|
HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
CHƯƠNG
24
DỊCH - DỤNG
易
用
(Tiếp
theo Kỳ 194)
Chu-Dịch Tham-Đồng-Khế
周 易
參
同
契
IV Chu-Dịch Tham-Đồng-Khế và
Khí-công Trung-quốc1229
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' là thủy-tổ cuả đan-kinh, cũng là
kinh-điển cuả khí-công, sách này là chuyên-thư cuả đạo-gia
ứng-dụng dịch-lư để hướng-dẫn tu-luyện nội-đan. Trong sách,
áp-dụng nguyên-lư 64 quẻ để nắm vững luyện đan hoả-hậu, sau
được các khí-công-gia lấy làm khuôn-phép, là một bửu-điển
trân-quư cuả niếp-sinh-học dùng Dịch-lư.
①
Nội-dung chính-yếu cuả Chu-Dịch Tham-Đồng-Khế
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' là đan-thư do Ngụy
Bá-Dương đời Hậu-Hán viết, rất có ảnh-hưởng đối với Trung-y
Khí-công, mạch-học, châm-cứu, vận-khí-học, Nội-dung
chính-yếu sách này là danh-thích hào-tượng cuả Chu-Dịch, thự
sự là sách luận tác đan, là thủy-tổ cua đan-kinh. Thửa luận
đan lại chia làm hai phần: nội-đan và ngoại-đan. Cái gọi là
ngoại-đan là chỉ luyện ngoại-đan, tức lấy khoáng-chất nào
đó, đặt vào ḷ dung-luyện, ngơ hầu năng đạt được mục-đích
trường-thọ, mà nội-đan ắt chỉ tu-luyện 'khí-công'.
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' dẫn-dụng lư-luận cuả Chu-Dịch để
xiển-thuật khí-công. Tác-giả sách này thuộc học-phái
đạo-gia, nhân đó có tham-nhập quan-niệm đạo-gia, là một sách
tập-hợp Dịch-lư với đan-kinh điển-tịch cuả học-phái đạo-gia.
Là tư-liệu tham-khảo tất yếu khi nghiên-cứu Trung-y
khí-công.
Về mặt luyện ngoại-đan, 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế'
đề ra hai loại lớn là 'dược-vật' và 'hoả-hậu'. 'Dược-vật'
chỉ một loại khoáng-chất hoặc giới-thạch nào đó để, có thể
dă-luyện dược-vật, hoả-hậu ám-chỉ lúc dược-vật biến-chất
tối-giai, thái dược cũng xưng là trúc-cơ, là một bước
luyện-đan, 'tiến-hoả', 'tiến dương hoả-hậu', thoái âm phù
hậu' là kỹ-thuật nắm vững luyện đan hoả-hậu. 'Tham-đồng-khế'
ghi chép thiết-trí luyện-đan, phương-pháp cụ-thể cùng là các
sự-kiện cần chú-ư, như đỉnh-khí-ca trong sách, tức đem ghi
lại h́nh-trạng, kích-thước các đan-đỉnh luyện-đan, một cách
rơ-ràng, như đỉnh-khí ca nói: "Tṛn 3-5, tấc một phân, miệng
4-8, vành môt tấc, dài hai thước, dầy mỏng đều, bụng tam-tề,
toạ thùy ôn". Đó là một kư-thác cuả đạo-gia, trước đời Tống
một thời hưng-thịnh, hy-vọng lấy phục-thạch, kim-đan năng
dưỡng sinh trường-thọ.
Luyện-đan đương nhiên không thể đạt được mục-đích
dưỡng-sinh, nhưng khách-quan mà nói, nhất-định tích-lũy được
nhiều kinh-nghiệm dă-luyện khoáng-vật và chế dược,
phương-diện hoá-học, có giá-trị tham-khảo nhất-định. Có thể
mượn khi luyện nội-khí.
Nội-đan 'hoả-hậu' là nội-dung chính-yếu cuả
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế'. Cái gọi là 'hoả-hậu' là thước đo
vận-khí nội-đan-công, hỏa chỉ thăng-giáng thổ-nạp vận-khí,
hậu chỉ giai-đoạn sự-vật phát-triển, cụ-thể chỉ tốc-độ
thăng-giáng, thổ-nạp, mau chậm hoăc tiến lui.
'Hoả-hậu' là tinh-túy 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế',
đặc-điểm cuả 'hoả-hậu' là tại thể-dụng chu-kỳ và thiên-điạ
cuả nhân-thể vận-khí, quy-luật chu-kỳ tương-ứng cuả
nhật-nguyệt vận-hành, sung-phân ứng-dụng được nguyên-lư
âm-dương tiêu-trưởng cuả quái-tượng Chu-Dịch cùng thái-hoà
vẫn-hợp với chu-kỳ lịch-số cổ-thiên-văn thời Tần-Hán,
đột-xuất được quan-điểm khí-công cuả giống sinh-vật. Nhân
đó có đầy đủ giá-trị khoa-học rất cao, đó chính là duyên-cớ
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' năng được tôn phụng làm khuôn phép
khí-công-học Trung-quốc.
