www.ninh-hoa.com



 

Trở về d_bb  ĐHKH

 

Trở về Trang Tác Giả

 

Hán Việt Dịch S Lược 

Giáo Sư
Nguyễn Hữu Quang

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trở về Trang Tác Giả

 

Main Menu

 
 


HÁN VIỆT DỊCH S LƯỢC

GS Nguyễn Hữu Quang

Nguyên Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975

 

 

 

CHƯƠNG 24

 

DỊCH - DỤNG

 



 

 (Tiếp theo Kỳ 194)       

 

Chu-Dịch Tham-Đồng-Khế

周 易

 

IV Chu-Dịch Tham-Đồng-Khế và

Khí-công Trung-quốc1229

       'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' là thủy-tổ cuả đan-kinh, cũng là kinh-điển cuả khí-công, sách này là chuyên-thư cuả đạo-gia ứng-dụng dịch-lư để hướng-dẫn tu-luyện nội-đan. Trong sách, áp-dụng nguyên-lư 64 quẻ để nắm vững luyện đan hoả-hậu, sau được các khí-công-gia lấy làm khuôn-phép, là một bửu-điển trân-quư cuả niếp-sinh-học dùng Dịch-lư.

Nội-dung chính-yếu cuả Chu-Dịch Tham-Đồng-Khế

          'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' là đan-thư do Ngụy Bá-Dương đời Hậu-Hán viết, rất có ảnh-hưởng đối với Trung-y Khí-công, mạch-học, châm-cứu, vận-khí-học, Nội-dung chính-yếu sách này là danh-thích hào-tượng cuả Chu-Dịch, thự sự là sách luận tác đan, là thủy-tổ cua đan-kinh. Thửa luận đan lại chia làm hai phần: nội-đan và ngoại-đan. Cái gọi là ngoại-đan là chỉ luyện ngoại-đan, tức lấy khoáng-chất nào đó, đặt vào ḷ dung-luyện, ngơ hầu năng đạt được mục-đích trường-thọ, mà nội-đan  ắt chỉ tu-luyện 'khí-công'.

            'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' dẫn-dụng lư-luận cuả Chu-Dịch để xiển-thuật khí-công. Tác-giả sách này thuộc học-phái đạo-gia, nhân đó có tham-nhập quan-niệm đạo-gia, là một sách tập-hợp Dịch-lư với đan-kinh điển-tịch cuả học-phái đạo-gia. Là tư-liệu tham-khảo tất yếu khi nghiên-cứu Trung-y khí-công.

          Về mặt luyện ngoại-đan, 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' đề ra hai loại lớn là 'dược-vật' và 'hoả-hậu'. 'Dược-vật' chỉ một loại khoáng-chất hoặc giới-thạch nào đó để, có thể dă-luyện dược-vật, hoả-hậu ám-chỉ lúc dược-vật biến-chất tối-giai, thái dược cũng xưng là trúc-cơ, là một bước luyện-đan, 'tiến-hoả', 'tiến dương hoả-hậu', thoái âm phù hậu' là kỹ-thuật nắm vững luyện đan hoả-hậu. 'Tham-đồng-khế' ghi chép thiết-trí luyện-đan, phương-pháp cụ-thể cùng là các sự-kiện cần chú-ư, như đỉnh-khí-ca trong sách, tức đem ghi lại h́nh-trạng, kích-thước các đan-đỉnh luyện-đan, một cách rơ-ràng, như đỉnh-khí ca nói: "Tṛn 3-5, tấc một phân, miệng 4-8, vành môt tấc, dài hai thước, dầy mỏng đều, bụng tam-tề, toạ thùy ôn". Đó là một kư-thác cuả đạo-gia, trước đời Tống một thời hưng-thịnh, hy-vọng lấy phục-thạch, kim-đan năng dưỡng sinh trường-thọ.

          Luyện-đan đương nhiên không thể đạt được mục-đích dưỡng-sinh, nhưng khách-quan mà nói, nhất-định tích-lũy được nhiều kinh-nghiệm dă-luyện khoáng-vật và chế dược, phương-diện hoá-học, có giá-trị tham-khảo nhất-định. Có thể mượn khi luyện nội-khí.

          Nội-đan 'hoả-hậu' là nội-dung chính-yếu cuả 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế'. Cái gọi là 'hoả-hậu' là thước đo vận-khí nội-đan-công, hỏa chỉ thăng-giáng thổ-nạp vận-khí, hậu chỉ giai-đoạn sự-vật phát-triển, cụ-thể chỉ tốc-độ thăng-giáng, thổ-nạp, mau chậm hoăc tiến lui.

