí chủ sát vậy.
Dương-khí thượng thăng, động vật cảm mà hoá, bắt đầu ắt cá
côn hoá thành chim đại-bàng, sau đó, sấm bèn phát-thanh,
chuột đồng hoá chim cút, cá mú hoá chim. Cá không tự dưng là
cá, khí giáng ắt cảm mà hoá cá. Do đó mà xem xét, ắt bốn muà
không tự-động lạnh nóng, ấm, mát, phát, trưởng, thâu, tàng
vậy, do khí khiến cho thành ra vậy. Hơn hết, khí thái-cực
trên sửa trị tinh-đẩu, dưới quán đại-điạ, tuy xưng di-luân
(lẽ thường) mà vô-gián, thực muôn phần bất-đồng. Từ 1 đến 9,
1800 có lẻ. 900 đầu, từ nóng đến mát,
sau 900, từ ấm đến nóng. Từ 9 đến 1, 1800
có ứng-biến. 900 đầu, từ nóng sang mát, sau 900,
từ mát sang lạnh, rất lạnh. Từ Hư đến Đẩu, 450.
Đến Cơ ắt lạnh dần dần trở thành ấm. Từ Cơ đến Phòng là ở
trong khí ấm. Từ Phòng đến Giác, ằt ấm dần dần. Từ Chẩn đến
Tinh là bắt đầu nóng. Từ Tinh đến Tỉnh, là hết nóng. Từ Sâm
đến Mão, là bắt đầu mát. Từ Mão đến Khuê, là hết mát. Đến
Bích ắt mát trở thành rét. Từ một khí phân ra lưỡng-nghi,
âm-dương phẫu-phán. Lưỡng-nghi phân ra bốn muà, do bốn muà
phân ra bát-tiết. Do bát-tiết phân làm nhị-thập tứ tiết-khí,
72 hậu, 365 ¼0. Khí-vị các hậu không đều nhau,
tú-tính các tú-độ khác nhau, nhân-vật đều bẩm theo mà sinh,
lúc sinh bất-đồng, tú-độ rốt cuộc khác. Nên vật-loại có sang
hèn, lớn nhỏ, nhân-sinh có thọ-yểu cùng-thông, trí-ngu,
hiền-ác đều do khí sui khiến. Tính bản-nhiên, phú-bẩm từ lúc
mới sơ-sinh, đến từ lý-thiên, lý vốn nhất-trí, nên tu-tính
ấy thánh-phàm đồng-quy. Tính cuả khí-chất, phú-bẩm sau khi
sinh ra, đến từ khí thiên, khí có phù-trầm, thăng-giáng, sao
có cát hung, thiện-ác, mà nhân-sinh trí-ngu, hiền-ác,
thọ-yểu cùng-thông, cũng nhân đó mà vạn-hữu bất-tề. Cái gọi
là tụ-hội nơi khí chính là lưu-tục phàm-dung. Cái gọi là đạt
nơi lý, chính là đích-mạch cuả thánh-hiền. Đạo ấy cuả
thánh-nhân sở dĩ không tụ-hội vào ngũ-hành, mà siêu-xuất nơi
tam-giới vậy. Lý thiên là gi? Là vô-cực vậy. Khí thiên là
gi? Là thái-cực vậy. Thuyết vô-cực xuất từ sách cuả Lão-tử,
sách cuả Khổng-Mạnh, ít ai khái-kiến. Đến đời Tống, Chu
Liêm-Khê sáng-tác ra Thái-cực Đồ-thuyết. Sau khi được truyền
nhiều đời, ít người hội ý được, phần nhiều lấy thái-cực làm
lý, đặt vô-cực vào chỗ vô-quan khẩn yếu, mới hay rằng
thái-cực đã rơi vào âm-dương, chẳng phải khí thì là gi? Nếu
lấy đó làm tính, không phải tính cuả khí-chất thì là gi? Báo
cáo tính cuả cây kỷ, cây liễu, thuyết cuả tính cuả nước chẩy
xiết, luận tính ác cuả Tuân-tử, đủ để động nhân thanh-văn,
mà thuyết tính thiện cuả Mạnh-tử, phản-khởi nghi ngược cuả
kẻ sĩ, bởi chưng nhân lý vi khí hiển. Vi ắt khó thấy, hiển
ắt dễ biết. Sai một ly, đi một vực. Do đó Đạo sở dĩ
thất-truyền vậy. Lý thiên, khí thiên, tuy đều vô-hình, mà
khí thiên lưu-hành, rét bức đắp đổi, động mà hình-tích có
thể thấy được; lý thiên bất-động, tĩnh mà vô-tượng khó dòm.
Thuấn truyền ngôi cho Võ, nhân-tâm, đạo-tâm, biện
nghiêm-nguy-vi. Nhân-tâm tức tính cuả khí-chất, đạo-tâm tức
kiến-đoan cuả tính bản nhiên. Tính bản nhiên bẩm ra nơi
sơ-sinh, xuất từ lý-thiên. Tức là cái mà Chu-tử gọi là
'Vô-cực chi chân, dữ nhị-ngũ chi tinh, diệu-hợp nhi ngưng
dã'. Trước khi sinh, không nên cho là khí cuả miệng mũi tự
sinh, không mượn ngũ-cốc ăn vào mà tự trưởng. Chân-lý
vô-cực, tĩnh mà diệu-dụng. Đợi đến sau lúc sinh ra, khí
thái-cực nhập vào mũi miệng, từ đó hô-hấp qua lại, cùng là
thân-thể sung-túc, là thời-tế phân-khí, chính đang mỗ tú, mỗ
độ, ắt người đó được khí mỗ tú, mỗ độ mà sinh. Nếu sao tốt
độ chính, năm với tháng ngày phù-hợp, ắt người ấy tính tình
thiện-lương, phú-quý công-danh, suốt đời vô-tổn. Nếu sao tốt
độ chính, năm với tháng ngày có phù, có thương, ắt người ấy
tuy tính tuy thiện-lương, mà phù-thương hỗn-tạp, ắt chiết
chuẩn thừa-trừ, thửa phúc bất-toàn, hoặc trải qua khó-khăn,
chờ thời vinh-hiển. Nếu sao tốt độ chính, năm với tháng ngày
có thương, vô phù, đại-vận lưu-niên bị nhiều sứt mẻ, ắt suốt
đời không thành-công, có chí khó thành; trung-thần, nghiã-sĩ
thường từ đó mà ra, khí-số khiến ra như thế. Ngược lại, nếu
sao hung, độ lệch, năm với tháng ngày tương-phù, ắt giầu
nhưng bất-nhân, sang mà bất-nghiã, gian-thần, tặc-tử ở đó mà
ra, cũng do khí-số khiến ra vậy. Cũng là do khí-số,
tính-mệnh khiến sui vậy. Mệnh ấy không phải là mệnh trời
phú, mà là mệnh cuả khí-số. Tính ấy không phải là tính
bản-nhiên, mà là tính cuả khí-chất. Mệnh ấy, tính ấy
phát-hiện nhân là duy-nguy cuả nhân-tâm, mà không phải là
duy-vi cuả đạo-tâm. Nhân-tâm sao lại nguy? Nhân thửa
nguyên-xuất từ khí thiên, động mà không tĩnh, ham ăn, hiếu
sắc, giao vật mà ra, túng tình, dịch chí, thứ tệ bản lai.
Thửa quy-lưu nơi ô-trọc. Dương cuả khí thiên, ở con người là
tỉnh, ắt to lớn mà loạn-tư, ngủ say ắt nằm mơ mà du-đãng. Âm
cuả thiên-khí, tại con người là phách, động ắt muốn dục-hoả,
phồn-chất, tĩnh ắt ma-quái, hôn-trầm. Trí khiến bốn cửa
không đóng, cửu-khiếu chẩy xuống, lục-dục bôn-ba, thất-tình
phân-nhiễu. Ô hô! Một điểm đạo-tâm, kỷ vi linh-minh, bao
nhiểu không bị che lấp, làm thửa ràng buộc, lưu-lãng
sinh-tử, thường chìm bể khổ thay. Đạo tâm xuất từ lý-thiên,
bất nhập âm-dương, không rơi vào ngũ-hành, nên thuần mà
không tạp, tĩnh mà năng sáng, thần mà trí-diệu. Đạo tâm cuà
con ngườixuất từ khí-biểu, quán bên trong khí, gọi là
nguyên-thần. Thần ấy không lúc nào mà không thông với
lý-thiên. Chỉ có thần mới năng thông, nhưng thông mà không
hay biết, không được đại-thông, chung-thông, bởi vì lụy vào
khí. Nhân-tâm cuả con người, ở nơi nhân-thần, gọi là
thực-thần. Thần ấy không lúc nào mà không thông với
lý-thiên. Duy khí năng thông, cũng thông mà không biết là
đang thông, không được đại-thông, trung-thông, là vì lụy vào
khí. Kẻ sĩ có chí, nếu không được thánh-nhân đích-truyền
tâm-pháp, nên năng làm điều thiện, khử điều ác, tích-lũy
đức-công, tiêu-trừ tội lỗi u-ám, rồi sau mới khử dục,
điều-tức, củu cửu công-thuần, khí sở bẩm đến từ khí-thiên,
tương-hợp với khí-thiên. Phàm sụ trong khí-thiên, có
cảm-thông, thoát nơi tứ-đại, quay trở về thái-hư, ắt là thần
trong khí-thiên, có thể đồng thọ với trời đất, cùng tuiổi
với nhật-nguyệt. Nếu ứng-vận giáng-sinh, có thể làm công-hầu
Tướng-tướng, thông-minh trí-tuệ, xuất loại siêu-quần. Nếu
hạnh-ngộ cơ-duyên, ắt nghe đại-đạo, biết nguyên-khí đạo-tâm
ở đâu, cũng nên tích-lũy công-đức, kiêng mặn ăn chay, tức
niệm ngưng thần, dài lâu khí-hoá, lý thuần, lý sở thụ luôn
luôn tương-hợp với lý-thiên. Phàm sự lý-thiên, có cảm tất
thông, thoát khỏi tứ-đại, quay trở về vô-cực, nhiệm vào
luân-tang cải-biến, trời đất chung thủy không liên-quan gì
với pháp-thân vô-cực. Vượt khỏi tam-giới, ít hiểu ngũ-hành,
gặt hái được đại-an-lạc, vĩnh-viễn không thoái-chuyển, nên
năng bằng vai vế với Tiên-Phật, đồng đội với thánh-hiền,
chủ-trì tạo-hoá, thọ bằng vô-cực. Nại cớ lý vi đạo đại,
không ai là không truyền. Lại kiêm thiên-luật sâm-nguyên,
võng tiết tất khiển. Sở dĩ chính-pháp khó vậy. Tam-giáo
truyền-tâm, có phân chính-pháp, tướng-pháp và mạt-pháp, mà
tạo-chỉ quả-báo, có phân-biệt dục-giới, sắc-giới và
vô-sắc-giới. Dịch có giao-dịch, biến-dịch và bất-dịch, học
có lý-học, số-học và tượng-học khác nhau, Đạo có hạ-thừa,
trung-thừa, thượng-thừa, thuốc có thượng-phẩm, trung-phẩm,
hạ-phẩm, nhân-quả có ngọc-thanh, thượng-thanh, thái-thanh,
thanh-tịnh pháp-thân, viên-mãn báo-thân, thiên-bách-ức
hoá-thân, đại-nhân, thánh-nhân, thần-nhân các đẳng xưng-hô,
kể sao cho siết. Nghiên-cứu vượt khỏi, giao-dịch, biến-dịch,
bất-dịch, đạt được nguồn giao-dịch, biến-dịch, bất-dịch, ắt
thể-dụng hợp nhất, gốc ngọn kiêm gồm, hữu-vô bất-nhị,
hiển-vi vô-gián, tĩnh-thánh động-vương, chấp hai đầu mà dùng
chính giữa, cái đó gọi là chính-pháp. Nếu đạt được
giao-dịch, biến-dịch mà không đạt được bất-dịch, ắt có dụng
mà không có thể, biết hữu mà không biết vô, biết hiển mà
không biết vi, có động-vương mà không có tĩnh-thánh, tụ-họp
nơi dục-sắc-giới mà không đạt được vô-sắc-giới, gọi là
tướng-pháp. Thứ đến là đạt được giao-dịch mà không đạt được
biến-dịch, bất-dịch, ắt tụ nơi dục-giới mà chuyển-hồi
sinh-tử. Cái đó gọi là mạt-pháp. Nho có tồn-tâm, dưỡng-tính,
Đạo nhất-quán; Thích có minh-tâm, kiến-tính, Đạo quy-nhất;
Đạo có tu tâm, luyện tính, Đạo thủ-nhất, thân hành
thực-tiễn. Nho có thể thành thánh, Thích có thể thành Phật,
Đạo có thể thành tiên, gọi là chính-pháp. Ngàn năm về sau,
chính-pháp thất-truyền, Nho ắt chấp nhất vào huấn-hỗ, mất ý
mà truyền lời; Thích-Đạo ắi tụ họp nơi đốt nhang, tụng kinh,
tụng lời mà quên ý-vị. Chấp nội-hiển mà không đạt nơi
nội-vi, tu nơi người mà không đạt nơi trởi, đủ làm
thiện-nhân mà khơng đủ làm thánh-nhân, thần-nhân, cái đó gọi
là tướng-pháp. Ngàn năm sau, tướng-pháp thực-vi, nho-giả
trâm-luân nơi từ-tảo (lời đẹp), lấy tứ-thư, lục-kinh làm nấc
thang lợi-lộc, tăng, đạo truyền làm cần câu cơm, mượn
tiên-kinh, phật-điển làm dụng-cụ khất-thực, đến mức đó, ắt
tam-thanh di-ngôn rơi vào tình-trạng nửa còn, nửa mất, tức
thiện-nhân không dễ thấy, cái đó gọi là mạt-pháp. Lúc
Như-Lai đang tịch-diệt, tăng-ngôn, ngô-đạo chính-pháp trong
một ngàn năm, tướng-pháp một ngàn năm, mạt-pháp ngàn năm.