Dữ-kiện 'hoả-hậu' 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế'
đồng-bộ-hoá tiết-luật thăng-giáng thổ-nạp nội-đan tu-luyện
vận-khí với chu-kỳ vận-hành cuả nhật-nguyệt, thiên-thể, cũng
tức lấy nhịp vận-khí thổ-nạp cuả nhân-thể đồng-bộ-hoá với
âm–dương tiêu-trưởng cuả chuyển-động vũ-trụ, sung-phân
phát-huy ưu-thế tiết-luật dưỡng-sinh thuận-ứng tự-nhiên.
Sự-kiện 'Hoả-hậu' 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế'
thể-dụng nguyên-lư tiết-luật làm cho chuyển-động biểu-kiến
cuả mặt trời (niên tiết-luật) chuyển-động tương-đối cuả mặt
trăng (nguyệt tiết-luật) và chuyển-động cuả trái đất xung
quanh mặt trời (nhật tiết-luật). Bất-luận, điạ-cầu quay
xung quanh mặt trời một ṿng hay mặt trăng quay xung quanh
trái đất một ṿng hoặc trái đất xoay ḿnh một ṿng cũng đều
là một ṿng tṛn 3600, tuy nhiên ṿng tṛn lớn
nhỏ, tḥi-gian dài ngắn khác nhau, nhưng quy-luật chuyển-hoá
âm-dương tiêu-tức giống nhau. Nhân đó bất-luận niên
tiết-luật, nguyệt tiết-luật hoặc nhật tiết-luật, cũng đều là
chuyển-động tuần-hoàn, thửa tiết-luật âm-dương tiêu-tức,
thửa chu-kỳ niên, nguyệt, nhật có thể thông-dụng. 'Hoả-hậu'
tức căn-cứ quy-luật quản-trị hậu cuả 'tiến dương hoả' và
'thoái âm phù'.
Về mặt nhật-tiết-luật và nguyệt-tiết-luật,
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' ứng-dụng được 64 quẻ, thửa nắm vững
buổi sáng ắt hít vào, buổi chiều ắt thở ra, nguyệt-tiết-luật
lấy từ 64 quẻ hai quẻ Truân-Mông làm đầu đuôi, bỏ riêng ra
bốn quẻ Kiền-Khôn, Khảm-Ly, mỗi ngày hai quẻ, mỗi tháng 30
ngày, tổng-cộng 60 quẻ. Như nguyên-văn nói: "Nguyệt-tiết có
56, kinh-vỹ phụng-sự nhật-sứ, kiêm gồm là 60, nhu-cương có
biểu-lư, sóc đán thuần trực-sự, chí mộ mông đương nhận, ngày
đêm mỗi buổi hai quẻ". Mỗi ngày vận hai quẻ, mỗi tháng 60
quẻ giáp một ṿng. Sáu mươi quẻ tuy nhiên chỉ là
nguyệt-tiết-luật, trên thực-tế cũng thông nhật-tiết-luật,
thửa hoả-hậu là buổi sáng là thăng-hấp, buổi chiều là
giáng-hô, tác làm nguyên-tắc nội-đan-công âm-dương tiêu-tức.
Về mặt niên-tiết-luật, Chu-Dịch lấy 12
tiêu-tức-quái, tượng-trưng chuyển-động biểu-kiến cuả mặt
trời, sản sinh ra âm-dương tiêu-tức, cái gọi là 12
tiêu-tức-quái, do Hán-Dịch Mạnh-Hỉ thủ-xướng, 'Chu-Dịch
Tham-đồng-khế' mượn dùng để đột-xuất quy-luật âm-dương
tiêu-tức cuả nội-đan, cụ-thể là quẻ Phục
X
đại-biểu tháng Một (muà đông), quẻ Lâm
S
là tháng Chạp (muà đông), quẻ Thái
K
là tháng Giêng (muà xuân), quẻ Đại-tráng
b
là tháng Hai (muà xuân), quẻ Quyết
k
tháng Ba (muà xuân), quẻ Kiền
A
là tháng Tư (muà hạ), quẻ Cấu
l
là tháng Năm (muà hạ), quẻ Độn là tháng Sáu (muà hạ), quẻ Bĩ
là tháng Bẩy (muà thu), quẻ Quan
W
là tháng Tám (muà thu), quẻ Bác
W
là tháng Chín (muà thu), quẻ Khôn
B
là tháng Mười (muà đông). Mỗi quẻ đại-biểu một tháng, một
năm 12 quẻ, phân-biệt đại-biểu 12 tháng. Quẻ Phục âm cực,
nhất dương sinh, từ quẻ Phục đến quẻ Kiền dương-hào (>)
từ 1 đến 6 từ từ tăng-gia, nên là dương tức, âm tiêu; quẻ
Cấu dương cực nhất âm trưởng, từ quẻ Cấu đến quẻ Khôn âm-hào
(?),
từ 1 đến 6 liên-tục đệ-tăng, nên nói rằng dương tiêu âm tức.