          'Hoả-hậu' là tinh-túy 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế', đặc-điểm cuả 'hoả-hậu' là tại thể-dụng chu-kỳ và thiên-điạ cuả nhân-thể vận-khí, quy-luật chu-kỳ tương-ứng cuả nhật-nguyệt vận-hành, sung-phân ứng-dụng được nguyên-lư âm-dương tiêu-trưởng cuả quái-tượng Chu-Dịch cùng thái-hoà vẫn-hợp với chu-kỳ lịch-số cổ-thiên-văn thời Tần-Hán, đột-xuất được quan-điểm khí-công cuả giống sinh-vật. Nhân  đó có đầy đủ giá-trị khoa-học rất cao, đó chính là duyên-cớ 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' năng được tôn phụng làm khuôn phép khí-công-học Trung-quốc.

          Dữ-kiện 'hoả-hậu' 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' đồng-bộ-hoá tiết-luật thăng-giáng thổ-nạp nội-đan tu-luyện vận-khí với chu-kỳ vận-hành cuả nhật-nguyệt, thiên-thể, cũng tức lấy nhịp vận-khí thổ-nạp cuả nhân-thể đồng-bộ-hoá với âm–dương tiêu-trưởng cuả chuyển-động vũ-trụ, sung-phân phát-huy ưu-thế tiết-luật dưỡng-sinh thuận-ứng tự-nhiên.

          Sự-kiện 'Hoả-hậu' 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' thể-dụng nguyên-lư tiết-luật làm cho chuyển-động biểu-kiến cuả mặt trời (niên tiết-luật) chuyển-động tương-đối cuả mặt trăng (nguyệt tiết-luật) và chuyển-động cuả trái đất xung quanh mặt trời (nhật tiết-luật).  Bất-luận, điạ-cầu quay xung quanh mặt trời một ṿng hay mặt trăng quay xung quanh trái đất một ṿng hoặc trái đất xoay ḿnh một ṿng cũng đều là một ṿng tṛn 3600, tuy nhiên ṿng tṛn  lớn  nhỏ, tḥi-gian dài ngắn khác nhau, nhưng quy-luật chuyển-hoá âm-dương tiêu-tức giống nhau. Nhân đó bất-luận niên tiết-luật, nguyệt tiết-luật hoặc nhật tiết-luật, cũng đều là chuyển-động tuần-hoàn, thửa tiết-luật âm-dương tiêu-tức, thửa chu-kỳ niên, nguyệt, nhật có thể thông-dụng. 'Hoả-hậu' tức căn-cứ quy-luật quản-trị hậu cuả 'tiến dương hoả' và 'thoái âm phù'.

          Về mặt nhật-tiết-luật và nguyệt-tiết-luật, 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' ứng-dụng được 64 quẻ, thửa nắm vững buổi sáng ắt hít vào, buổi chiều ắt thở ra, nguyệt-tiết-luật lấy từ 64 quẻ hai quẻ Truân-Mông làm đầu đuôi, bỏ riêng ra bốn quẻ Kiền-Khôn, Khảm-Ly, mỗi ngày hai quẻ, mỗi tháng 30 ngày, tổng-cộng 60 quẻ. Như nguyên-văn nói: "Nguyệt-tiết có 56, kinh-vỹ phụng-sự nhật-sứ, kiêm gồm là 60, nhu-cương có biểu-lư, sóc đán thuần trực-sự, chí mộ mông đương nhận, ngày đêm mỗi buổi hai quẻ". Mỗi ngày vận hai quẻ, mỗi tháng 60 quẻ giáp một ṿng. Sáu mươi quẻ tuy nhiên chỉ là nguyệt-tiết-luật, trên thực-tế cũng thông nhật-tiết-luật, thửa hoả-hậu là buổi sáng là thăng-hấp, buổi chiều là giáng-hô, tác làm nguyên-tắc nội-đan-công âm-dương tiêu-tức.

          Về mặt niên-tiết-luật, Chu-Dịch lấy 12 tiêu-tức-quái, tượng-trưng chuyển-động biểu-kiến cuả mặt trời, sản sinh ra âm-dương tiêu-tức, cái gọi là 12 tiêu-tức-quái, do Hán-Dịch Mạnh-Hỉ thủ-xướng, 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' mượn dùng để đột-xuất quy-luật âm-dương tiêu-tức cuả nội-đan, cụ-thể là quẻ Phục X đại-biểu tháng Một (muà đông), quẻ Lâm S là tháng Chạp (muà đông), quẻ Thái K là tháng Giêng (muà xuân), quẻ Đại-tráng b là tháng Hai (muà xuân), quẻ Quyết k tháng Ba (muà xuân), quẻ Kiền A là tháng Tư (muà hạ), quẻ Cấu l là tháng Năm (muà hạ), quẻ Độn là tháng Sáu (muà hạ), quẻ Bĩ là tháng Bẩy (muà thu), quẻ Quan W là tháng Tám (muà thu), quẻ Bác W là tháng Chín (muà thu), quẻ Khôn B là tháng Mười (muà đông). Mỗi quẻ đại-biểu một tháng, một năm 12 quẻ, phân-biệt đại-biểu 12 tháng. Quẻ Phục âm cực, nhất  dương sinh, từ quẻ Phục đến quẻ Kiền dương-hào (>) từ 1 đến 6 từ từ tăng-gia, nên là dương tức, âm tiêu; quẻ Cấu dương cực nhất âm trưởng, từ quẻ Cấu đến quẻ Khôn âm-hào (?), từ 1 đến 6 liên-tục đệ-tăng, nên nói rằng dương tiêu âm tức. 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' dựa vào 12 tiêu-tức-quái, phản-ảnh âm-dương tiêu-tức doanh-hư, nắm giữ nội-đan hoả-hậu một năm, cũng tức nắm giữ hoả-hậu cuả 'tiến dương hoả' và 'thoái âm phù'.