Sau mạt-pháp, chính-pháp trở lại, như chính-tông thất-thụ,
ắt dị-đoan phân-khởi, bọn cuồng-vọng tập-hợp lại, lường gạt
bằng lời giả-dối, mê-hoặc, giành kỳ-công, lấy cơ-công,
cơ-sự, cơ-khí làm đạo, không phải là tiểu-bổ cho ẩm-thực
hằng ngày và binh-lực phú-cường, nhưng mà dụng-tâm thái quá,
ắt kiêu-bạc phác-tán, xem xét thái quá, ắt dâm-dật sinh sôi.
Nên bọn Lỗ-Ban , Mặc-Địch kỹ xảo không bất-thần, rốt cuộc
không nhập vào Đạo Khổng-Mạnh, nên phải đứng bên ngoài. Đời
mạt-pháp, cũng có nội-tu mê-hoặc lòng người. Đạo không đạt
nơi Tam-Dịch, làm u-mê đại-nguyên cuả tính-mệnh thiên nhân,
lời không căn-cứ vào tam-thánh, làm rối-loạn đại-bản cuả
cương-thường, danh-giáo. Men theo vô-tri cuả phàm-dung,
phóng-túng nơi vô-kê cuả cuồng-ngôn, gây loạn bằng
quỷ-thần, dụ-dỗ bằng hoạ-phúc. Đại-khái lấy khí thổ-nạp vào
miệng mũi làm suất-tính, lấy nhân-tâm tạo-tượng làm sở-đắc.
Không tuân giới-luật, không phân-biệt trong ngoài, không
phân-biệt thiện-ác, ắt nong mạ cho chóng lớn; cố tạo
độc-chỉ, làm hại bằng việc nhỏ nhoi, truyền đồ dẫn chúng,
lưu độc miên-man, thậm chí nhân-chúng thế lớn, ắt mong muốn
phi-phận, không nghĩ trăm vạn giặc khăn vàng thời Tam-quốc,
chung quy phá-diệt. Giao thời Nguyên-Minh, ắt có bọn Hàn-lâm
Nhi, Lưu Phúc-Thông, số người đến vài chục vạn, cuối cùng
cũng thân mất, nhà tan, gặp kết-quả cuả yêu-nhân bạn-nghịch.
Ô hô! Bọc chúng hai người, tàn nhẫn hơn hổ-lang, tàn phá hơn
bão lụt. Hổ-lang bão lụt hại thân thể con người, mà dị-đoan
tà-thuyết thoạt đầu ắt truyền tiểu-đạo, hại nhân tâm-thuật;
kế tiếp ắt loạn nhân luân-thường, bại nhân danh-tiết, rố
cuộc, ắt mong muốn phi-phận, hại nuớc tan nhà. Thuật mê-hoặc
người khác, đại-khái để dẫn linh-tính thăng thiên, thấy toàn
tiên-phật, trụ vào cung-điện. Tại bát nháo chi thiên, quần
áo mũ mão lệch lạc, há chẳng nghe Trung-Dung (Chương XXXII)
nói: "Phải dùng đến thanh-sắc để giaó-hoá người dân, thì đó
là mạt-kế vậy". (Đây thuộc về thơ Quốc-phong 'Vệ thạc nhân
Trịnh chi Phong' trong Kinh Thi. Kinh Thi nói: "Đức nhẹ như
lông, lông còn thấy lớn nhỏ, chỉ có đức hoá-sinh cuả trời là
không tiếng, không hơi hướng vậy. Ấy mới thật là cao-siêu,
mầu-nhiệm vậy" (290,
tr. 126). Kinh Kim-cương nói: "Nếu lấy sắc mà quan-sát ta,
lấy âm-thanh mà cầu ta, là người tu-hành tà-đạo, không thể
thấy được Nhu-Lai". Lại nói: "Phàm tướng sở-hữu, đều là
hư-võng".Lão-tử nói: "Đại-đạo vô-hình". Thánh-nhân Tam-giáo
đều chưa từng nói đến gác lầu không trung, sự vinh-hoa, nỗi
tĩnh-lý. Lời ấy không phải là yêu-quái ắt là nói láo. Không
những chỉ là ngu-phu, ngu-phụ, mà cho đến văn-nhân, học-sĩ,
cũng từng nói thế. Đáng buồn thay! Tái-giả đồng-tâm con gái
đẹp, bỏ đời hồn trên gối, bạn tốt thiên-lý. Do trong lối
mộng, nghĩ đến con trai mộng-giao, cũng như đến thiếu-nữ
mộng-dựng, nên tư-niệm quá trớn, quỷ thần thông đấy, võng
tưởng thái quá, yêu-hồ ám ảnh. Nhập vào cửa ấy, đến nỗi
võng-tưởng quá độ, cũng không thể có được sở-kiến. Y tưởng
tự-hạnh đắc-đạo mà không biết rằng mình đã lọt vào sào huyệt
cuả yêu-ma mà không tự-giác. Thuật tiểu-đạo cũng có luyện
được thức-thần, du-lịch tứ-xuất, biết hoạ-phúc cuả con
người, như Ngộ-chân Thiên nói: "Phép bế-mục giám-hình
tư-thần, sơ-học khó có ngay đường bình-thản, hoặc giả có khi
chu-du vạn-quốc, làm sao nhà phá lại di-cư?". 'Nhà phá lại
di-cư' có nghiã là người học được điều ấy, thân tàn ma dại
mà nhập luân-hồi. Như một niệm có sai lầm, chung quy
trụy-lạc. Lại nói: "Đầu thai đoạt xá, cùng là di-cư, tên
cựu-trú là tứ-quả-đồ, sao chẳng hồi đầu tu đại-dược, chân
kim khởi ốc lúc nào khô?". Điều ấy nói về bàng-môn tiểu-đạo,
chẳng gì là không hiệu-nghiệm, nhưng mà nhập-thủ sai lạc,
khó thành chính-quả. Nên Khổng-tử nói: "Tuy tiểu-đạo cũng có
lúc khả-quan vậy; rất cao xa mà sợ-sệt, câu nệ, là điều mà
người quân-tử không làm". Đạo cuả Dương-Chu, Mặc-Địch,
hoành-hành thiên-hạ, thời đó không có gì là khả-quan, nhưng
mà trở-ngại tơ-hào, ngang trái vạn dặm. Chính lấy đạo cuả
Mạnh-tử, thiên thu vạn-cổ về sau, đều biết rằng đó là
tà-thuyết dị-đoan. Chung thân cay đắng, cũng như hèn-hạ
vô-văn, càng ngày càng trầm-trọng vậy. Bởi chưng trời đất
không hai lý, thánh-nhân không hai lòng. Bên ngoài thửa đạo,
ắt thuộc bàng-môn. Lao đầu vào nhầm lẫn, phi đầu vô-ích,
di-hại không ít. Dương-Chu, Mặc-Địch, đều thiên-chất
xuất-chúng, suốt đời tinh-cần, nhân lý-khí quan đầu,
biện-luận chưa trong sáng, thiên-nhân cùng-diệu, hiểu biết
chưa trọn vẹn, đại-bản đã sai, phần còn lại không đáng xét.
Còn như Nhiễm-Hữu, Quý-Lộ làm quan nơi cửa quyền,
Quản-Trọng, Án-tử đường-đường tá bá, sự-nghiệp Nhiễm-Hữu so
với, so với Quản-Án, sao dừng ở thiên-uyên? Mà Nhiễm-Hữu,
Quý-Lộ, thớt đậu thiên-thu. Quản-Trọng, Án-tử nan miễn khí
nhỏ vì sao? Giữa hai cái lớn, chỉ có đạo là độc-tôn.
Bá-nghiệp tiểu-thành cách xa muôn vàn vậy.
②
Sách truyền-đạo thượng-cổ, thoạt đầu gửi vào Dịch. Đạt dịch
cuả bất-dịch, ắt đóng khuôn tạo-hoá, gọi là thánh-vực. Đạt
dịch cuả biến-dịch, ắt hiểu rõ tạo-hoá, gọi là hiền-quan.
Thánh-vực vô-vi, ấy là thiên-đức; hiền-quan hữu-vi, ấy là
vương-đạo. Nếu chỉ biết dịch cuả giao-dịch, ắt biết hiển mà
không biết vi, biết hữu-tượng mà không biết vô-tượng, chưa
đủ để gọi là nói về Đạo vậy. Dịch cuả biến-dịch xuất từ quẻ
Kiền cuả Thượng-kinh. Kiền là trời. Kiền tiên-thiên biến
thành Ly cuả hậu-thiên. Kiền dụng cửu tức Ly vậy. Kiền-đạo
biến-hoá, mỗi mỗi chính tính-mệnh, là dụng cuả trời vậy.
Làm sáng tỏ cả sau lẫn trước, thấy sáu ngôi dương đều tùy
thời mà thành-lập, thì điều-khiển cả sáu ngôi dương mà
thống-trị ở trên cao, là cái dụng cuả mặt trời vậy.
Thiên-nhật vận-chuyển mà nóng lạnh đắp đổi, nên nói là
biến-dịch. Dịch cuả giao-dịch, xuất từ quẻ Khôn cuả
Thượng-kinh. Khôn là đất. Khôn cuả tiên-thiên biến thành
Khảm cuả hậu-thiên. Khôn dụng lục, dùng khảm cuả tiên-thiên
vậy. Kiền dừng hậu-thiên, Khôn dùng tiên-thiên, là nói lên
khác biệt cuả dương thuận âm nghịch. Khôn là đất, khảm là
mặt trăng. Khôn dầy tải vật, là cái dụng cuả đất;muôn vật
hoá quang, là cái dụng cuả mặt trăng. Khôn nhân thiên-giao,
ắt phát-trưởng-thâu-tàng; nguyệt giao với nhật, ắt
hối-sóc-huyền-vọng. Điạ-nguyệt nhân giao mà đổi, nên nói
giao-dịch vậy. Đất giao với trời, vô-hình hữu tích; nguyệt
giao với nhật, hình-tích đều hiển. Như thuyết 'Tây-nam
'',lý-giải khác nhau, liên-cư một hai, chính là cao-minh.
Lấy bốc-phệ mà nói, ắt khôn là quẻ bói được. Tây-nam là
vị-trí cuả khôn cuả Khôn, khôn thấy khôn, là khôn là
đồng-loại, đồng-loại là bạn, nên nói 'Tây-nam được bạn'.