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' dựa vào 12 tiêu-tức-quái, phản-ảnh
âm-dương tiêu-tức doanh-hư, nắm giữ nội-đan hoả-hậu một năm,
cũng tức nắm giữ hoả-hậu cuả 'tiến dương hoả' và 'thoái âm
phù'.
Cái gọi là nguyệt-thể nạp-giáp tức là lấy
thiên-can phối-ứng với bát-quái dùng để biểu-thị sóc-vọng,
khuy-huyền, tức mùng ba là quẻ chấn nạp canh (chấn đối-ứng
canh), nguyệt-tượng thuộc tháng mới; mùng tám là quẻ đoài
nạp đinh, nguyệt-tượng thuộc thượng-huyền; rằm là quẻ kiền
nạp giáp, nguyệt-tượng thuộc trăng tṛn; mựi sáu là quẻ tốn
nạp tân, nguyệt-tượng thuộc sơ-khuyết; hăm ba là quẻ cấn nạp
bính, nguyệt-tượng thuộc hạ-huyền; ba mươi là quẻ khôn nạp
ất, nguyệt-tượng thuộc trăng hối. Như thế, tại giai-đoạn
tháng mới, thượng-huyền, trăng tṛn, là dương-tức âm tiêu,
nội-đan-công vận-khí ắt hít khí thăng đốc làm chủ; tại
giai-đoạn sơ-khuyết, hạ-huyền, hối-nguyệt ắt thuộc về dương
tiêu âm tức, nội-đan-công vận-khí ắt thở ra giáng nhâm làm
chủ. Bên trên là 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' liên-quan đến
thước đo và phương-thức sử-dụng.
②
Cơ-bản Lư-luận tại luyện Nội-đan trong
Chu-Dịch Tham-Đồng-Khế
1231
Nội-đan-thuật là cống-hiến tối-kiệt-xuất cuả Tham-đồng-khế,
là lư-luận khí-công uyên-tẩu. Tham-đồng-khế lấy lô-đỉnh
tỷ-dụ nhân-thể, lấy dược-vật tượng-trưng nhân-thể khí-lưu.
Hai nhà Chu Sĩ-Lưu và Phan Khải-Minh xưng là năng-lượng-lưu
(Chu-Dịch Tham-đồng-khế Tân-thám), mà lấy hoả-hậu cuả thước
đo thời-không vận-khí. Hai họ Chu, Phan lấy hoả-hậu xưng là
thiệp cập thời-gian, phương-vị, chuyển-hoán
chất-lượng-trường mà chu thiên hoả-hậu ắt chỉ thước đo
thời-không-tính. Tham-đồng-khế lấy trăng tṛn khuyết,
hối-sóc cùng 12 tiêu-tức-quái mà tỷ-dụ âm-dương thịnh-suy,
cùng là nắm vững hoả-hậu cuả nội-đan vận–khí.
Trong giai-đoạn luyện nội-đan, Tham-đồng-khế rất chú-trọng
các nguyên-lư sau đây:
1.
Đột-xuất thăng-giáng chu-lưu cuả tinh-khí
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' áp đặt thăng-giáng chu-lưu cuả
tinh-khí, nhất-định phải dựa vào một động-lực, như
nguyên-văn nói: "Bốn quẻ trống mái, lấy làm cái bễ thợ rào".
Tức lấy Kiền-Khôn-Khảm-Ly làm cổ-phong b́-nang, tỷ-dụ
Kiền-Khôn-Khảm-Ly là động-lực cuả tinh-khí thăng-giáng.