          Cái gọi là nguyệt-thể nạp-giáp tức là lấy thiên-can phối-ứng với bát-quái dùng để biểu-thị sóc-vọng, khuy-huyền, tức mùng ba là quẻ chấn nạp canh (chấn đối-ứng canh), nguyệt-tượng thuộc tháng mới; mùng tám là quẻ đoài nạp đinh, nguyệt-tượng thuộc thượng-huyền; rằm là quẻ kiền nạp giáp, nguyệt-tượng thuộc trăng tṛn; mựi sáu là quẻ tốn nạp tân, nguyệt-tượng thuộc sơ-khuyết; hăm ba là quẻ cấn nạp bính, nguyệt-tượng thuộc hạ-huyền; ba mươi là quẻ khôn nạp ất, nguyệt-tượng thuộc trăng hối. Như thế, tại giai-đoạn tháng mới, thượng-huyền, trăng tṛn, là dương-tức âm tiêu, nội-đan-công vận-khí ắt hít khí thăng đốc làm chủ; tại giai-đoạn sơ-khuyết, hạ-huyền, hối-nguyệt ắt thuộc về dương tiêu âm tức, nội-đan-công vận-khí ắt thở ra giáng nhâm làm chủ. Bên trên là 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' liên-quan đến thước đo và phương-thức sử-dụng.

Cơ-bản Lư-luận tại luyện Nội-đan trong

Chu-Dịch Tham-Đồng-Khế 1231

Nội-đan-thuật là cống-hiến tối-kiệt-xuất cuả Tham-đồng-khế, là lư-luận khí-công uyên-tẩu. Tham-đồng-khế lấy lô-đỉnh tỷ-dụ nhân-thể, lấy dược-vật tượng-trưng nhân-thể khí-lưu. Hai nhà Chu Sĩ-Lưu và Phan Khải-Minh xưng là năng-lượng-lưu (Chu-Dịch Tham-đồng-khế Tân-thám), mà lấy hoả-hậu cuả thước đo thời-không vận-khí. Hai họ Chu, Phan lấy hoả-hậu xưng là thiệp cập thời-gian, phương-vị, chuyển-hoán chất-lượng-trường mà chu thiên hoả-hậu ắt chỉ thước đo thời-không-tính. Tham-đồng-khế lấy trăng tṛn khuyết, hối-sóc cùng 12 tiêu-tức-quái mà tỷ-dụ âm-dương thịnh-suy, cùng là nắm vững hoả-hậu cuả nội-đan vận–khí.

Trong giai-đoạn luyện nội-đan, Tham-đồng-khế rất chú-trọng các nguyên-lư sau đây:

1.    Đột-xuất thăng-giáng chu-lưu cuả tinh-khí

'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' áp đặt thăng-giáng chu-lưu cuả tinh-khí, nhất-định phải dựa vào một động-lực, như nguyên-văn nói: "Bốn quẻ trống mái, lấy làm cái bễ thợ rào". Tức lấy Kiền-Khôn-Khảm-Ly làm cổ-phong b́-nang, tỷ-dụ Kiền-Khôn-Khảm-Ly là động-lực cuả tinh-khí thăng-giáng. 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' nguyên văn lại nói: "Kiền-khôn là cửa ngơ cuả Kinh Dịch, là cha mẹ cuả chúng quái, Khảm-Ly khuông-quách, vận-cốc chính-trục", tỷ dụ Kiền-Khôn là trục xe, ư tại chỉ ra cái xe tiến đuợc là nhờ trục xe và ổ bánh xe, vận-hành cuả tinh-khí không dời khỏi được nhất-định động-lực. Nguyên-văn lại nói: "Dịch là Khảm-Ly, Khảm Ly là nhị-dụng cuả Kiền-Khôn. Nhị-dụng không có hào-vị, lưu-hành khắp sáu cơi, qua lại đă bất-định, trên dưới cũng vô-thường, kế-tiềm luân-nặc, thăng-giáng bên trong, bao bọc muôn vật, làm kỷ-cương cho Đạo". Tuy áp-đặt ư-nghiă thăng-giáng cuả hai khí Khảm-Ly, hai khí Khảm-Ly thăng-giáng nơi sáu cơi, tức Kiền nam, Khôn bắc làm trời đất, Ly đông Đoài tây, thửa thăng-giáng vận-chuyển nhu trục-tâm cuả bánh xe, bốn quẻ chấn-đoài-tốn-cấn, mỗi quẻ là âm-dương tứ-bố, trung-gian khảm-ly thăng-giáng, như H́nh bên dưới:

H́nh  24.04 Thủy-hoả Khuông-quách Đồ

Trong h́nh, mầu trắng là dương, mầu đen là âm, tượng-trưng khí xoáy ṿng tṛn  tuần-hoàn không ngừng, thuyết-minh 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' nhận ra rằng tinh-khí chuyển-động ṿng tṛn không ngừng, ám chỉ khảm-ly giao-thông. Khảm-ly tương-giao, tư-ngọ thăng-giáng, giờ tư dương-khí thuợng-thăng, âm-khí tiệm thoái, giờ ngọ dương-khí hạ-giáng, âm-khí tiềm-trưởng, chính là cái gọi là 'tư đang hữu-chuyển, ngọ bèn đông-triền'. Tức nói là tư-ngọ thăng-giáng có lúc, vận-chuyển có trật-tự, đó là lư-luận nhâm-đốc câu thông cuả Trung-y Khí-công, khảm-ly tương-giao, khí-vận lớn, là cơ-sở tuân-định cuả tiểu-chu-thiên.

Phương-vị Kiên-Khôn, Khảm-Ly cuả Tham-đồng-khế tương-trưng động-thái kết-nạp cuả âm-dương khí-hoá, trong đó Kiền-Khôn định phương-vị nam-bắc, Khảm-Ly thăng-giáng trung-gian, chính như như nguyên-văn nói: "Khảm-Ly là Kiền-Khôn nhị-dụng ... ... Chu-lưu hành lục-hư,  ... ... thăng-giáng nơi giữa". Khảm-Ly thăng-giáng là khí cuả nhân-thể thăng-giáng, khí-công-gia kết hợp với nhâm-đốc thăng-giáng, mà thành ra khai-sơn cuả đại-tiểu-chu-thiên (nội-đan-thuật). Tức tại giờ tư hút vào khí thăng đốc, giờ ngọ thở ra khí giáng nhâm, nhâm là biển cuả âm-mạch, đốc là biên cuả dương-mạch, nhâm-đốc thông ắt bách mạch đạt, nên gọi là tiểu-chu-thiên. Tại sáu giờ tư, sửu, dân, măo, th́n, tỵ đốc thăng; tại sáu giờ ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi nhâm giáng, thăng ắt là tức, chính là cái gọi là 'tiến dương hoả', giáng ắt là tiêu, chính là cái gọi là 'thoái âm-phù'. Tại tiểu-chu-thiên cơ-sở cuả giao-thông nhâm-đốc là đả thông đại-tuần-hoàn cuả 12 kinh mạch, ắt xưng là đại-chu-thiên, như nguyên-văn nói: "Xuân-hạ căn-cứ vào nội-thể, từ tư đến th́n-tỵ, thu đông đương ngoại-dụng, từ ngọ cho đến tuất-hợi, thưởng-phạt ứng xuân-thu". Là khí-công vận-khí tuân-định nền móng nguyên-lư .

2. Chú-trọng đến duy-hệ âm-dương

Tham-đồng-khế chú-trọng đến duy-hệ âm-dương, thửa lư-luận đặc-biệt là lấy khảm-ly làm trung-tâm, lấy nhật-nguyệt (thủy-hoả) làm đối-lập thống-nhất cuả âm-dương, theo mà đề ra khảm-ly ôm lấy nhau, long-hổ giao nhau, thủy-hoả hỗ-tế, nguyên-lư âm-dương tương-hợp. Như nguyên văn nói: "Khảm mậu nguyệt-tinh, ly kỷ nhật-quang, nhật-nguyệt là dương, cương nhu tương-đương", tức là điều ấy.

Duy-hệ âm-dương cuả Tham-đồng-khế là mượn doanh-hư tiêu-trưởng cuả mặt trăng và 12 tiêu-tức-quái cuả Chu-Dịch mà thể-hiện. Bát-quái nạp-giáp cuả Tham-đồng-khế, tức lấy khảm-ly nhật-nguyệt làm chủ-quái, kỳ dư, các quẻ tốn, cấn, kiền, khôn, đoài, chấn, ắt phân-biệt doanh-khuy cuả mặt trăng, tức lấy hối, sóc, huyền, vọng cuả mặt trăng đại-biểu quan-hệ âm-dương tiêu-trưởng, như trong H́nh 24.04, 24.05 và 24.06. Ba h́nh này thuyết-minh âm-dương hỗ-căn, thửa tiêu-trưởng thủ-quyết nơi vận-chuyển cuả nhật-nguyệt. Đối với dưỡng-sinh, khí-công thuận-ứng với lư-luận cuả âm-dương.