Khôn sinh tam-nữ tốn, ly, đoài, đều là tây-nam, đều là bạn
đồng-loại. Lối giải-thích này tuy cận-lý, cứu cánh không
gính dáng gì với giao-dịch cả. Nguyệt là thái-âm, lại là
thủy-tinh. Lấy khôn làm thể, lấy khảm làm dụng.Nguyệt vốn
vô-quang, giao với nhật ắt sinh quang. Chỗ sáng là hồn, là
dương, tức là vạch lẻ; chỗ tối là phách, là âm, tức là vạch
đứt cuả chẵn vậy. Đến lúc hối-tịch, thuần âm vô dương. Khôn
là mẹ. Hoàng-hôn ngày mùng ba, nguyệt tại phương canh.
Nguyệt ở trên, nhật ở dưới, giao mà sinh quang. Khôn sinh
trưởng-tử, biến thành chấn. Mùng tám thượng-huyền, nvuyệt
tại phương đinh, dương nhiều, âm ít, chấn biến ra đoài. Ngày
rằm đối-chiếu nơi giáp, âm tận dương thuần. Đoài biến ra
kiền. Ấy là 3 x 5 là doanh vậy. Bình-minh ngày 18, nguyệt
tại phương tân, dương quang từ từ thu ngắn lại. Nguyệt
hạ-sinh. Ắt cha sinh trưởng-nữ mà là tốn. Hăm ba hạ-huyền,
nguyệt tại phương bính, âm nhiều, dương ít. Tốn biến ra cấn.
Ngày 30, nguyệt tại phương ất. Dương-quang không xuất-hiện.
Hồn tận, phách toàn. Trở về khôn thể. Đó là 6 x 5 mà khuyết
vậy. Chấn, đoài, kiền, tốn, cấn, khôn. Quẻ dừng nơi 6, tám
quẻ chỉ dùng sáu quẻ vậy. Sáng Truân, chiều Mông. 60 quẻ,
mỗi tháng đi khắp một vòng trời, mỗi ngày một hào, 6 ngày 1
quẻ, nên 360 ngày là 60 quẻ, là một năm đi trọn một vòng
trời. Tám quẻ chỉ thấy sáu quẻ, 6 hào tức thị 8 hào, là thêm
vào kiền-hào dụng cửu, khôn-hào dụng lục vậy. Tám quẻ chỉ
thấy sáu quẻ, là 3, 5 mà đầy chấn, đoài, kiền, 3, 5 mà
khuyết tốn, cấn, khôn. Trong đó chỉ thiếu khảm, ly. Nguyệt
là khảm, nhật là ly vậy. Nhị dụng không có hào-vị, chu-lưu
lục-hư, sáu quẻ kỳ thực là tám quẻ vậy. Quái
卦
(quẻ) là quải
掛
treo vậy, nhật-nguyệt treo giữa hư-không mà sinh quẻ vậy.
Hào là giao vậy, nhật-nguyệt tương-giao, mà sinh ra hào vậy.
Chữ quái
卦
gồm 2 chữ thổ chồng lên nhau, trong nhật nạp kỷ thổ, trong
khảm nạp mậu thổ. Quái ắt là mậu-kỷ song thổ, hợp nhau mà
thành vậy. Tại sao nạp kỷ? Kỷ tức là nhật vậy. Tại sao khảm
nạp mậu? Mậu tức nguyệt vặy. Trên có 8 quẻ, dưới có 8
phương, lấy 8 x 8 mà thành tròn 64 quẻ vậy. Măt trời
tráng-lệ giữa trời, mà hơi chậm, mỗi ngày chậm 10
trời. Tính 365 ¼ ngày, mà là khí doanh. Nhật hàm một dương
(nét ngang trong chữ nhật
日),
thứ-kiện nơi trời. Nguyệt chỉ một dương, lại chậm hơn nhật,
nên mỗi ngày chậm 13 0 7/19 trời, tích 29 ½ ngày
thành một chu-kỳ. Nên mỗi năm sóc-hư thiếu 6 ngày, khí-doanh
5 ngày hữu dư, sóc-hư 6 ngày bất-túc, nên mỗi năm phạm vào
năm mới 11 ngày. Năm năm hai lần nhuận. 19 năm 7 lần nhuận.
Khí-sóc phân tề là 1 chương (Chu-trình Meton). Khí doanh
xuất từ biến-dịch. Sóc-hư sinh từ giao-dịch. Mà bất-dịch
không tham-dự. Đó là đại-dụng cuả bất-dịch vậy. Giao-dịch
giống như hình-chất cuả con người, âm dương giao ắt biến đổi
vậy. Biến-dịch như khí-bẩm cuả con người, từ thiếu đến
tráng, từ tráng đến lão, tự nhiên mà biến. Bất-dịch giống
như nguyên-thần cuả con người, hình có sinh-tử, khí có
biến-thiên, mà thần không có sống chết, không có biến-thiên.
Xuất-xá, nhập-xá, không tăng, không giảm, nên nói là
bất-dịch. Không những thế, Kim-cương cuả Phật, Kim-đan cuả
Đạo, hết thẩy đều bắt rễ từ tam-dịch. Phật nói nam-mô (nam
vô), nam bèn là vị-trí cuả kiền tiên-thiên. Kiền là trời,
trời là lớn, không gì là không bao, đó là dịch cuả biến-dịch
vậy. Lại là vị-trí cuả ly hậu-thiên. Ly là mặt trời, mặt
trời ắt sáng, chẳng gì là không chiếu, đó là dịch cuả
giao-dịch vậy. Lớn không gì là chẳng bao, sáng không gì là
chẳng chiếu, do đó không đủ để nói hết tinh-diệu cuả
phật-pháp, duy vô ắt vi, không gì là chẳng nhập, đó là dịch
cuả bất-dịch vậy. Kim-đan cuả Đạo, tiên thiên lấy kiền-khôn
làm tính-mệnh, từ 10 tháng thai đầy đủ, cô-nhiệt đế-lạc, một
tiếng hò khoan, kiền mất trung-hào dương, hư mà thành ly;
khôn được trung-hào cuả kiền, thực mà thành khảm. Kiền-khôn
giao ắt biến thành khảm-ly. Nhật ở trên, nguyệt ở dưới,
thủy-hoả Vị-tế. Công-phu kim-đan, biết bản lề khảm-ly ở đâu,
vận-động thần hoả cuả hư-vô, há-giáng khảm-cung, ắt chân-kim
đáy bể, hoá thành khí, ép khí khai-quan, đảo-chuyển
Hoàng-hà, thượng-thăng Côn-lôn, rơi vàochính giữa ly, khí tụ
thần ngưng, phục-hoàn kiền-nguyên, pháp-luân tự-chuyển, gọi
là giao-dịch. Đợi tới cửu-chuyển đan thành, thần thăng
thượng-giới, hợp chân với đạo, quay trở về vô-cực, là
bất-dịch. Bất-dịch ắt bất-sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh.
Phật nói kim-cương, Đạo nói kim-đan, đều lấy kim làm tỷ-dụ.
Nói về tính cuả bản-nhiên, đến từ lý-thiên, rất tinh-túy, vô
cấu, vô trần. Tĩnh mà năng ứng, hư mà năng minh. Từ
giáng-sinh trở về sau, tính cuả khí-chất, đến từ khí-thiên.
Nhập vào miệng mũi, đầy đủ vào thân hình, hỗn-độn tạc-phá,
bốn cửa đông-tây-nam-bắc cuả Nhà Phật đại-khai, tình-thức
dần mở, thiên-chân dần mất, đến lúc lục-dục bôn-trì,
thất-tình phân-nhiễu, vân-vụ mê không, thanh-thiên như mất.
Thanh-thiên tức kim-tính bất-hoại vậy. Mọi người đều có
kim-tính bất-hoại ấy, nhân câu-nệ nơi khí-bẩm, che giấu bởi
vật-dục, mê chân trục-võng, bội thường hợp trần, bất tận
nghiệt-báo, vạn-biến luân-hồi. Nên ngu-đình
虞廷
lấy nhân-tâm, đạo-tâm biện nguy-vi. Tây-Chu lấy kính-thắng,
đãi-thắng
怠胜
đoạn hưng-vong. Mà Khổng-Nhan lại lấy 'khắc kỷ, phục lễ' làm
công-phu. Tính khí-chất phát thành nhân-tâm, tính bản-nhiên
phát thành đạo-tâm. Nhân-tâm ở bên trong tạng-phủ, đạo-tâm
hiện bên ngoài cuả kiền-nguyên. Tại bên trong ắt hôn-trọc,
mông-muội, lấy thất-tình, lục-dục làm thủ-lĩnh; ở bên ngoài
hư-minh, quang-diệu, tác tam-hoa, ngũ-khí tổng-trì. Lý ắt
cận tuyền, nhập vào trọc-hạ nên nguy. Nguy là mê-chân,
trục-võng. Mê chân ắt mất hẳn chân-đạo, trục-võng ắt khổ-não
luân-hồi. Ở bên ngoài ắt thông thiên, tiến đến cao-minh, nên
vi. Vi là phản-võng quy chân. Phản-võng ắt khổ-não hoàn toàn
bị san phẳng, quy-chân ắt đản-đăng bỉ ngạn (chỗ thoát ly hẳn
được phiền-não cuả đời mà đạt chính-quả). Hai điều đó cùng
ngụ tứ-đại, khổ-lạc bất-đồng, thánh-phàm khác hẳn nhau.
Biết chân ắt không nghi, nên tinh. Giữ vững ắt bất-nhị, nên
nhất. Tinh ắt tình-dục biến hết, khắc-kỷ tịnh-tận; nhất ắt
tam-ngũ hàm-dung, lễ-phục hồn viên. Khắc kỷ tịnh tận, ắt
mê-vân tiêu-tán; lễ-phục hồn viên, ắt thanh-thiên hiển-lộ.
Vạn-vật mỗi mỗi có đủ một trời. Trời tức kiền, kiền tức kim,
kim tức tức tính, tính tức lý, phục-lý tức phục-tính,
phục-tính tức phục kim. Phật nói kim-cương, Đạo nói kim-đan,
thủ thửa hồn viên. Khắc-kỷ lễ-phục, Khổng-tử không nóiphục
lý cuả thiên-lý, mà nói phục-lễ cuả lễ-nhạc, vì sợ hậu thế
di thoát luân-thường, bỏ con người mà cầu trời vậy.
Thiên-nhân hợp nhất, chấp lưỡng dụng trung, nên cao mà không
nhập vô-dụng cuả hư-không, thấp mà không trầm-luân vào
tiểu-khí cuả công-lợi, cái đó gọi là doãn chấp quyết trung
(Hãy tin theo đạo Trung-dung) (Kinh Thư). Lấy lễ cuả lễ-nhạc
mà thay thế lý cuả thiên-lý, khiến kẻ hậu-học được thửa
tinh, ắt tận-tính chí-mệnh (xét cùng lý bàn hết tính mà đạt
đến mệnh) (Thuyết-quái Truyện I/3), lớn lao có thể làm
thánh-hiền, đắc thửa thô là hiếu-đễ trung-tín, thứ đến cũng
thẹn với danh-giáo. Lớn thay thánh-nhân! Thửa ưu-hoạn lại
tới vậy thay! Hậu-nho nói: "Nhân-dục tịnh tận, thiên-lý
lưu-hành". Lời đó không tân-thiết, nhưng so với thánh-nhân
không có chỗ nào di-lậu, sai lầm cả. 'Nhân-dục tịnh tận,
thiên-lý lưu-hành' chuyên nói tính-thể, chiếu-cố đến hạ-lưu,
ắt có tham không luyến tịch, di thoát luân-thường, làm lu mờ
đại-quyền cuả thánh-nhân, thay trời quản-lý vật. Lặng lẽ
bất-động, cảm mà trục thông, lý vốn tĩnh mà năng ứng, mà nói
lưu, nói hành, nên không khác gì khí hỗn,
rơi xuống mạt-lưu, ắt có nhận khí tác lý, coi nhẹ tinh-vi,
làm lu mờ đại-bản chí tĩnh cuả thánh-nhân. Nên hai Thiên
Đại-học, Trung-dung, nới thể dùng gốc ngọn, chung thủy thiên
hậu, hiển-vi phí-ẩn, thiên-đạo, nhân-đạo, đại-đức, tiểu-đức,
đại-dụng cuả cửu-kinh, tam-trọng, đại-thể cuả vô thanh, vô
xú, phản phục đinh ninh. Tôn đức tính mà đạo vấn học, rất
quảng-đại mà tận tinh-vi, quyuền cao minh mà đạo trung-dung.