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' nguyên văn lại nói: "Kiền-khôn là
cửa ngơ cuả Kinh Dịch, là cha mẹ cuả chúng quái, Khảm-Ly
khuông-quách, vận-cốc chính-trục", tỷ dụ Kiền-Khôn là trục
xe, ư tại chỉ ra cái xe tiến đuợc là nhờ trục xe và ổ bánh
xe, vận-hành cuả tinh-khí không dời khỏi được nhất-định
động-lực. Nguyên-văn lại nói: "Dịch là Khảm-Ly, Khảm Ly là
nhị-dụng cuả Kiền-Khôn. Nhị-dụng không có hào-vị, lưu-hành
khắp sáu cơi, qua lại đă bất-định, trên dưới cũng vô-thường,
kế-tiềm luân-nặc, thăng-giáng bên trong, bao bọc muôn vật,
làm kỷ-cương cho Đạo". Tuy áp-đặt ư-nghiă thăng-giáng cuả
hai khí Khảm-Ly, hai khí Khảm-Ly thăng-giáng nơi sáu cơi,
tức Kiền nam, Khôn bắc làm trời đất, Ly đông Đoài tây, thửa
thăng-giáng vận-chuyển nhu trục-tâm cuả bánh xe, bốn quẻ
chấn-đoài-tốn-cấn, mỗi quẻ là âm-dương tứ-bố, trung-gian
khảm-ly thăng-giáng, như H́nh bên dưới:
H́nh
24.04
Thủy-hoả Khuông-quách Đồ
Trong
h́nh, mầu trắng là dương, mầu đen là âm, tượng-trưng khí
xoáy ṿng tṛn tuần-hoàn không ngừng, thuyết-minh
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' nhận ra rằng tinh-khí chuyển-động
ṿng tṛn không ngừng, ám chỉ khảm-ly giao-thông. Khảm-ly
tương-giao, tư-ngọ thăng-giáng, giờ tư dương-khí
thuợng-thăng, âm-khí tiệm thoái, giờ ngọ dương-khí hạ-giáng,
âm-khí tiềm-trưởng, chính là cái gọi là 'tư đang hữu-chuyển,
ngọ bèn đông-triền'. Tức nói là tư-ngọ thăng-giáng có lúc,
vận-chuyển có trật-tự, đó là lư-luận nhâm-đốc câu thông cuả
Trung-y Khí-công, khảm-ly tương-giao, khí-vận lớn, là cơ-sở
tuân-định cuả tiểu-chu-thiên.
Phương-vị Kiên-Khôn, Khảm-Ly cuả Tham-đồng-khế tương-trưng
động-thái kết-nạp cuả âm-dương khí-hoá, trong đó Kiền-Khôn
định phương-vị nam-bắc, Khảm-Ly thăng-giáng trung-gian,
chính như như nguyên-văn nói: "Khảm-Ly là Kiền-Khôn nhị-dụng
... ... Chu-lưu hành lục-hư, ... ... thăng-giáng nơi giữa".
Khảm-Ly thăng-giáng là khí cuả nhân-thể thăng-giáng,
khí-công-gia kết hợp với nhâm-đốc thăng-giáng, mà thành ra
khai-sơn cuả đại-tiểu-chu-thiên (nội-đan-thuật). Tức tại giờ
tư hút vào khí thăng đốc, giờ ngọ thở ra khí giáng nhâm,
nhâm là biển cuả âm-mạch, đốc là biên cuả dương-mạch,
nhâm-đốc thông ắt bách mạch đạt, nên gọi là tiểu-chu-thiên.
Tại sáu giờ tư, sửu, dân, măo, th́n, tỵ đốc thăng; tại sáu
giờ ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi nhâm giáng, thăng ắt là
tức, chính là cái gọi là 'tiến dương hoả', giáng ắt là tiêu,
chính là cái gọi là 'thoái âm-phù'. Tại tiểu-chu-thiên cơ-sở
cuả giao-thông nhâm-đốc là đả thông đại-tuần-hoàn cuả 12
kinh mạch, ắt xưng là đại-chu-thiên, như nguyên-văn nói:
"Xuân-hạ căn-cứ vào nội-thể, từ tư đến th́n-tỵ, thu đông
đương ngoại-dụng, từ ngọ cho đến tuất-hợi, thưởng-phạt ứng
xuân-thu". Là khí-công vận-khí tuân-định nền móng nguyên-lư
.
2.
Chú-trọng đến duy-hệ âm-dương
Tham-đồng-khế chú-trọng đến duy-hệ âm-dương, thửa lư-luận
đặc-biệt là lấy khảm-ly làm trung-tâm, lấy nhật-nguyệt
(thủy-hoả) làm đối-lập thống-nhất cuả âm-dương, theo mà đề
ra khảm-ly ôm lấy nhau, long-hổ giao nhau, thủy-hoả hỗ-tế,
nguyên-lư âm-dương tương-hợp. Như nguyên văn nói: "Khảm mậu
nguyệt-tinh, ly kỷ nhật-quang, nhật-nguyệt là dương, cương
nhu tương-đương", tức là điều ấy.
Duy-hệ âm-dương cuả Tham-đồng-khế là mượn doanh-hư
tiêu-trưởng cuả mặt trăng và 12 tiêu-tức-quái cuả Chu-Dịch
mà thể-hiện. Bát-quái nạp-giáp cuả Tham-đồng-khế, tức lấy
khảm-ly nhật-nguyệt làm chủ-quái, kỳ dư, các quẻ tốn, cấn,
kiền, khôn, đoài, chấn, ắt phân-biệt doanh-khuy cuả mặt
trăng, tức lấy hối, sóc, huyền, vọng cuả mặt trăng đại-biểu
quan-hệ âm-dương tiêu-trưởng, như trong H́nh 24.04, 24.05 và
24.06. Ba h́nh này thuyết-minh âm-dương hỗ-căn, thửa
tiêu-trưởng thủ-quyết nơi vận-chuyển cuả nhật-nguyệt. Đối
với dưỡng-sinh, khí-công thuận-ứng với lư-luận cuả âm-dương.