H́nh 24.04 Thái-Cực Bát-Quái Phương-Vị Đồ

Tham-đồng-khế dùng các quẻ chấn, đoài, kiền, tốn, cấn, khôn, phân-biệt thay cho các ngày trong tháng âm-lịch, tức nguyệt-tướng: mùng ba, mùng tám, rằm, mười sáu và hăm ba, tượng-trưng âm-dương tiêu-trưởng, như nguyên-văn nói:

"Mùng ba hiện ra sáng suả, chấn nhận canh tây-phương, mùng tám đoài nhận đinh, thượng-huyền ngay ngắn như dây, rằm kiền-thể thành-tựu, thịnh măn giáp đông-phương, mùng bẩy, mùng tám Đạo đă đạt, khuất-chiết đê hạ-giáng, muời sáu chuyển thụ-thống, tốn tân thấy b́nh-minh, cấn trực nơi bính nam, hạ-huyền hăm ba, khoi6n ất ba-mươi. Đông-bắc chôn thửa bạn, tiết tận tương thiền-y, kế thể phục-sinh long, nhâm-quư phối giáp-ất, kiền-khôn quát thủy-chung". Lấy chấn, đoài, kiền bảo rơ âm xuất, dương nhập, gọi là âm tức dương tiêu, lấy tốn, cấn, khôn, bảo rơ dương xuất, âm nhập, gọi là âm tức dương tiêu.

H́nh 24.05 Thái-Cực Bát-Quái Đồ
 

H́nh 24.06 Nguyệt-Thể Nạp-Giáp Đồ
 

Tham-đồng-khế c̣n áp-đặt 12 tiêu-tức-quái, cùng là lấy đó mà tượng-trưng âm-dương tiêu-trưởng cuả một năm, Tham-đồng-khế lấy các quẻ Phục, Lâm, Thái, Đại-tráng, Quyết, Kiền, Cấu, Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn phân-biệt đại-biểu riêng rẽ các tháng Một, Chạp, Giêng, Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bẩy, Tám, Chín, Mười. Trong đó, các quẻ Phục, Lâm, Thái, Đại-tráng, Quyết, Kiền, đại-biểu nguyệt-phận làm sáu giờ dương, tượng-trưng dương tức âm tiêu, các quẻ Cấu, Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn đại-biểu nguyệt-phận ắt là giờ âm, tượng-trưng âm tức dương tiêu, thuật-gia nội-đan lấy âm-dương tiêu-trưởng ấy mà nắm vững 'chu-thiên hoả-hậu'. Chính như nguyên-văn nói: "Sóc đán là Phục X, dương-khí bắt đầu thông ... ... Lâm S lô thi điều, khai-lộ chính-quang ... ... ngửng để thành Thái K, cứng mềm đều thịnh, đều từ từ trải qua Đại-tráng b, giáp liệt măo-môn ... ... Quyết k âm để thoái, dương thăng mà ở đằng trước ... ... Kiền A kiện thịnh minh, quảng  tứ lân; ... ... Cấu l bắt đầu kỷ-tự, thoạt đầu  giẵm sương ... ... Độn  alià đời tiến vị, thâu liễm thửa tinh ... ... Bĩ L bế-tắc không thông, mọc mầm chẳng sinh ... ... Quan T thửa quyền-lượng, xét t́nh-h́nh trọng-thu  ... ... Bác W mục nát chi-thể, tiêu-diệt thửa h́nh ... ... Đạo Dịch cùng ắt phản, quay về Khôn B nguyên", tức là đều ấy.