Ôn cũ biết mới, đôn-hậu để sùng lễ. Khấu kỳ lưỡng-đoan (gạn
hỏi thửa hai mối), yết-thị vô dư giả, sợ học-thuật hậu-thế
phân-kỳ vậy. Cớ sao cái học cuả thánh-nhân lớn mà năng
thông-suốt, bẩy mươi hai đệ-tử tân-chá (thân gần mà nhiễm
được tính hay), thánh-hoá, ngoài Nhan-Tăng ra, hiếm người
tạo được thửa vực, huống hồ thửa dưới. Nên sau khi truyền
được mấy đời, đạo cuả Dương-Mặc hoành-hành thiên-hạ, may sao
Mạnh-tử được chính-truyền cuả Tử-tư, khởi mà trừ dẹp. Đạo
thánh thánh tương-truyền, dựa vào để không sa xuống. Không
được mấy đời, ắt bạo Tần đốt Thi, Thư, sư-tâm tự-dụng, cộng
tộ bất vĩnh, Nhị-thế diệt-vong, Hán giám thửa mất, ắt yêu
cầu di kinh, trị thượng khoan-đại, nho-giả đương thời, noi
theo để giảng kinh làm nghề, truyền môn danh-gia, đại-giả
khiên văn câu nghiã, chấp-nệ nơi huấn-hỗ, thường thường bỏ ý
để truyền lời nên cổ-nhân có than rằng: "Đốt kinh, kinh còn;
chú kinh, kinh mất". Cái học cuả Mã-Dung, Trịnh-Huyền, cao
rộng thì có cao rộng vậy, nhưng chuyên vào vấn học, bỏ qua
đức tính; Kinh-Phòng trị Dịch chuyên về bói toán, bị liệt
vào tiểu nho tượng-số; Vương-Bật trị Dịch chuyên về
nghiã-lý, ắt biến thành thanh-đàm cuả Lưỡng-Tấn, hoặc thiên
về gốc, hoặc thiên về ngọn, đó là phân-kỳ học-thuật Hán-nho.
Tấn-nho phí-đàm thanh-hư, so với thời Hán, là cái học
câu-chấp, cao thì có cao vậy, nhưng mà cao-đại, vô thực, ắt
tản mạn vào nhập-thủ, chìm vào cuồng-đãng. Đường trọng thơ
phú, tranh đua từ-thao, Khổng-Mạnh tâm-pháp, nhập-thất hiếm
hoi. Đợi đến Viêm Tống-Triệu hưng, sùng nho trọng đạo,
ngũ-tinh tụ-khuê, văn-vận thiên-khai. Hi-di đạo xuất,
Liêm-khê nối gót, thánh-nhân tâm-pháp, dựa theo xương minh.
Sau Nhị-Trình, Quy-sơn kế-thừa. Đạo truyền Dự-chương, sau
gởi Diên-bình. Đạo đến tập ăn tập chú Thánh-kinh. Đang thời
ấy, Chu đạo vấn học, Lục tôn đức tính, đạo nhất-quán,
phân-kỳ lưỡng kinh. Tôn đức tính, sau Tượng-Sơn có
Dương-Minh; đạo vấn-học,xau Tử-dương, Hà Vương kế khởi, Kim
Hứa dật hưng. Cho đến ngày nay, Trình, Chu, Lục, Vương chưa
sinh dị-đồng, mỗi người mỗi ý, quên mất Trung-dung. Đức
tính, Vấn học, há dung thiên trọng. Phép xuất-thế, Thích-đạo
vô-bằng. Cuối Tống-Nguyên, phép cuả hai họ dấy lên, chỗ
hạ-thủ cũng có bất-đồng. Đạo luyện thủy-phủ, Thích tu ly
cung. Hàn-sơn, Long-môn, cái hùng cuả đương thời, phân môn
liệt hộ, ai giữ tông nấy. So với tam-thánh, ắt thiếu
hồn-dung.Từ đó về sau, xuất tế mưu thực, trụ thế cầu vinh,
tam-giáo chân-mạch, đã mê tích tông. Dị-đoan nổi lên như bầy
ong, nhiễm-pháp hoành-hành, hung quốc hại gia, khanh hàm ngu
mông, biến loạn cựu chương, bại hoại thế phong, ngu tâm như
bị thương, muốn cứu cũng không được. Khôn lường cố-lậu,
lý-giải Thánh-kinh. Hoang-mậu sai thác, tựu chính cao
minh.Biết ta, buộc tội ta, nhiệm thửa phẩm-bình. Nho từ
Đức-tính, Vấn-học phân thú đến nay, tôn đức tính là thủ-ước,
lấy cách vật làm cách vật dục; học-giả đạo vấn huỷa dụng
thông-suốt, lấy cách vật làm cách sự vật, ai chấp thuyết
nấy. Mới hay Đức-tính, Vấn-học, thể-dụng không thể thiên
trọng, vật dục, sự vật, thiên nhân cốt tại kiêm nhu. Vật
cách cuả vật-dục, ắt kỷ khắc, lễ-phục, đủ để đạt đại-bản cuả
thiên-đức; vật cách cuả sự vật, ắt lễ minh, nhạc bị, đủ để
đưa đến đại-dụng cuả Vương-đạo vậy, đó là phép cuả
tĩnh-thánh, động-vương vậy. Nên nói: "Tôn đức tính mà đạo
học-vấn, hai mối đều quan-trọng, chấp một ắt thiên một vậy,
tức thể-dụng đều cần". Nếu như tụ nơi người mà không đạt nơi
trời, có thể nhập hiền-quan mà không đủ để đạt thánh-vực.
Nhưng mà trời cũng khó nói vậy. Hán-nho Đổng Trọng-Thư nói:
"Đại-nguyên cuả Đạo xuất từ trời. Học-nhân cử-thế đều lấy đó
làm lời thấy đạo, nghiên-cứu nó, hỏi biết nólà gốc ở trời
nào vậy?". Nếu lấy lý-thiên làm thiên, ắt thiên tức đạo, đạo
tức thiên, không phân biệt đó đây, có xuất-nhập gì? Nếu lấy
khí-thiên làm thiên, ắt đại-nguyên cuả thiên xuất từ đạo, mà
đại-nguyên cuả đạo không xuất từ thiên. Nên Lão-tử nói:
"Đại-đạo vô-hình, sinh dục thiên-điạ". Tên cuả đạo tuy không
khác, thực-thể cuả đạo ắt có khác. Dịch nói: "Một âm, một
dương gọi là đạo", chỉ bói toán mà nói. Bói toán gốc ở
tượng-số, tượng-số không dời âm-dương, đó là đạo cuả
bốc-phệ, không phải là đạo cuả Đại-học, đạo suất tính vây.
Khộng phải là dịch cuả bất-dịch, bèn giao-dịch, đạo cuả
biến-dịch vậy. Đạo cuả Đại-học, Đạo cuả suất-tính tuy gốc ở
dịch cuả bất-dịch, nhưng mọi người đều có đạo cuả riêng
mình; lại không phải là sinh thiên, sinh điạ, đạo không nói
ra được, không gọi tên được. Âm-dương cuả dục-giới, sắc-giới
phân ra làm giao-dịch, biến-dịch, hữu-tượng, vô-tượng. Âm
dương cuả dục-giới, ắt các loại nam-nữ, trống mái,
động-tĩnh, cương-nhu, sống chết. Âm-dương cuả sắc-giới, ắt
các loại tinh-đẩu, nhật-nguyệt. Đó luôn luôn là âm-dương
hữu-tượng, quá bán thuộc vào giao-dịch. Âm-dương cuả
vô-tượng như trời cuả thanh-khí, tải nhật-nguyệt-tinh-thần,
bao quát vạn loại cuả đại-điạ sơn-hà, quán-triệt vạn-loại,
dưỡng-dục vạn-loại, sinh sát vạn loại, thăng ắt là dương,
giáng ắt là âm. Duỗi ra là thần, co vào là quỷ. Đó luôn luôn
là vô-tượng cuả âm-dương, thuộc vào biến-dịch. Như vậy, dịch
cuả biến-dịch, tuy tựa vô-sắc, vô-tượng, mà kỳ thực bất đồng
vô-tượng, vô-sắc cuả bất-dịch. Khí cuả biến-dịch động mà
lưu-hành, có chung, có thuỷ. Đại-hạn bất quá 129600 năm,
chung quy cùng tận. Lý cuả bất-dịch, tĩnh mà năng ứng, vô
chung vô-thuỷ, không rơi vào âm-dương, mà kỳ thực năng
chủ-tể âm-dương, chung thuỷ âm-dương, mà là mẹ cuả mộ âm,
một dương. Khí thiên tuy tựa lý thiên, kỳ thực rất khác
lý-thiên, cũng do tính cuả khí-chất, tâm cuả duy-nguy, khí
biện tính cuả bản nhiên, tâm cuả duy-vi vậy. Điều ấy tuồng
như đạo sở dĩ dễ theo, mà chân đạo sở dĩ khó tin vậy. Nên
Lão-tử nói: "Thượng-sĩ văn đạo, cần nhi hành chi; trung-sĩ
văn đạo nhược tồn, nhược vong; hạ-sĩ văn đạo, tắc đại-tiếu
chi. Bất tiếu bất túc dĩ vi đạo = Bậc học cao nghe đạo chăm
mà học đấy; bậc học bình thường, nghe đạo dường như còn,
dường như mất; bậc học thấp kém, nghe đạo cuười lớn đấy; nếu
không cười, đạo không đủ lấy làm đạo"(Đạo-đức-kinh, Chương
XLI) [310,
tr. 40-52]. Trang-tử nói: "Chim én bờ dậu không biết
hồng-hộc, hạ-trùng không thể nói về băng, ếch đáy giếng khôn
g tin là trời bao la". Tống-Ngọc nói: "Thửa cong xưng cao,
thửa hoà xưng quả". Khổng-tử nói: "Đức tu bang hưng, đạo cao
hủy đến". Tử-tư-tử nói: "Điều mà người quân-tử bất-cập là vì
người khác không thấy". Mạnh-tử nói: "Điều mà người quân-tử
làm, chúng-nhân không biết đến vậy". Do đó mà quan-sát, do
đó đạo khó nói ra không phải là từ hôm nay. Nên đạo cuả
Trình-tử thời Bắc-Tống, xử-thế đều coi là ngụy-học, hô lên
là đảng-nhân, hủy-báng nơi triều, khắc vào đá. Tránh nó ắt
vô-tội, học nó ắt phạm cấm. Hủy báng ắt hữu công, đời nó mù
mịt, không có đất nương thân. Cái học cuả Chu-tử thời
Cao-tông, ắt đuơng bị coi là sai lạc, gọi là yêu ma, thửa
thân ắt tước chức, đoạt lộc, học trò ắt bị gạt ra đất ngoài
biên thùy. Nên Mạnh-tử nói: "Nên sẽ giáng đại-nhiệm xuống
người đó vậy, trước làm khổ thửa tâm-chí, mệt mỏi thửa gân
cốt, đói khát thửa thân mình, không-phiếm thửa thân, làm
loạn-xạ thửa hành-động, sở dĩ động tâm nhẫn tính, gia-tăng
thửa bất-năng. Ấy là để thửa luận ngã, không biết ôn cách
làm người quân-tử,'' để bất tri, bất-hối làm thánh-nhân.
Tử-thủ thiên–đạo, phép Khổng-môn. Trái đạo ngàn danh-dự,
giới cuả ngu-đình
虞廷".