H́nh 24.04
Thái-Cực Bát-Quái Phương-Vị Đồ
Tham-đồng-khế dùng các quẻ chấn, đoài, kiền, tốn, cấn, khôn,
phân-biệt thay cho các ngày trong tháng âm-lịch, tức
nguyệt-tướng: mùng ba, mùng tám, rằm, mười sáu và hăm ba,
tượng-trưng âm-dương tiêu-trưởng, như nguyên-văn nói:
"Mùng ba hiện ra sáng suả, chấn nhận canh tây-phương, mùng
tám đoài nhận đinh, thượng-huyền ngay ngắn như dây, rằm
kiền-thể thành-tựu, thịnh măn giáp đông-phương, mùng bẩy,
mùng tám Đạo đă đạt, khuất-chiết đê hạ-giáng, muời sáu
chuyển thụ-thống, tốn tân thấy b́nh-minh, cấn trực nơi bính
nam, hạ-huyền hăm ba, khoi6n ất ba-mươi. Đông-bắc chôn thửa
bạn, tiết tận tương thiền-y, kế thể phục-sinh long, nhâm-quư
phối giáp-ất, kiền-khôn quát thủy-chung". Lấy chấn, đoài,
kiền bảo rơ âm xuất, dương nhập, gọi là âm tức dương tiêu,
lấy tốn, cấn, khôn, bảo rơ dương xuất, âm nhập, gọi là âm
tức dương tiêu.
H́nh 24.05 Thái-Cực Bát-Quái Đồ
H́nh 24.06 Nguyệt-Thể Nạp-Giáp Đồ
Tham-đồng-khế c̣n áp-đặt 12 tiêu-tức-quái, cùng là lấy đó mà
tượng-trưng âm-dương tiêu-trưởng cuả một năm, Tham-đồng-khế
lấy các quẻ Phục, Lâm, Thái, Đại-tráng, Quyết, Kiền, Cấu,
Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn phân-biệt đại-biểu riêng rẽ các
tháng Một, Chạp, Giêng, Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bẩy, Tám,
Chín, Mười. Trong đó, các quẻ Phục, Lâm, Thái, Đại-tráng,
Quyết, Kiền, đại-biểu nguyệt-phận làm sáu giờ dương,
tượng-trưng dương tức âm tiêu, các quẻ Cấu, Độn, Bĩ, Quan,
Bác, Khôn đại-biểu nguyệt-phận ắt là giờ âm, tượng-trưng âm
tức dương tiêu, thuật-gia nội-đan lấy âm-dương tiêu-trưởng
ấy mà nắm vững 'chu-thiên hoả-hậu'. Chính như nguyên-văn
nói: "Sóc đán là Phục
X,
dương-khí bắt đầu thông ... ... Lâm
S
lô thi điều, khai-lộ chính-quang ... ... ngửng để thành Thái
K,
cứng mềm đều thịnh, đều từ từ trải qua Đại-tráng
b,
giáp liệt măo-môn ... ... Quyết
k
âm để thoái, dương thăng mà ở đằng trước ... ... Kiền
A
kiện thịnh minh, quảng tứ lân; ... ... Cấu
l
bắt đầu kỷ-tự, thoạt đầu giẵm sương ... ... Độn
alià
đời tiến vị, thâu liễm thửa tinh ... ... Bĩ
L
bế-tắc không thông, mọc mầm chẳng sinh ... ... Quan
T
thửa quyền-lượng, xét t́nh-h́nh trọng-thu ... ... Bác
W
mục nát chi-thể, tiêu-diệt thửa h́nh ... ... Đạo Dịch cùng
ắt phản, quay về Khôn
B
nguyên", tức là đều ấy.
3.
Áp
đặt chu-kỳ tiết-luật
Tham-đồng-khế rất coi trọng chu-kỳ tiết-luật, bất kể
tinh-khí thăng-giáng hoặc vận-chuyển nội-khí, đều là
thăng-giáng có trật-tự, chuyển-vận ứng-thời. Như nội trong
một ngày, lấy tư-ngọ làm mốc, giờ tư ắt khí thăng, giờ ngọ
ắt khí giáng , thăng ắt là dương tức âm tiêu, giáng
ắt âm tức dương tiêu. Nguyên-văn nói: "Tư thích-hợp
hữu-chuyển, ngọ bèn đông-chuyển".