           3. Áp đặt chu-kỳ tiết-luật

Tham-đồng-khế rất coi trọng chu-kỳ tiết-luật, bất kể tinh-khí thăng-giáng hoặc vận-chuyển nội-khí, đều là thăng-giáng có trật-tự, chuyển-vận ứng-thời. Như nội trong một ngày, lấy tư-ngọ làm mốc, giờ tư ắt khí thăng, giờ ngọ ắt khí giáng          , thăng ắt là dương tức âm tiêu, giáng ắt âm tức dương tiêu. Nguyên-văn nói: "Tư thích-hợp hữu-chuyển, ngọ bèn đông-chuyển". Tức thị: "Tư nam ngọ bắc, hỗ-tương cương-kỷ, số cửu nhất chung nhi phục thủy". Nội trong một năm, ắt lấy Phụ-Cấu làm chung-thủy, tử Phục đến Kiền là dương tức âm tiêu, từ Cấu đến Khôn là âm tức dương tiêu. Nguyên-văn nói: "Sóc-đán là Phục, dương-khí bắt đầu thông, ra vào không hại, lập biểu vi-cương, hoàng-chung kiến tư, triệu bèn lớn đẹp lên", "Cấu bắt đầu kỷ-tự 'lư sương tối tiên = Đi trên sương trước tiên', đáy giếng hàn-tuyền, ngọ là Nhuy-tân", tức có thể thuyết-minh điều đó. Nội-đan-thuật Tham-đồng-khế tức căn-cứ vào tiết-luật chu-thiên nắm giữ hoả-hậu. Như trong khoảng một tháng nơi chấn, đoài, kiền thời, nội trong một ngày, từ giờ tư đến giờ ngọ, nội trong một năm 12 tháng, từ tháng Một đến tháng Năm, là vùng dương tức âm tiêu, ắt ứng với 'tức dương-hoả', tức là tăng vậy. Tức nói trong giai-đoạn ấy ứng ích dương-khí làm chủ. Ngược lại, nội trong một tháng tại giờ tốn, cấn, khôn, trong khoảng một ngày, từ giờ ngọ đến giờ tư, một năm 12 tháng nơi tháng Năm đến tháng Một th́ lại là thời-kỳ âm tức dương tiêu, lại ứng với 'thoái âm-phù', tức ứng ích âm-khí, thuyết-minh tinh-chỉ cuả Tham-đồng-khế là hoả-hậu tiến-thoái tất ứng với thời, như nguyên-văn nói: "Thiên-phù có tiến thoái, truất-tín để ứng-thời ... ... tiêu-tức ứng chung-luật, thăng-giáng ứng đẩu-khu".

Thủy-tổ cuả Nội-đan Khí-công1237

       'Chu-Dịch Tham-đồng-khế', tham tức tam, tam chỉ Chu-Dịch, Hoàng-Lăo và Lư-hoả; khế là khế-hợp, Tham-đồng-khế tức lấy Chu-Dịch, cái học Hoàng-Lăo với lư-luận cuả lư-hoả hợp nhất lại thành một nghiă. Nhân đó, lơi lư-luận cuả Tham-đồng-khế tại nơi một tiểu-vũ-trụ, đề ra nguyên-tắc hoả-hậu, cùng là lấy nhân-thể làm một ḷ luyện-đan, từ đó viết thành một bộ chuyên trước luyện nội-đan cuả Trung-quốc. 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' sáng-tạo ra một lư-luận luyện nội-đan, thành ra khuôn mẫu đạo-gia khí-công, là tác-dụng suy-vận trọng yếu trong công cuộc phát-triển Trung-y khí-công.

          Thuật luyện-đan hưng-khởi từ thời-đại Tần Thủy Hoàng, thư-tịch Đạo-giáo Đan-kinh cũng nương theo mà phong-khởi, như các đan-kinh trong 'Chính-thống Đạo-tàng' có ghi chép nhiều, như 'Đan-pḥng Áo-bí', 'Hoàng-đế Cửu Đỉnh Thần-đan Kinh-quyết', 'Băo Phác Tử · Ngoại-đan-luận', đều là nhiệt-trào luyện ngoại-đan cầu thọ. Lúc 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' năng tại luyện Ngoại-đan thống chiếm điạ-vị ưu thế, quan-điểm sáng-lập luyện nội-đan (luyện nội-khí), thành ra một mặt cuả lá cờ nhân-thể dưỡng-sinh-học, thành ra tỵ-tổ khi-nộí-đan cuả Trung-quốc, là khiêu-chiến với mê-tín đương thời luyện-ngoại-đan phục-thạch để cầu trường-sinh bất-lăo.

          'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' đem hai quẻ kiền-khôn cuả Chu-Dịch làm đỉnh-lô, tỷ-dụ làm nhân-thể, hai quẻ khảm-ly làm dược-vật, tỷ-dụ làm tinh-khí cuả con người, tiến-hành luyện kỷ. Nội-đan cuả 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' áp đặt 'hợp tinh dưỡng thần' đề ra 'nội để dưỡng kỹ, an tĩnh hư-vô, nguyên-thể ẩn-minh, nội chiếu h́nh-xu, bế-tắc kỳ đoài, củng cố hoả-châu, tam quang lục trầm, ôn-dưỡng tử-châu, thị chi bất kiến, cận nhi dị cầu' là 'trúc cơ luyện kỷ' cuả khí-công đạo-gia (trúc-cơ = luyện tinh-khí; luyện kỷ = luyện thần), 'phản quang nội chiếu' (nội-thị tương-phối với ư-niệm hợp vận-khí), công-thuật trọng-yếu tuân-định nền móng lư-luận. Nhân đó, một quyển sách 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' là viên minh-châu cuả hệ-liệt Chu-Dịch, là văn-hiến trọng-yếu cuả khí-công-học.