③
Đạo cuả họ Thích, từ đời Chí-công phân thành thanh-y,
hoàng-y. Thanh-y tại nam, trì thụ giới-luật, lấy luật
tông-giáo làm đạo-quy, lấy giới định tuệ làm tạo-chỉ, lấy
minh-tâm kiến-tính đốn-siêu niết-bàn làm mục-đích,
chân-truyền thực-thụ, nên năng thành phật tác tổ. Thông tông
hợp giáo, từ lý kiêm-ưu, thụ phất nghinh cơ, hà đảm
chính-pháp, thay thế không thiếu người, ấy là thực-pháp.
Hoàng-y tại bắc, uống rượu ăn mặn, lặng lẽ theo phương bắc.
Sát nghiệt không ngừng, thảng hoặc có người đạt, bất quá
ngoan không, vô-vi, bất muội tiền sinh, xuất thai nhập thai,
khó miễn luân-hồi. Do kinh ngộ nhập vô-chân chỉ-điểm, gọi là
quyền-pháp. Thực-pháp tốt đẹp, siêu-phật việt-tổ. Quyền-pháp
tốt đẹp chỉ tiêu-nghiệt. Thanh-y từ Ngũ-tổ trở đi, phân làm
nam-đốn, bắc-tiềm. Nam-tông Tuệ-năng tảo-trừ văn-tự,
trực-chỉ nhân-tâm, kiến tính thành phật, gọi là đốn-giáo.
Thửa đạo đa-truyền hoả-trạch, mà tỳ-kheo tăng-ni, hiếm được
chân-truyền. Bắc-tông Thần-Tú, truyền-thụ y-bát, chấp nệ nơi
giảng-tụng, không đạt bản-nguyên. Thảng hoặc, kẻ ưu-tú có
thể tiêu-oan giải-nghiệt, gặt hái nhân thế phúc-thọ, hưởng
nghiệp-đại vinh-hoa, không năng siêu-sinh, liễu-tử, báo tận
chung-trụy. Như quả rốc lòng tin theo thanh-giới-tịnh, pháp
tại lưỡng-thi, phúc-tuệ song viên, không thoái sơ-tâm, cũng
năng gặp được chân-truyền, tiềm nhập chân-tông. Hà đảm
Như-Lai. Đại chấn tông-phong. Đạo vốn vô-tư, có cảm tất
thông, không giới-hạn luân-loại vậy. Đạo cuả Thái-thượng,
trước chân-nhân Nguỵ Bá-Dương, thanh-tĩnh, đạo-đức là
chính-truyền cuả Lão-tử kim-đan lô hoả chưa từng nói đến.
Thời đó, tam-thánh đồng-nguyên, trong nhau mà không nghịch
nhau, luôn luôn tối-thượng một thặng-pháp vậy. Kinh
Kim-cương nói: "Lấy phép vô-vi mà có sai biệt". Đạo-đức-kinh
nói: "Vô-vi mà hoá". Đức Khổng-tử cũng nói rằng: "Không làm
gì mà trị yên được thiên-hạ là Vua Thuấn vậy ư? Ngài có làm
gi đâu? Chỉ giữ mỉnh cung-kính, ngồi ngảnh mặt về hướng nam
đó thôi!" (Luận-ngữ XV/4). Thanh-tịnh Kinh lấy thanh-tịnh
làm chủ. Kinh Kim-cương cũng nói thanh-tịnh. Sách Đại-học
lấy định tình làm nhập thủ. Đạo nói hư-vô, Phật nói
tịch-diệt, mà sách Trung-Dung cũng nói: "Thượng thiên tải
vô-thanh vô-xú". Đạo nói: "Thủ nhất". Phật nói: "Quy nhất",
mà Nho cũng nói: "Quán nhất". Phật nói 'Sắc không', Đạo nói
'Hữu vô', Nho nói 'Hiển vi'. Phật nói 'Quan âm', Đạo nói
'Quan tâm', Nho nói 'Nguyện xét rõ minh mệnh cuả trời'. Đạo
nói 'Phục-mệnh', Nho nói 'Phục lễ', Phật nói 'Cũng phục như
thế'. Phật nói 'Minh tâm kiến tính', Đạo nói 'Tu tâm luyện
tính', Nho nói 'Tồn tâm dưỡng tính'. Phép hạ-thủ, mục-đích,
Tam-giáo đồng-nguyên. Nấu kim tác khí, hoá băng thành nước,
nguyên không dị-đồng, há phân này nọ? Từ ngày Ngụy Bá-Dương
mượn Dịch tỏ rõ đạo, lý tính-mệnh hợp với thiên-đạo
âm-dương, tham bác quái-hào, Hà-Lạc, ngửa xem cúi xét, gần
lấy nơi thân, xa lấy nơi vật. Nhân hàn-thử thăng-giáng,
nhật-nguyệt tròn khuyết, vật loại trống mái, tham-bác mà
đông-tây hợp nhau mà đồng đấy, ấn-chứng nhân-thân, như hợp
phù-tiết. Lấy tính-mệnh bẩm nơi trời. Tại trời, Đại-dịch là
kiền, kiền tại ngũ-hành là kim, nên lấy thể cuả nguyên-tính
làm tỷ-dụ cho kim. Nhân thần ngưng khí tụ, vạn mạch
quy-nguyên. Tình trí cần đến nhau, tiêu-diệt lẫn nhau, hồn
dung một đoàn. Nên lấy dụng cuả nguyên-tính, tỷ dụ làm đan.
Thần cư nơi ly, tiên-thiên tại đông. Đông là thương-long,
thất-tú phân dã, nên nói là thanh-long. Khí cư nơi khảm,
tiên-thiên tại tây, tây là bạch-hổ,
thất-tú phân dã, nên nói là bạch-hổ. Ly hoả sinh nơi đông mà
vượng nơi nam, nên ly hoả từ đông sang nam, thay thế kiền
tiên-thiên. Nam là Chu-tước, không-phận cuả thất-tú, nên lại
gọi đó là xích-long. Khảm thủy sinh phương tây, mà vượng nơi
bắc, nên khảm thủy từ tây sang bắc, thay thế khôn
tiên-thiên. Phương bắc là huyền-vũ,
thất-tú phân dã, nên lại nói là hắc-hổ. Ly tại phương nam,
tiên-thiên biến ra hậu-thiên, nguyên-thần che lấp nơi
thức-thần. Thức-thần dễ phóng ra mà khó
thu vào, nên tỷ-dụ là hống (thủy-ngân).
Khảm tại bắc-phương, cũng là hậu-thiên, nguyên-khí lụy vào
trọc-tính, dễ chìm mà khó nổi, nên tỷ-dụ là chì. Đó là
do-lai cuả dược-vật vậy. Ly hoả là mặt trời, khảm thủy là
mặt trăng. Trong ly nạp kỷ, trong khảm nạp mậu. Hợp chữ nhật
日
với chữ
nguyệt
月
thành ra chữ dịch
易,
giao ắt sáng, đốt ắt thành đan. Mậu-kỷ giao ắt là đao (dao),
nhị thổ giao ắt là khuê
圭
(hòn ngọc trên tròn như trời, dưới vuông như đất). Đó là dao
khuê cuả kim-đan vậy. Ly cung là 9, kiền hào là 9, ly chuyển
làm kiền, nên nói rằng cửu-chuyển. Trong khảm
+
có một hào dương, khí thượng thăng, luôn luôn quay về kiền
thể, nên nói rằng hoàn-dương. Thành kiền ắt dương hoàn,
dương hoàn ắt cửu-chuyển, cửu-chuyển ắt kim thuần, kim thuần
ắt âm-dương hợp nhất, hợp nhất ắt đan thành. Đan thành nơi
ly. Ly tại hậu-thiên là cửu tử (9 tím), nên nói rằng
cửu-chuyển hoàn dương-đan. Cửu-chuyển kim-đan, cửu-chuyển
tử-kim-đan, chủng chủng tỷ-dụ, chủng chủng danh-hiệu, tằng
kiến điệp-xuất, vạn biến bất cùng. Nên nay kẻ nghe thấy tai
ồn, kẻ thấy mắt sáng. Thiên kỳ, vạn phái, nghi điểm sinh
sôi, mà lô hoả, thái bổ, dọn đi mất, bề ngoài thổ-nạp làm
ngoại-đạo bàng-môn, do đó mà ra vậy. Há biết kim tức thiên,
thiên tức lý, khắc kỷ phục lễ, một lời tận hết. Ban đầu
tam-thánh lập-giáo, để tồn tâm dưỡng tính, minh-tâm
kiến-tính, tu tâm luyện-tính, bão-nguyên thủ-nhất, vạn-pháp
quy nhất, chấp trung quán nhất làm tiêu-chuẩn; lấy
thanh-tĩnh vô-vi, định-tĩnh vô-vi làm nhập-thủ, lấy từ-bi,
cảm-ứng, trung-tín làm công-phu; lấy tam-quy (quy-phật,
quy-pháp, quy-tăng), ngũ-giới (đừng sát-sanh, đừng trộm cắp,
đừng tà-dâm, đừng nói láo và đừng uống rượu), lục-độ,
vạn-hạnh, tam-hoa ngũ-khí, ngũ bách đại-giới, tam cương ngũ
thường, phi lễ chớ dòm, nghe, nói, là hành-trì; để tận-tính
trí-mệnh, quy-căn phục-mệnh, cũng làm như thế, làm cứu cánh.
Đại trung chí chính, tận thiện tận mỹ, không dám phóng-ngôn
cao-luận, tư-ý huy-hoắc, sợ hào ly vi-sai, lầm lẫn thiên-lý,
nên thân độ thanh-luật, quy-viên củ phương phạm–vi
thiên-điạ, sư biểu bách vương, trải vạn thế mà vô tệ-hại
vậy. Đạo từ kim-đan dựng lên, mạt-lưu đa nhập nơi
chấp-tượng; phật-tử truyền-thất cuả đốn-sát, mạt-lưu đa nhập
nơi ngoan không. Nho từ khi Khổng-Mạnh mất đi, Trình-Chu đã
giáng, hoc-giả họp nhau nơi ngôn-ngữ văn-tự. Nho họp nhau
nơi văn-tự, thường noi theo nhân-đạo. Thích-Lão chân thật,
khái vô túc quan. Đã vô chân-tu, nhỏ ắt lỗi di-luân, quá
đáng ắt tội trí-loạn. Đó không phải là lỗi cuả Lão-tử,
Thích-ca, bèn là hậu-thế học-giả kiểu uổng quá chính, thoát
lược luân-thường, thất-sách ở chỗ bỏ người cầu trời. Bởi
chưng Lão-tử phục-quan lịch-sĩ dưới triều Chu, chưa từng
tuyệt nhân mà vô-quân. Thích có phật-tử, thế-tập sinh Phật,
tăng nào di-luân mà không có cha? Khổng-tử làm Tư-khấu, ba
tháng mà bỏ Lỗ, Mạnh-tử dung khanh, không lâu mà bỏ Tề.
Nhan-Mẫn suốt đời không làm quan, không phải là thời quân
tước đoạt, tài-lực bất-xứng, biệt hữu sở vi, nên không vướng
viú vào lợi-lộc phú-quý vậy. Bởi chưng lấy lý vi đạo đại,
tuy là người không biết nói. Phật-Lão đều trai-giới,
trực-hạnh minh-ngôn. Khổng-tử tuy ngậm lại mà không lộ ra.
Phật-Lão chủ một đoàn, không sợ gì. Lão bèn là thần cuả
đại-hoá, không bị đời trói buộc, Khổng-tử ắt vô-vị,
vô-quyền. Xử-trí lhông phải chỗ cuả mình, nên mang
hình-tích, nguy hạnh, ngôn tốn, duy khúc cao hoà quả, đức tu
báng hưng vậy. Nếu không như thế, Hương-đảng một thiên, rượu
mua nem mua không ăn, không nấu chín không ăn, không phải
đúng nước tương không ăn, không đúng muà không ăn, không bỏ
ăn gừng. Ngoài ra, như Quý-khang-tử, Yên Khổng-tử
tường-thuật: Khổng-tử không có thịt không ăn, ăn chay tất
biến-thực. Đức Khổng-tử rất thận-trọng trong việc trai-giới,
chiến-trận và tật bệnh (Luận-ngữ VII/12). Người quân-tử
trai-giới để thân-minh chứng quán thửa đức. Không n hững
chế-giới ba ngày, tán-giới bẩy ngày, kỳ thực không ngày nào
là không trai-giới, bởi chưng ăn tanh ắt sát-sinh hại lý,
sai đức nhân dưỡng-âm. Ăn mặc ắt che lấp tính, u-mê trí,
thanh dương không thăng, thần minh không tới. Không giới ắt
tâm-trí tán-loạn, tình-dục tạp-đầu, tinh-thần thất-thủ, rơi
vào nơi ô-uế. Người hữu-tâm hội-ý, tam-giáo thánh-nhân ở đất
lạ ắt xử-sự như thế.