Tức thị:
"Tư nam ngọ bắc, hỗ-tương cương-kỷ, số cửu nhất chung nhi
phục thủy". Nội trong một năm, ắt lấy Phụ-Cấu làm
chung-thủy, tử Phục đến Kiền là dương tức âm tiêu, từ Cấu
đến Khôn là âm tức dương tiêu. Nguyên-văn nói: "Sóc-đán là
Phục, dương-khí bắt đầu thông, ra vào không hại, lập biểu
vi-cương, hoàng-chung kiến tư, triệu bèn lớn đẹp lên", "Cấu
bắt đầu kỷ-tự 'lư sương tối tiên = Đi trên sương trước
tiên', đáy giếng hàn-tuyền, ngọ là Nhuy-tân", tức có thể
thuyết-minh điều đó. Nội-đan-thuật Tham-đồng-khế tức căn-cứ
vào tiết-luật chu-thiên nắm giữ hoả-hậu. Như trong khoảng
một tháng nơi chấn, đoài, kiền thời, nội trong một ngày, từ
giờ tư đến giờ ngọ, nội trong một năm 12 tháng, từ tháng Một
đến tháng Năm, là vùng dương tức âm tiêu, ắt ứng với 'tức
dương-hoả', tức là tăng vậy. Tức nói trong giai-đoạn ấy ứng
ích dương-khí làm chủ. Ngược lại, nội trong một tháng tại
giờ tốn, cấn, khôn, trong khoảng một ngày, từ giờ ngọ đến
giờ tư, một năm 12 tháng nơi tháng Năm đến tháng Một th́ lại
là thời-kỳ âm tức dương tiêu, lại ứng với 'thoái âm-phù',
tức ứng ích âm-khí, thuyết-minh tinh-chỉ cuả Tham-đồng-khế
là hoả-hậu tiến-thoái tất ứng với thời, như nguyên-văn nói:
"Thiên-phù có tiến thoái, truất-tín để ứng-thời ... ...
tiêu-tức ứng chung-luật, thăng-giáng ứng đẩu-khu".
③
Thủy-tổ cuả Nội-đan Khí-công1237
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế', tham tức tam, tam chỉ Chu-Dịch,
Hoàng-Lăo và Lư-hoả; khế là khế-hợp, Tham-đồng-khế tức lấy
Chu-Dịch, cái học Hoàng-Lăo với lư-luận cuả lư-hoả hợp nhất
lại thành một nghiă. Nhân đó, lơi lư-luận cuả Tham-đồng-khế
tại nơi một tiểu-vũ-trụ, đề ra nguyên-tắc hoả-hậu, cùng là
lấy nhân-thể làm một ḷ luyện-đan, từ đó viết thành một bộ
chuyên trước luyện nội-đan cuả Trung-quốc. 'Chu-Dịch
Tham-đồng-khế' sáng-tạo ra một lư-luận luyện nội-đan, thành
ra khuôn mẫu đạo-gia khí-công, là tác-dụng suy-vận trọng yếu
trong công cuộc phát-triển Trung-y khí-công.
Thuật luyện-đan hưng-khởi từ thời-đại Tần Thủy
Hoàng, thư-tịch Đạo-giáo Đan-kinh cũng nương theo mà
phong-khởi, như các đan-kinh trong 'Chính-thống Đạo-tàng' có
ghi chép nhiều, như 'Đan-pḥng Áo-bí', 'Hoàng-đế Cửu Đỉnh
Thần-đan Kinh-quyết', 'Băo Phác Tử
·
Ngoại-đan-luận', đều là nhiệt-trào luyện ngoại-đan cầu thọ.
Lúc 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' năng tại luyện Ngoại-đan thống
chiếm điạ-vị ưu thế, quan-điểm sáng-lập luyện nội-đan (luyện
nội-khí), thành ra một mặt cuả lá cờ nhân-thể
dưỡng-sinh-học, thành ra tỵ-tổ khi-nộí-đan cuả Trung-quốc,
là khiêu-chiến với mê-tín đương thời luyện-ngoại-đan
phục-thạch để cầu trường-sinh bất-lăo.
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' đem hai quẻ kiền-khôn cuả
Chu-Dịch làm đỉnh-lô, tỷ-dụ làm nhân-thể, hai quẻ khảm-ly
làm dược-vật, tỷ-dụ làm tinh-khí cuả con người, tiến-hành
luyện kỷ. Nội-đan cuả 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' áp đặt 'hợp
tinh dưỡng thần' đề ra 'nội để dưỡng kỹ, an tĩnh hư-vô,
nguyên-thể ẩn-minh, nội chiếu h́nh-xu, bế-tắc kỳ đoài, củng
cố hoả-châu, tam quang lục trầm, ôn-dưỡng tử-châu, thị chi
bất kiến, cận nhi dị cầu' là 'trúc cơ luyện kỷ' cuả khí-công
đạo-gia (trúc-cơ = luyện tinh-khí; luyện kỷ = luyện thần),
'phản quang nội chiếu' (nội-thị tương-phối với ư-niệm hợp
vận-khí), công-thuật trọng-yếu tuân-định nền móng lư-luận.