Cống-hiến cuả 'Nguyệt-thể Nạp-giáp'1237

       'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' lấy thời-không cuả bát-quái phối-hợp với nhân-thể sinh-vật-chủng tiết-luật, thành ra hạch-tâm thể-hệ cuả nội-đan, chủ-yếu thể-hiện nơi phối-hợp cuả nguyệt-thể nạp-giáp với nhân-thể sinh-vật-chủng, ứng-dụng nơi tu-luyện cuả nhân-thể tinh-khí.

          Phép nạp-giáp tuy bắt nguồn từ Tiêu-Cống, Kinh-Pḥng (Hán Tiêu-thị Dịch-truyện, Tiêu-thị Dịch-lâm), nhưng lại tường-thuật nơi 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế'. Đối với khí-công, cống-hiến tối-đại cuả 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' là phép nạp-giáp cuả Tiêu-thị Dịch-truyện: lấy 12 tiêu-tức-quái cuả Chu-Dịch kết-hợp với sóc, vọng, doanh, khuy cuả mặt trăng, lấy đó mà nắm vững tu-luyện hoả-hậu cuả ứng-thời. Tuân-định nền móng cho tư-tưởng sinh-vật-chủng cho khí-công-học. Nguyên-lư cụ-thể là 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' lấy 12 tiêu-tức-quái cuả Dịch-vỹ, mà ứng với hoả-hậu cuả năm, tháng, ngày tức 12 quẻ Phục X, Lâm S, Thái K, Đại-tráng b, Quyết k, Kiền A, Cấu l, Độn a, Bĩ L, Quan T, Bác W, Khôn B phân-ứng với 12 tháng, phối-hợp với 12 điạ-chi, ắt tháng Một (giờ tư) là âm-cực, tháng Năm (giờ ngọ) là dương cực. Như thế là căn-cứ vào âm-dương tiêu-tức cuả một năm với một ngày đêm mà luyện chu-thiên hoả-hậu cuả nội-đan. Ngoài ra, phối-hợp sóc-vọng, viên-khuyết cuả nguyệt-thể, nắm vững luyện-đan hoả-hậu cuả một tháng, nguyên-tinh sinh thời th́ dùng vũ-hoả, nguyên-thần sinh thời th́ dùng văn-hoả, mục-đích ở tại thẩm-sát tiêu-tức, nắm vững tư-sinh và nội-liễm cuả tinh-khí.

            Nguyên-văn như: "Sóc đán là Phục X, dương-khí bắt đầu thông, ra vào không hại, lập biểu vi-cương, hoàng-chung kiến tư, triệu bèn lớn đẹp lên, bá thi nhu noăn (truyền–bá, thi-hành mềm ấm), lê thừa đắc thường (); Lâm S, lô thi điều (), khai-lộ chính-quang, quang-huy tẩm tiến (), nhật dĩ ích trường (), đại-lă cuả sửu, kết chính đê ngang (), ngửng lên thành Thái K, cứng mềm thịnh-tiến, âm-dương giao-tiếp, bé đi, lớn lại, phúc trăn nơi dần (), vận nhi xu thời (); tiệm lịch Đại-tráng b, giáp; liệt măo-môn, du-lai trụy-lạc (), hoàn quy bản căn (), h́nh-đức tương-phụ (h́nh-đức đánh bại nhau), ngày đêm bắt đầu phân ly; Quyết k âm để thoái, dương thăng mà ở đằng trước, tẩy trạc vũ cách, chấn sách túc trần (); Kiền A dựng thịnh-minh, quảng bị tứ lân (), dương kết thúc nơi tỵ, trung mà tương-can; Cấu l bắt đầu kỷ-tự, lư sương tối-tiên, tấn để hàn-tuyền (đi xuống đáy hoàng-tuyền), ngọ là Nhuy-tân, tân phục-tùng nơi âm, âm là chủ-nhân; Độn a dời thế-vị, thâu liễm thửa tinh, ôm đức chờ thời, thê-tŕ muội minh (); Bĩ Lbế-tắc không thông, nẩy mộng mà không sinh, âm sinh dương truất, một dương tính-danh (); Quan T thửa quyền-lượng, sát trọng-thu t́nh, nhiệm súc vi trĩ (), lăo khô phục vinh (), tề mạch nha nghiệt, nhân mạo dĩ sinh; Bác W lạn chi thể, tiêu-diệt thửa h́nh, hoá-khí kư kiệt, vong thất chí thần; đạo cùng ắt phản, quay về nơi Khôn B nguyên, hằng thuận điạ-lư, thừa thiên bố-tuyên, nguyên-viễn u-diểu, cách ngại tương liên, ứng độ dục chủng, âm-dương chi nguyên, liêu khuếch hoảng-hốt (), mạc tri kỳ đoan, tiên mê thất quỹ, hậu vi chủ quân. Vô b́nh bất pha, đạo chi tự nhiên, biến dịch canh thịnh, tiêu-tức tương nhân, chung khôn thủy phục, như tuần liên-hoàn, đế-vương thừa ngự, thiên-thu thường tồn". Để kịp Chấn s xuất là chinh, dương khí tạo-đoan; sơ-cửu tiềm long; dương dĩ tam lập, âm dĩ bát thông, cho nên ba ngày chấn s động, tám ngày đoài zdi-hành, cửu-nhị hiện long, hoà-b́nh hữu minh; tam ngũ đức tựu, Kiền thể bèn thành, cửu tam tịch dịch, khuy chiết thần-phù, thịnh-suy tiệm cách, chung hoàn kỳ sơ; tốn kế kỳ thống, cố tế thao-tŕ, cửu tứ hoặc dược, tiến-thoái đạo nguy, Cấn t chủ tiến chỉ, bất đắc du thời, nhị-thập-tam nhật, điển thủ huyền kỳ; cửu-ngũ phi-long, thiên-vị gia hỉ; lục-ngũ Khôn Bthừa, kết quát chung thủy, uẩn-dưỡng chúng tử, thế vi loại mẫu, dương-số dĩ ngật (dương-số đă tính xong), ngật tắc phục khởi (), suy t́nh hợp tính, chuyển nhi tương dữ. Thượng-cửu kháng long, chiến-đức vu dă, dụng cửu phiên-phiên, vi đạo quy-củ, tuần cứ tuyền-cơ, thăng-giáng thượng-hạ, chu-lưu lục-hào, nan đắc sát đổ, cố vô thường-vị, vi dịch tông-tổ". 