④
Đương thời tam-giáo phân-môn, trái nghịch nhau, xích mích
nhau, ai giữ ý nấy, không năng hợp-nhất, gặp nhau nơi con
người, không đạt nơi trời, mê quên căn-bản. Lão-tử bèn là
ông tổ truyền-đạo, sau khi đông-độ, Khổng-tử thành
chí-thánh, khuyết truyền lời than cuả rồng, tây-hoá hồ-vương
nghịch chân-kinh, cửa Hàm-quan hiện điềm lành tử-khí. Trâu
xanh đi về hướng tây, đạo truyền Thiên-trúc. Bạch-mã đông
lai, phật hưng chấn đán. Đạo Khổng-Mạnh có dựa vào Lão-Đam.
Cái học cuả Chu-Trình thực gốc ở Hi-di. Làm lại-quan,
Hoa-sơn đạo-sĩ, đều có ích cho Nho, không làm hại gì Nho. Cớ
sao từ Hàn-Dũ trở đi, lấy hủy Phật, tránh Lão làm chính-sự?
Từ Tân-an trở lại đây, lại đả-kích hai chân-nho Lục
(Tượng-Sơn)-Vương (Dương-Minh). Hàn-Dũ tránh Lão, mà cháu
ông là Hà-tương-tử cuối cùng thành lĩnh-tụ hoàng-quan. Đạo
thành trên trời, danh lưu dưới thế-gian; miếu-mạo thơm-tho,
đàn-bà con nít đều biết. Do đó mà quan-sát, nhiều thứ trốn
tránh ấy. Văn công, nhân-phẩm, vốn dĩ chính-đại, nhưng
Khổng-Mạnh đường-áo, sai một ly, nguyên-đạo luận học, không
nói cách-trí, nhập thủ đã sai, các điều khác có thể suy ra
được. Công-nghiệp văn-chương rất ư là khả-quan, tính-mệnh
thiên-đạo chưa thể nghị-luận được. Cái học cuả Chu-Lục,
trước nghịch sau hợp. Học-nghiệp cuả Dương-Minh cuối cùng
không ma-diệt được. Mà luận dị-đồng, đến nay chưa xong, do
môn-hộ thiên lệch vậy. Hà-đồ, Lạc-thư, một thuận, một
nghịch. Hà-đồ thuận-hành tương-sinh, một thể vạn hình-thù,
do thể nhập dụng. Lạc-thư nghịch-hành tương-khắc, vạn
hình-thù một thể, toát dụng quy thể. Hà-đồ lấy 7, 8, 9, 6
làm tứ-tượng. 7 là thiếu-dương, 8 là thiếu-âm. 7 là ba quẻ
chấn-khảm-cấn, đều là 1 hào dương, 2 hào âm. Dương ắt lẻ
tròn, chu-vi 3, 3 dùng thửa toàn. Âm ắt chẵn vuông chu-vi
4, 4 dùng phân nửa, 3 dùng nguyên. 1 dương là vua, được số
3. 4 dùng phân nửa, 2 âm là dân, được số 4. 3 + 4 = 7. Ba
nam-quái đều 7, nên nói là thiếu-dương. 8 là ba quẻ
tốn-ly-đoài, đều là 2 hào dương, 1 hào âm. Hai hào dương
được số 6, một hào âm được số 2. 6 + 2 = 8. Ba quẻ nữ đều 8,
nên nói là thiếu-âm. Sáu quẻ con đều thiếu, là nói tương-đối
với hai quẻ phu-mẫu kiền-khôn nhị-lão vậy. Kiền phụ thuần
dương, 3 x 3 = 9, nên nói là lão-dương dụng cửu. Khôn mẫu
thuần âm, 2 x 3 = 6, nên nói là lão-âm dụng lục. Lão biến mà
thiếu không biến, là vì vật cực ắt phản. Dương cực ắt biến
thành âm, âm cực ắt biến thành dương. Kiền dụng cửu, ắt biến
thành 8. Kiền hạ giao khôn, hư mà thành ly vậy. Khôn dụng
lục ắt biến thành 7. Khôn thừa kiền mà biến ra khảm. Lấy lý
mà nói, ắt kiền dương thuận tiến, do thể nhập dụng, nên kiền
dùng ly hậu-thiên, ly số 9 vậy. Khôn âm nghịch thoái, do
dùng phản-thể, nên khôn dùng khảm tiên-thiên, khảm số 6 vậy.
Khảm vốn trung-nam, khảm là mặt trăng, hiệu là thái-âm. Ly
vốn trung-nữ, ly là mặt trời,mà mặt trời là thái-dương. Đó
là nghiã cuả âm-dương hỗ-căn vậy. Trong dương ngậm âm,
ngoại-tượng là dương. Trong âm ngậm dương, ngoại-tượng là
âm. Hà-đồ tích cuả thiên-số là 25, tích cuả điạ-số là 30.
Tích-số cuả thiên-điạ là 55, trừ 5 không dùng, chỉ dùng
49.**** 5 là dụng cuả thái-cực. 1 là thể cuả thái-cực. 49 =
7 x 7 là tích-số vậy. Dương đến 7 ắt biến ra âm, âm đến 7 ắt
dương phục. 6 ắt biến cơ chưa đến, 8 ắt biến-cơ đã qua. Đó
là cơ-hội biến-hoá cuả Dịch vậy. Nên thiệt-thi dùng số 7 x 7
= 49. Hà-đồ là đất, đất trọng trọc. Lạc-thư là trời, trời
khinh-thanh. Trọng-trọc ắt số nhiều, khinh-thanh ắt số ít.
Tích-số cuả Lạc-thư là 45, thành-số cuả thiểu-thổ nên
khinh-thanh mà biến-dịch chú hành
注行
không ngừng. Tích-số cuả Hà-đồ là 55, thành-số cuả đa-thổ,
nên trọng-trọc, mà giản-hậu bất-thiên. Thiên vốn là dương,
số dương lấy 5 làm trung. Thiên-khí có thăng, có giáng,
thăng ắt là dương, dương-số 5: giáp, bính, mậu, canh, nhâm;
giáng ắt là âm, âm-số 5: ất, đinh, kỷ, tân, quý. Điạ vốn là
âm, âm-số lấy 5 làm trung. Điạ có đối-đãi từ tý đến tỵ là
nội, từ ngọ đến hợi là ngoại. Thổ nhị cuả thiên-can, thổ tứ
cuả điạ-chi, đều là thổ nhiều vậy. Nên trời lấy khí làm thể,
mà đất lấy thổ làm thể. Trời lấy 5 làm dụng, nên ngũ-âm tam
phân tổn-ích mà tượng thiên. Điạ lấy 6 làm dụng, nên
lục-luật cách bát tương-sinh mà pháp-điạ. Cổ-nhân hoạ tỉnh
phân cương, kiến bang thiết đô, bố binh bài trận, hạ trại an
doanh, cơ chính biến-hoá, tất gốc tại Lạc-thư. Học-giả thấy
cổ-nhân hoạ tỉnh phân cương, bắt rễ từ Lạc-thư, thường lấy
Lạc-thư làm điạ-bàn, mà không biết là dụng tuy tại điạ, kỳ
thực pháp thiên vậy. Nên niên bạch, nguyệt bạch, nhật bạch,
thời bạch, cửu vị chuyển-vận, cát hung tương-thác, lớn nhỏ
xen kẽ, nên đạt được nguồn cuả Lạc-thư, ắt tích thiên-thời.
Đạt nơi nguồn cuả Hà-đồ, ắt biết điạ-lợi. Đạt nơi thiên-lý,
điạ-lý, tính-lý, tam lý nguồn cuả nhất bản, ắt đuợc
nhân-hoà. Đạt nơi khí, không đạt nơi lý, gọi đấy là thiên
lệch. Đạt nơi lý, không đạt nơi khí gọi đó là tố (nguyên
chất). Đạt nguồn cuả lý, minh-dụng cuả khí, tân điạ-lợi, là
đạo nội-thánh ngoại-vương, đại- trung chí-chính. Vi cuả lý,
tận-tính chí-mệnh, hiển cuả lý, tam-cương, ngũ-thường, trải
vạn-cổ mà bất-dịch. Ẩn cuả khí, vận-hội thăng giáng; hiển
cuả khí, thế-đạo biến-thiên, dương nhân thời mà chế-nghi.
⑤
Nhật-nguyệt-tinh-thần tốt đẹp nơi trời. Bách cốc thảo mộc
tốt đẹp nơi đất, tức tốt đẹp nơi thổ vậy. Thanh-khí là trời,
thổ cũng là đất, tốt mà không hư vậy. Con người chỉ biết
bách cốc thảo mộc đẹp nơi đất, mà không biết đất tức là một
vật trong trời. Hoàng-đế hỏi Kỳ-Bá: "Đất là một vật trong
trời, cũng có chỗ dựa sao?". Kỳ-Bá đáp: "Đại-khí nâng lên".
Quỷ xúi mới biết trên đất có trời, mà không biết dưới đất
cũng có trời. Kỳ-Bá nói: bốn phiá bên ngoài đất là trời.
Chưa từng nói đến bốn phiá ngoài trời cũng là trời vậy. Bốn
phiá ngoài trời cũng là trời, duy Thái-thượng Lão-tử bất
nhất nói đến. Thanh-tịnh Kinh nói: "Đại-đạo vô-hình sinh dục
trời đất". Đạo-đức Kinh nói: "Vô-danh là chỗ bắt đầu cuả
trời đất". Bản-hành Tập-Kinh nói: "Tên cửu-thiên gọi là
di-la (di = xa xôi, là = bao la), trời trên trời, là thượng
cực vô-thượng". Đó luôn luôn là chỗ sâu kín cuả Đại-đạo,
uyên-áo cuả chí-lý. Thượng thiên cấm-bí, không được
võng-truyền. Quý mà kính đấy, không ai là không bảo cho.
Không gì không quán gọi là di, không gì không bao gọi là la.
Đại-khí nâng đất, đạik-đạo sinh trời.
Kẻ sĩ tục-học, phần đông có thể biết, có thể thấy
làm sự-nghiệp, mà không biết sự-nghiệp cuả thánh thần vưọt
qua tri-kiến cuả phàm-dung, như Trung-Dung nói: "Quỷ thần mà
hiểu rõ, thử hỏi cái thành thật ở trong con người ta làm sao
mà che giấu đuợc!" (Trung-dung, Chương XVI). Thánh-nhân
tam-giáo, vạn thế sư biểu, bách vương mô-phạm, trở đậu
hinh-hương, lâu dài mà di-tân. Nho do chí-thiện định tĩnh,
không dòm, không nghe, đạt trời vô-xú vô-thanh mà thành
thánh; đạo do thanh-tĩnh vô-vi, tịch-đàm xung hư mà thành
tiên. Thích do giáng-phục lòng mình, tịch-diệt chân không mà
thành Phật. Nhân kỳ bất nhập chấp tượng, nên khôn rơi vào
ngfoan không. Không trung bất không, là vì diệu hữu, Diệu ắt
thần minh bất trắc, hữu ắt thể vật bất di
不遗.