Nhân đó, một quyển sách 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' là viên
minh-châu cuả hệ-liệt Chu-Dịch, là văn-hiến trọng-yếu cuả
khí-công-học.
④
Cống-hiến cuả 'Nguyệt-thể Nạp-giáp'1237
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' lấy thời-không cuả bát-quái
phối-hợp với nhân-thể sinh-vật-chủng tiết-luật, thành ra
hạch-tâm thể-hệ cuả nội-đan, chủ-yếu thể-hiện nơi phối-hợp
cuả nguyệt-thể nạp-giáp với nhân-thể sinh-vật-chủng,
ứng-dụng nơi tu-luyện cuả nhân-thể tinh-khí.
Phép nạp-giáp tuy bắt nguồn từ Tiêu-Cống,
Kinh-Pḥng (Hán Tiêu-thị Dịch-truyện, Tiêu-thị Dịch-lâm),
nhưng lại tường-thuật nơi 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế'. Đối với
khí-công, cống-hiến tối-đại cuả 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' là
phép nạp-giáp cuả Tiêu-thị Dịch-truyện: lấy 12 tiêu-tức-quái
cuả Chu-Dịch kết-hợp với sóc, vọng, doanh, khuy cuả mặt
trăng, lấy đó mà nắm vững tu-luyện hoả-hậu cuả ứng-thời.
Tuân-định nền móng cho tư-tưởng sinh-vật-chủng cho
khí-công-học. Nguyên-lư cụ-thể là 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế'
lấy 12 tiêu-tức-quái cuả Dịch-vỹ, mà ứng với hoả-hậu cuả
năm, tháng, ngày tức 12 quẻ Phục
X,
Lâm S,
Thái K,
Đại-tráng
b,
Quyết k,
Kiền A,
Cấu l,
Độn a,
Bĩ L,
Quan T,
Bác W,
Khôn B
phân-ứng với 12 tháng, phối-hợp với 12 điạ-chi, ắt tháng Một
(giờ tư) là âm-cực, tháng Năm (giờ ngọ) là dương cực. Như
thế là căn-cứ vào âm-dương tiêu-tức cuả một năm với một ngày
đêm mà luyện chu-thiên hoả-hậu cuả nội-đan. Ngoài ra,
phối-hợp sóc-vọng, viên-khuyết cuả nguyệt-thể, nắm vững
luyện-đan hoả-hậu cuả một tháng, nguyên-tinh sinh thời th́
dùng vũ-hoả, nguyên-thần sinh thời th́ dùng văn-hoả,
mục-đích ở tại thẩm-sát tiêu-tức, nắm vững tư-sinh và
nội-liễm cuả tinh-khí.
Nguyên-văn như: "Sóc đán là Phục
X,
dương-khí bắt đầu thông, ra vào không hại, lập biểu
vi-cương, hoàng-chung kiến tư, triệu bèn lớn đẹp lên, bá thi
nhu noăn (truyền–bá, thi-hành mềm ấm), lê thừa đắc thường
(); Lâm
S,
lô thi điều (), khai-lộ chính-quang, quang-huy tẩm tiến (),
nhật dĩ ích trường (), đại-lă cuả sửu, kết chính đê ngang
(), ngửng lên thành Thái
K,
cứng mềm thịnh-tiến, âm-dương giao-tiếp, bé đi, lớn lại,
phúc trăn nơi dần (), vận nhi xu thời (); tiệm lịch
Đại-tráng
b,
giáp; liệt măo-môn, du-lai trụy-lạc (), hoàn quy bản căn (),
h́nh-đức tương-phụ (h́nh-đức đánh bại nhau), ngày đêm bắt
đầu phân ly; Quyết
k
âm để thoái, dương thăng mà ở đằng trước, tẩy trạc vũ cách,
chấn sách túc trần (); Kiền
A
dựng thịnh-minh, quảng bị tứ lân (), dương kết thúc nơi tỵ,
trung mà tương-can; Cấu
l
bắt đầu kỷ-tự, lư sương tối-tiên, tấn để hàn-tuyền (đi xuống
đáy hoàng-tuyền), ngọ là Nhuy-tân, tân phục-tùng nơi âm, âm
là chủ-nhân; Độn
a
dời thế-vị, thâu liễm thửa tinh, ôm đức chờ thời, thê-tŕ
muội minh (); Bĩ
Lbế-tắc
không thông, nẩy mộng mà không sinh, âm sinh dương truất,
một dương tính-danh (); Quan
T
thửa quyền-lượng, sát trọng-thu t́nh, nhiệm súc vi trĩ (),
lăo khô phục vinh (), tề mạch nha nghiệt, nhân mạo dĩ sinh;
Bác
W
lạn chi thể, tiêu-diệt thửa h́nh, hoá-khí kư kiệt, vong thất
chí thần; đạo cùng ắt phản, quay về nơi Khôn
B