'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' luyện nội-đan, án-chiếu sinh-vật-chủng nơi khoảng tư-ngọ hoặc trong thời khoảng sóc-vọng mà thể-dược; giờ tư, muà đông, thời-kỳ nguyệt-hối 'tiến dương hoả'; mà nơi giờ ngọ, muà hè, lúc nguyệt-hối 'thoái âm-phù'. Cái gọi là thể-dược chỉ sơ-kỳ luyện-đan, khảm-ly giao-thái, tụ tinh-khí nơi đan-điền, là bước đầu nội-đan. Cái gọi là 'tiến dương hoả', ắt hút khí thăng đốc-mạch, là bước thứ nh́ nội-đan, mà 'thoái âm-phù' ắt là thở khí giáng nhâm-mạch, là bước thứ ba nội-đan, ba bước hoàn-thành, nhâm-đốc quán-thông, ắt vận-khí một chu-thiên, lại gọi là tiểu-chu-thiên.

 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' kể trên, lấy lư-luận nguyệt-thể nạp-giáp, về mặt khí-công sinh-vật-chủng có khải-thị quan-trọng, như hậu-thế đề ra ba giờ dần-măo-th́n (sáng sớm khoảng 4-8 AM, về muà xuân), dương-khí sơ-sinh, nhân tác-động-công để trợ dương-khí thăng-phát; ba giờ thân-dậu-tuất (hoàng hôn khoảng 4-8 PM, về muà hè), là lúc âm-khí sinh-trưởng, ứng làm tĩnh-công để trợ dương-khí nội-liễm, âm-khí sinh-trưởng, khiến cho hiệu-suất khí-công tăng cao nhiều.

Khai-sơn cuả Khí-công Vận-khí Công-pháp

          'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' vay mượn luận-thuật luyên nội-đan, lấy nhân-thể làm đỉnh-lô. Thông qua quá-tŕnh h́nh thành cuả nội-đan, luận-thuật được nguyên-lư âm-dương giao-hợp, thủy-hoả thăng-giáng trong quá-tŕnh luyện nội-đan, vạch ra đường lối vận hành nguyên–khí cuả nhân-thân. Cùng uẩn-hàm được hiện-tượng chuyển-hoá cuả sinh-vật-trường, ngụ-tàng được áo-bí cuả sinh-mệnh nhân-thể, là khí-công-học đă phát-triển được tác-dụng suy-vận một cách kiến-hiệu.

          Thượng Thiên cuả 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' áp-đặt lư-luận 'biến-động bất cư, chu-lưu lục-hư = biến-động chứ không ở yên, đi ṿng quanh sáu cơi' cuả Hạ-Hệ VIII/1, đề ra 'chu-lưu hành lục-hư'.

 

 

*

* *

 

 

 

Xem Kỳ 196

 

 

 

 

 

GS Nguyễn Hu Quang
Nguyên Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975

 

  

 

 

www.ninh-hoa.com