Cổ nhân đức tu báng hưng
谤兴,
đạo cao hủy lai, khúc cao hoà quả
和寡,
cử thế chẳng dung, bất hối bất ôn, tử-sinh lấy đấy, là cớ vì
đạo vậy. Vua Văn ở tù Dữu-lý, Khổng-tử bị nguy ở nước Trần,
nước Sái, cái học cuả Trình-tử rong ruổi nơi Sái-kinh, cái
học cuả Chu-tử bị đuổi ra nơi Đà-vị. Một là tục-nhãn biết,
thấy ít, cho là kỳ-quái nhiều; hai là tinh kim chờ luyện,
động tâm nhẫn tính, phân sở dĩ nhiên. Thứ nữa như âm-dương
bình-loạn, hữu công không thưởng, tiêu-tự đàm thiền, bên
trong dường như vô-sự, vị đời nhạt nhẽo vậy. Nguyên-Định
phụ-tá Chu, vô tội bị đuổi, kiềm-chế truyền-đạo, hoạ loạn
không tránh, thấy lý chân vậy. Như Bản-triềuThế-tổ
Chương-hoàng-đế, Thế-tông Hiến-hoàng-đế đều thâm thám
lý-quật, nghiệp-khế đạo-điệu, đạo với quyền hợp vậy. Như thế
chính-trị cuả thánh-nhân có thể minh-hành, đạo cuả
thánh-nhân chưa dám hiển-truyền, một là sợ thần dân khó biết
hết cả, biến canh bất dịch; hai là lý vi đạo đại, kỳ-lộ dễ
sinh, võng-phó lưu độc, dễ phóng ra, khó thâu vào, trí lệnh
tư man, sở dĩ Thế-tông viết ra ngữ-lục để tỏ chí mình.
Thế-tổ bỏ giang-sơn như giầy cũ, hữu đạo vô-quyền,
nhưuy hai thánh-thượng không năng lấy vi cuả đạo ấy, biến dụ thần–dân, huống hồ
người dưới thì phải làm
sao? Ô hô! Đời đại-đồng đã qua, giang-hà nhật hạ, tập nhiễm
đã thêm, không thể
làm gì được. Làm ra sách Đại-học gốc ở Nghiêu-điển, nên lấy
minh-đức nhập thủ,
thửa thứ-tự tu-tề-trị-bình, tức khắc làm sáng tiến-đức để
thân cửu-tộc, cửu-tộc đã
thân-thiết; bình chương trăm họ chiêu-minh; hiệp hoà vạn
bang, lê dân nơi biên-thùy hoà nhã. Thửa định-tĩnh an-ngược, bèn phát-huy sâu kín
cuả văn-tứ an-an.
Thửa cách vật trí tri, bèn biểu-chương nghiã cuả cách nơi
trên dưới. Cảm-cách, cách-trừ, cách-chí, ba nghiã kiêm đủ. Mà nghiã cuả cách-chí
trong Nghiêu-điển được
nhiều, thửa bản-mạt, tiên-hậu, thủy-chung, tức minh-đức chí
vu vu biên chi tự vậy.
Nghiêu-điển mệnh Hi, Mệnh Hoà vu vu liên chi hậu, tận nhân
hợp thiên vậy. Đại-học
nói về nhân-sự, mà thiên-sự chưa từng nói đến, ai giữ phận
nấy, lời không vượt
ngoài chức-phận. Trời cuả thiên-lý, học-giả chính-vụ. Trời
cuả thiên-thời, còn nơi
hữu-ty vậy. Làm ra sách Trung-dung gốc nơi truyền-tâm cuả
Ngu-Diên. Thang-Cáo
nói về tính, nhân-tâm, đạo-tâm, thiên–đạo, nhân-đạo vậy.
Duy-nguy, duy-vi, hiển-vi
phí-ẩn vậy. Không thiên lệch gọi là trung, vững tin gọi là
dung. Trung là thể cuả đạo,
dung là dụng cuả đạo. Vững tin theo đạo Trung-dung là dùng
thửa trung vậy. Duy
hoàng giáng trung, nếu có hằng-tính, thiên-mệnh gọi là tính
vậy. Duy tinh, duy nhất,
doãn chấp quyết trung. Suất tính gọi là đạo vậy. Thưa lời
không ngó, không dương,
vô thanh vô xú, dương dương như tại, thể-vật bất di, đều
phát-huy chân-thể cuả
duy-hoàng. Thửa lời tam đạt-đức, ngũ đạt đạo, cửu kinh tam
trọng, vị dục tham tán,
bèn cực suy đại-dụng cuả giáng-trung. Thửa nói đức tính
học-vấn, quảng-đại tinh-vi
các sự, bèn phân tính hai mối thiên-đạo, nhân-đạo, thi-hành
đại-quyền cuả 'doãn
chấp quyết trung'. Không là ẩn-quái, đoan nhập cửa cuả đức,
không bỏ cuộc giữa
đường, đến như độn thế không ai biết đến mình cũng không hối
tiếc, ắt vui với trời
và biết mệnh trời. Người quân-tử, không nhập nào mà không
tự-đắc. Không tránh
cạm bẫy, trí không phải là chân-trí. Không biết thực-vị, ngu
thật là ngu. Đạo ấy sở
dĩ không dễ hiểu rõ, không dễ thi-hành. Ăn để dưỡng-âm, uống
để dưỡng, chất cuả
đồ ăn thức uống gốc ở đất, có hình dễ thấy. Vị cuả đồ ăn
thức uống gốc ở trời, vô
hình khó dòm. Vị cuả ẩm-thực nằm trong ẩm-thực, đạt bên
ngoài âm-thực. Không
trung thực-tượng, trông tựa đạo, nên lấy làm tỷ-dụ. Phép
cách-vật, có yếu-đạo.
Trước cách lý cuả vô-cực, cùng đại-nguyên cuả trời đất. Thứ
đến cách khí cuả thái-cực, nghiên-cứu cha mẹ cuả vạn-vật; thứ nữa, cách tượng cuả
lưỡng-nghi, phân-biệt do lai cuả động-tĩnh. Lý cuả vô-cực hình tượng đều
không thanh-xú, đều thanh-xú tiêu-diệt, là bản thủy cuả trời đất, đại-nguyên cuả
tính-mệnh, có thể hội-ý, khó
tìm tông-tích, vô thủy vô chung. Tĩnh mà năng ứng, vô-tư vô
vi, hữu cảm tất thông.
Nếu không thăng đường nhập-thất, mặc khế thần-hoá, chưa thể
cùng nhau nghị-luận.
Cách khíanh xú xú thái-cực, tuy vô hình-tượng mà năng hình
hình tượng tượng. Tuy
vô thanh vô xú mà thanh thanh xú xú. Thửa thủy vậy, vạn-vật
đuổi theo nó mà hữu
thủy. Thửa chung vậy, vạn-vật đuổi theo nó mà phản chung.
Khí thái-cực, dương
thanh, âm trọc. Thanh khí thành đại-khối cuả hình mà là
trời, trời bao bên ngoài
đất, tải tinh-tú, nhật-nguyệt mà vận-nành không ngừng. Trọc
khí thành đại-khối cuả
hình mà là đất, đất ở trong trời, tải sơn xuyên động-thực
mà dầy nặng không đổi.
Trời lấy khí sinh muôn vật, khí lấy thăng-giáng phân
âm-dương. Thăng ắt tốt lành và
và ấm, giáng ắt tốt lành và lạnh. Sơ thăng mà ấm-áp là xuân,
thăng cực mà nóng
là hạ, sơ thăng mà mát là thu, cực thăng mà lạnh ắt là đông.
Xuân, hạ, thu, đông
giao cung quá độ, trong khoảng tứ-ngung, ngũ-hàn là tứ-quý.
Đất lấy thổ tải muôn
vật, lấy nam-bắc phân âm-dương. Phương nam nóng nhiều,
phương bắc lạnh nhiều,
phương đông ấm nhiều, phương tây mát nhiều. Tứ-ngung tức là
tứ-quý cuả trời.
Lạnh ắt thuộc thủy, nóng ắt thuộc hoả, ấm ắt thuộc mộc, mát
ắt thuộc kim, mà
trong khoảng tứ-quý khí thuộc thổ. Khí âm-dương ngũ-hành
sinh thành vật. Đại-khái
tần-khí-chất thửa thành hình có năm loại: vũ (loài chim),
mao (thú vật), lân có vẩy
(cá mú), giáp có mai (loài ruà, ba ba), loã (người ta). Mà
loại hoá sinh là dư-khí,
hợp lại thành sáu. Chạy nhẩy là động-vật, có hình, có thần
buộc vào trời, thửa gốc
thuộc trên, lấy thần-khí-chất hợp mà sinh. Thần vốn
nhất-trí, khí có vạn-thù, đại-cương có năm loại là: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Bẩm kim mà
sinh gọi là giáp-trùng, ngoài cứng trong mềm, loại-tộc có 360 loại, mà ruà là
trưởng. Bẩm mộc-khí
mà sinh là mao-trùng. Ngoài mềm trong cứng, tộc có 360 thứ,
mà lân là trưởng.
Bẩm thủy-khí mà sinh là lân-trùng, thường tiềm mà năng bơi
lội, thủy tính mà
nhuận-hạ vậy. Thửa tộc có 360 thứ, mà rồng là trưởng. Bẩm
hoả-khí mà sinh là
vũ-trùng, thường ở trên cao mà biết bay, hoả tính viêm
thượng vậy. Thửa tộc có
360 thứ, mà phượng là trưởng. Bẩm thổ-khí mà sinh, kiêm toàn
cuả kim-mộc-thủy-hoả mà sinh, là khoả-trùng. Không cậy vào vũ, mao, lân,
giáp, bị lấy y-quan mà cư
cung-thất, lấy tứ-linh (long, lân/ly, quy, phượng), làm
súc, thửa tộc có có 360 thứ,
mà thánh-nhân là trưởng. Kim thuần chủ nghiã, nên thần-quy
dùng để bói, mà dự
cáo cát hung. Mộc thuần ắt nhân, nên lân không thương sinh,
là điềm lành cuả thánh
hiền. Thủy thuần chủ trí, nên thần long biến-hoá, lưỡng-tại
mạc trắc. Hoả thuần ắt
văn-minh mà có lễ, nên phương toàn ngũ-sắc, ưng-hành có
trật-tự mà thửa phối-ngẫu không loạn. Thổ thuần ắt thống tứ-đoan, kiêm vạn-thiện.
Âm cuả vũ-trùng
thanh cao gần chủy. Âm cuả mao-trùng, dài thẳng gần giốc. Âm
cuả giáp-trùng, thu-liễm gần thương. Âm cuả lân-trùng, thấp xuống gần vũ.Mà
cong người ắt thông
ngũ-âm, đạt nơi lục-luật. Thửa hình ắt kim ngắn, mộc dài,
hoả nhọn, thủy cong, thổ
ắt lấy tròn làm đầu. Thửa khí thuần ắt mỗi mỗi giống thửa
hình, mà tạp nơi thiên
lệch, ắt vạn-hữu bất tề vậy. Phàm cửu-khiếu ắt hình giao mà
sinh thai. Bát khiếu ắt
khí giao mà sinh trứng. Tộc mộc-hoả thường ở trên bộ. Tộc
kim-thủy thường ngâm
dưới vực sâu. Phân làm dương thăng âm giáng vậy. Tiên-hạc
duỡng thần, biết linh
cuả mộc hoả; thần quy điều-tức, được tinh-hoa cuả kim-thủy.
Nên một mặt thông
thần, một mặt vũ-hoá. Thiên-khí giáp một vòng 365 ¼ độ cổ,
lại có kinh-tinh cuả
nhị-thập-bát tú, tuy độ cuả thửa quản, có ít nhiều bất-đồng,
phàm khí cuả mỗ tú,
mỗ độ, thửa hình tính giống mỗ tú. Lấy âm-dương suy-vượng,
thuần-bác, tinh-tú cát
hung, mà phân quý-tiện, đại-tiểu, trí-ngu, hiền dữ,
thư-hùng, yểu thọ khác nhau.
Điều ấy dẫn mà thân đấy, khuyếch mà sung đấy, xúc loại mà
trưởng đấy, động-vật
tuy nhiều, khả dĩ theo đó mà biến cách vậy.
⑥
Đất lấy ngũ-chất tải muôn vật, đợi thiên-khí mà sinh sau.