nguyên, hằng thuận điạ-lư, thừa thiên bố-tuyên, nguyên-viễn
u-diểu, cách ngại tương liên, ứng độ dục chủng, âm-dương chi
nguyên, liêu khuếch hoảng-hốt (), mạc tri kỳ đoan, tiên mê
thất quỹ, hậu vi chủ quân. Vô b́nh bất pha, đạo chi tự
nhiên, biến dịch canh thịnh, tiêu-tức tương nhân, chung khôn
thủy phục, như tuần liên-hoàn, đế-vương thừa ngự, thiên-thu
thường tồn". Để kịp Chấn
s
xuất là chinh, dương khí tạo-đoan; sơ-cửu tiềm long; dương
dĩ tam lập, âm dĩ bát thông, cho nên ba ngày chấn
s
động, tám ngày đoài
zdi-hành,
cửu-nhị hiện long, hoà-b́nh hữu minh; tam ngũ đức tựu, Kiền
thể bèn thành, cửu tam tịch dịch, khuy chiết thần-phù,
thịnh-suy tiệm cách, chung hoàn kỳ sơ; tốn kế kỳ thống, cố
tế thao-tŕ, cửu tứ hoặc dược, tiến-thoái đạo nguy, Cấn
t
chủ tiến chỉ, bất đắc du thời, nhị-thập-tam nhật, điển thủ
huyền kỳ; cửu-ngũ phi-long, thiên-vị gia hỉ; lục-ngũ Khôn
Bthừa,
kết quát chung thủy, uẩn-dưỡng chúng tử, thế vi loại mẫu,
dương-số dĩ ngật (dương-số đă tính xong), ngật tắc phục khởi
(), suy t́nh hợp tính, chuyển nhi tương dữ. Thượng-cửu kháng
long, chiến-đức vu dă, dụng cửu phiên-phiên, vi đạo quy-củ,
tuần cứ tuyền-cơ, thăng-giáng thượng-hạ, chu-lưu lục-hào,
nan đắc sát đổ, cố vô thường-vị, vi dịch tông-tổ".
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' luyện nội-đan, án-chiếu
sinh-vật-chủng nơi khoảng tư-ngọ hoặc trong thời khoảng
sóc-vọng mà thể-dược; giờ tư, muà đông, thời-kỳ nguyệt-hối
'tiến dương hoả'; mà nơi giờ ngọ, muà hè, lúc nguyệt-hối
'thoái âm-phù'. Cái gọi là thể-dược chỉ sơ-kỳ luyện-đan,
khảm-ly giao-thái, tụ tinh-khí nơi đan-điền, là bước đầu
nội-đan. Cái gọi là 'tiến dương hoả', ắt hút khí thăng
đốc-mạch, là bước thứ nh́ nội-đan, mà 'thoái âm-phù' ắt là
thở khí giáng nhâm-mạch, là bước thứ ba nội-đan, ba bước
hoàn-thành, nhâm-đốc quán-thông, ắt vận-khí một chu-thiên,
lại gọi là tiểu-chu-thiên.
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' kể trên, lấy lư-luận nguyệt-thể
nạp-giáp, về mặt khí-công sinh-vật-chủng có khải-thị
quan-trọng, như hậu-thế đề ra ba giờ dần-măo-th́n (sáng sớm
khoảng 4-8 AM, về muà xuân), dương-khí sơ-sinh, nhân
tác-động-công để trợ dương-khí thăng-phát; ba giờ
thân-dậu-tuất (hoàng hôn khoảng 4-8 PM, về muà hè), là lúc
âm-khí sinh-trưởng, ứng làm tĩnh-công để trợ dương-khí
nội-liễm, âm-khí sinh-trưởng, khiến cho hiệu-suất khí-công
tăng cao nhiều.
Khai-sơn cuả Khí-công Vận-khí Công-pháp
'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' vay mượn luận-thuật luyên
nội-đan, lấy nhân-thể làm đỉnh-lô. Thông qua quá-tŕnh h́nh
thành cuả nội-đan, luận-thuật được nguyên-lư âm-dương
giao-hợp, thủy-hoả thăng-giáng trong quá-tŕnh luyện
nội-đan, vạch ra đường lối vận hành nguyên–khí cuả
nhân-thân. Cùng uẩn-hàm được hiện-tượng chuyển-hoá cuả
sinh-vật-trường, ngụ-tàng được áo-bí cuả sinh-mệnh nhân-thể,
là khí-công-học đă phát-triển được tác-dụng suy-vận một cách
kiến-hiệu.
Thượng Thiên cuả 'Chu-Dịch Tham-đồng-khế' áp-đặt
lư-luận 'biến-động bất cư, chu-lưu lục-hư = biến-động chứ
không ở yên, đi ṿng quanh sáu cơi' cuả Hạ-Hệ VIII/1, đề ra
'chu-lưu hành lục-hư'.
*
* *
Xem
Kỳ 196
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|