Chất trọc thuộc
Tĩnh, tĩnh ắt thực-vật rễ sinh nơi đất. Lấy sinh-trưởng làm
động, lấy bất năng tự-động làm tĩnh. Núi sinh-sản ngũ kim thảo-mộc, là tĩnh ở
trong tĩnh. Lấy xương để
tượng điạ. Nước sinh nơi núi mà nhuận thảo-mộc, là động ở
trong tĩnh. Lấy máu để
tượng điạ, Vẻ đẹp cuả thảo-mộc thành hình, mà người năng ăn
là ngũ-cốc, rằng: rễ,
bông luá, sừng, rây bò dài dưới đất, dây treo. Phàm rễ, lá,
hoa, quả, cành, thân cuả
ngũ-cốc, sắc xanh vị chua, hình thẳng mà dài, gốc mộc khí
cuả xuân mà sinh, con
người ăn nó ắt nhập gan mật mà sinh gân. Sắc vàng, vị ngọt,
hình tròn triạ, gốc thổ
cuả tứ-quý mà sinh, con người ăn nó ắt nhập hai kinh tì-vị
mà sinh thịt. Sắc đỏ vị
cay, hình nhọn, gốc hoả-khí cuả hạ mà sinh, con người ăn nó
ắt nhập tâm-kinh, tiểu-trường-kinh mà sinh máu. Sắc trắng, vị đắng, hình ngắn, gốc
ở kim-khí cuả thu mà
sinh, nhập phế-kinh, đại-trường-kinh mà sinh khí. Sắc đen,
vị mặn, hình khúc-khuỷu,
vốn thuỷ-khí cuả đông mà sinh, nhập thận-kinh,
bàng-quang-kinh cuả đông mà sinh
cốt. Nhẹ mà vị nhạt là thuộc dương nhập khí-phân mà
thượng-thăng. Nặng mà vị
đậm-đà là thuộc âm, nhập huyết-phân mà hạ-giáng. Phàm
thực-vật lấy khí-chất hợp
mà có sinh, vô-thần nên vô-tri, mà rễ sinh nơi đất. Trong
khoảng trời đất muôn vật
tuy nhiều, không ra ngoài động-vật, thực-vật; động-thực-vật
tuy nhiều, không ra
ngoài ngũ-hành; ngũ-hành tuy nhiều, không dời khỏi âm-dương;
âm-dương gốc ở
thái-cực, thái-cực gốc ở vô-cực. Lý cuả vô-cực gốc ở
vô-hình, long-mã xuất, Hà hiện
Đồ, mượn loài cuả trời đất sinh-thành để hình-dung ra.
Thái-cực gốc ở vô-tượng,
thần-quy xuất Lạc, vác một loại khí lưu-hành để tượng-trưng,
ở đó Hi-Hoàng hội, số
cuả trời đất bắt rễ từ tĩnh-thể cuà Hà-đồ đối-đãi, hoạ tượng
cuả tiên-thiên bát-quái.
Văn-Vương hội vào số cuả một khí lưu-hành, đổi tĩnh-thể cuả
tiên-thiên thành động-dụng cuả hậu-thiên. Lúc Dịch chưa được vẽ ra, Dịch tại trời
đất. Sau khi Dịch được vẽ
ra, trời đất tại Dịch. Hà-Lạc nói khí hiện ra trong
thực-tượng cuả không trung. Linh-Luân nhân đó làm ra nhạc. Hà-đồ thiên nhất, Lạc-thư lý nhất.
Thiên nhất là tông cuả
ngũ-hành, lý nhất bèn là khởi thủy cuả nhất dương. Nên
ngũ-âm, lục-luật, độ-lượng-hoành (đo, lường, cân) từ đó mà dựng mối đầu. 1 là lẻ vậy,
lẻ tròn, chu vi 3, 3 x 3 =
9, 9 x 9 = 81 ty là dây đàn cuả hoàng-chung, do đó tam phân
tổn ích. Đến số 64,
tam-phân bất-tận, nên âm dừng ở số 5. Lẻ tròn chu vi 3, nên
luật quản cuả hoàng-chung, đuờng kính ba phân, 3 x 3 = 9, nên dài 9 tấc, do đó
mà cách bát tương-sinh,
mà âm bắt đầu có 8 (bát-âm), luật quản cuả hoàng-chung, chúa
được 1200 hạt luá
nếp đen hay hạt luá muà, nặng 12 thù (= 1/24 lạng), la tượng
cuả 12 tháng vậy. 24
thù là 1 lạng, là tượng cuả 24 tiết-khí vậy. 16 lạng là 1
cân, hợp thành 384 thù, tức
là tượng cuả 384 hào, cuả cuả 64 quẻ, vậy. Do đó nhân bề
rộng cuả cự-thử
秬黍,
tức
phân ra tấc mà sinh độ, nhân dùng khí-cụ cuả cự-thử,
tích-hợp làm thăng, mà chủ
lượng. Biết điều đó có thể biến cách luật độ-lượng-hoành
vậy. Hi-Hoàng vẽ quẻ, để
nêu rõ vật tượng trong trời đất. Hoàng-đế nhân đó mà sáng
chế ra y-quan, trị cung-thất, tạo khí mãnh để làm thuận-lợi cho việc dùng cuả dân.
Ngôi trời ở trên, ngôi đất
ở dưới, mà lễ cuả tôn-ti sinh ra. Kiền xưng là cha, khôn
xưng là mẹ, mà lễ trong họ-mạc sinh ra. Tam-thiếu là nam, mà lễ trong anh em sinh ra.
Tam-thiếu là nữ, mà lễ
trong chị em sinh ra, 3 nam, 3 nữ phối-ngẫu mà hôn-lễ sinh
ra. Đồng thanh tương-ứng, đồng khí tương cầu mà lễ thù-tạc sinh ra. Từ thiếu đến
tráng sinh lễ quan-hôn.
Từ lão đến tử sinh lễ tang-tế. Dẫn thân xúc loại, mà 3300 lễ
có thể suy ra. Gần lấy
nơi thân mình, 64 quẻ sinh nơi cấn-đoài, đại-bản nơi trời
384 hào, không dời khỏi lẻ
chẵn. Bởi chưng do thiếu-nam mà làm trung-nam, do trung-nam
mà làm trưởng-nam, trưởng-nam mà làm lão-phụ, bốn quẻ đều do một quẻ biến
ra vậy. Do thiếu-nữ
mà làm trung-nữ, do trung-nữ mà làm trưởng-nữ, do trưởng-nữ
mà làm lão-mẫu,
bốn quẻ cùng do một quẻ biến ra vậy. Một dương sinh ra từ
quẻ Phục cuả đông-chí,
mà 192 dương-hào đều từ đó mà dựng mối đầu. Một âm sinh ra
từ quẻ Cấu cuả hạ-chí, mà 192 âm-hào đều từ đó mà dựa mối đầu (thác thủy).
Lạc-thư lưu-hành cuả
khí-thiên, sinh-tử cát hung cuả muôn vật đều do nơi khí, nên
hiển cuả nhân-sự, hết
thẩy đều gốc nơi khí.
Bậc vương-giả đặt ra phép-tắc, thượng-nhân lấy đó mà trị
lịch minh thời, hạ-nhân
lấy đó mà vẽ giếng phân cương. Cửu-trù là đại-pháp cuả
bách-sinh, bát-trận là
thông-dụng cuả cửu-phạt. Vu-Mục
于穆hiện
đạo vô-hình nơi Lạc-thư, Hà-đồ, mượn
số để hiện đạo vậy. Hi-Hoàng lấy tượng cuả Hà-Lạc từ
tiên-thiên, hậu-thiên, mượn
tượng để hiển số. Hoàng-đế nhân Hà-Lạc quái-tượng để chế lễ,
tác vinh. Phong-Hậu
风后nhân
cửu-cung mà trị cơ-nghi. Thương-Hiệt
仓颉
căn-cứ vào quái-tượng mà diễn
ra lục-thư. Lệ-Thủ
隸首
căn-cứ vào Hà-Lạc mà làm ra toán-số. Kỳ-Bá
岐伯
ắt tham-bác Hà-Lạc quái-tượng, nghiên-cứu thiên-dụng cuả lhý-khí mà
sáng-chế ra y. Quảng-thành-tử
广成子,
tác-giả ủy-nhiệm cuả Âm-phù-kinh, ắt siêu-thăng Hà-lạc quái-tượng, hoàn đại-nguyên cuả lý-khí để truyền đạo, hợp lý-khí
hiển-vi mà suy đến
nhân-sự, trị-độ đại-lược, phong-khí tiềm-khai, điều ấy do
hoàng nhập thế-giới cuả đế
vậy. Chấp tay mà xá, nhường nhịn xuất từ Đường-Ngu,
thịnh-thời cuả đạo, chinh-phạt tru-diệt khởi từ Tam-đại, đạo từ từ suy vậy. Như thế,
Nhà Hạ ắt chuộng trung,
gốc nơi tâm. Nhà Thương ắt chuộng chất, chưa dời khỏi con
người. Nhà Chu chuộngvăn, ắt vật-tượng tùng-sự, mà cái học thân-tâm dần dần u-tối
vậy. Điều ấy là do
thế-giới Đế nhập Vương vậy. Đến Tề-Hoàn, Tấn-Văn, ắt giả tá
thửa sự, mà tham-bác
để trá-lực, điều ấy là do thế-giới Vương nhập Bá vậy. Do
hoàng nhập đế gọi là
Nguyên. Do Đế nhập Vương gọi là Hanh. Do Vương nhập Bá gọi
là Lợi. Xuống đến đời
Khổng-Mạnh, đạo gửi vào sư-nho. Tổ-thuật hiến-chương,
hiệu-thiên, pháp-điạ, là
chung cuả Trinh. Tức thủy cuả Nguyên, nên Khổng-tử là
Tố-vương thời suy Chu,
Mạnh-tử là công-thần cuả Tố-vương.
THƯ TỊCH KHẢO
290
Trung-Dung, Khổng-Cấp nguyên-tác, Chu-Hi tập-chú, Bản
Việt-dịch của Cụ Cử Hồng-liên Lê-Xuân-Giáo, Trung-tâm
Học-liệu Bộ Giáo-dục, Sài-gòn, 1972.
310
Lão-tử Đạo-Đức-Kinh, Hạo-nhiên Nghiêm-Toản Thiệu-văn-thị
dịch-thuật, Khai-Trí, Sài-gòn, 1969.
321
Giản Bạch Ngũ-Hành Giải-Hỗ
簡帛五行解詁,
Sơ-bản, Lưu Tín-Phương
劉信芳
soạn, Nghệ-văn Ấn-thư-quán, Đài-bắc, tháng 12-2000.
446
Trung-Hoa Ngũ Thiên Niên Khoa-Học Kinh-Điển
中華五千年經典,
2 Sách, Đệ-nhất-bản, Dương-Lực
楊力
trước, Bắc-Kinh Khoa-Học Kỹ-Thuật Xuất-bản-xã, Tháng 3-2001.
480
Chu-Dịch Cơ-sở
周易基礎,
Nhất-bản, Dương Duy-Tăng
楊維增
& Hà Khiết-Băng
何潔冰
trước, Hoa-thành Xuất-bản-xã, Quảng-châu,
Tháng 7-1994.
481
Bạch-thoại Đồ-thuyết Dịch-Kinh Triết-học
白話圖說易經哲學,
Hoàng Bản-Anh
黃本英
trước, Đại-phương Văn-hoá Sự-nghiệp Công-ty, Hương-cảng,
không đề năm.
482
Dịch-sự Lý-học Tự-luận
易事理學序論,
Lưu Bách-Mẫn
劉百閩
trước, Đài-loan Viễn-đông Đồ-thư Công-ty,
Tháng 5-1965.
483
Dịch-Kinh Biến-hoá Nguyên-lý
易經變化原理,
Đệ-nhất Bản, Đường-Hoa
唐華
trước, Thượng-hải Xã-hội-Khoa-học Viện Xuất-bản-xã,
Tháng 12-1993.
488
Thái-Công Âm-phù-Kinh
太公陰符經,
Chu
●
Lã-Thượng
呂尚
soạn, Hán
●
Trương-Lương
張 良chú,
in Chính-Thống Mưu-Lược Học Vựng-Biên
正統謀略學彙編,
Tập 6, Nam-Hoài-Cẩn
南懷瑾
chủ-biên,
Lão cổ Văn-hoá Sự-nghiệp Công-ty, Đài-bắc, 1978.
489
Yin Fu King 2nd Edition, Published by The Shrine
of Wisdom, Fintry, Brook, near Godalming, Surrey, 1960.
*
* *
Xem
Kỳ 199
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|