HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
CHƯƠNG
24
DỊCH - DỤNG
易
用
(Tiếp
theo Kỳ 185)
ỦY LẠO TỬ
尉缭子
Sách này gồm 24 chương ngắn:
-
Chương I: Thiên-Quan
天官
(Heavenly Positions)
-
Chương II: Binh-Đàm
兵談
(Military
Discussion)
-
Chương III:
Chế-Đàm
制談
(Discussion
of Regulation & System)
-
Chương IV:
Chiến-Uy
戰威
(Combat Awesomeness)
-
Chương V:
Công-Quyền
攻權
(Tactical Balance of
Power in Attack)
-
Chương VI:
Thủ-Quyền
守權
(Tactical Balance of
Power in Defence)
-
Chương VII:
Thập-Nhị Lăng
十二陵 (Twelve
Cultivation)
-
Chương VIII:
Vũ-Nghị
武議
(Military Discussion)
-
Chương IX:
Tướng-Lư
將理
(General as Officer of
Law)
-
Chương X:
Nguyên-Quan
原官
(Officers & Ruler)
-
Chương XI:
Trị-Bản
治本
(Foundations of
Governance)
-
Chương XII:
Chiến-Quyền
戰權
(Tactical Balance of
Power in Warfare)
-
Chương XIII:
Trọng-H́nh Lệnh
重刑令 (Heavy
Punishment)
-
Chương XIV:
Ngũ-Chế Lệnh
伍制令 (Army
Organizations)
-
Chương XV:
Phân-Cơ Lệnh
分塞令 (Exit
and Entry)
-
Chương XVI:
Thúc-Ngũ Lệnh
束伍令 (Reward
& Punishment in War)
-
Chương XVII:
Kinh Tốt Lệnh
經卒令 (Regulating
& Ordering the Troops)
-
Chương
XVIII:Lặc Tốt Lệnh
勒卒令 (Regulating
Movement of Troops)
-
Chương XIX:
Tướng Lệnh
將令
(Orders of General
Before Start of War)
-
Chương XX:
Chủng Quân Lệnh
踵軍令 (Vanguards)
-
Chương XXI:
Binh-Giáo Thượng
兵教上 (Military
Instructions I)
-
Chương XXII:
Binh-Giáo Hạ
兵教下 (Military
Instructions II)
-
Chương XXIII:
Binh-Lệnh Thượng
兵令上 (Army
Orders I)
-
Chương XXIV:
Binh-Lệnh Hạ
兵令下 (Army
Orders II)
LỤC THAO
六 韜
Sách Lục-Thao cuả Khương Tử-Nha gồm 6 thiên (60 Chương):
Văn-Thao, Vũ-Thao, Long-Thao, Hổ-Thao, Báo-Thao,và
Khuyển-Thao.
Đệ-nhất Thiên: Văn-Thao第一篇 文韜
Văn Sư Đệ-nhất
文師第一
Doanh-hư Đệ-nhị
盈虛第二
Quốc-Vụ Đệ-tam
國務第三
Đại-lễ Đệ-tứ
大禮第四
Minh-truyền Đệ-ngũ
明傳第五
Lục-thủ Đệ-lục
六守第六
Thủ-thổ Đệ-thất
守土第七
Thủ-quốc Đệ-bát守國第八
Thượng-hiền Đệ-cửu
上賢第九
Cử-hiền Đệ-thập舉賢第十
Thưởng-phạt Đệ-thập-nhất
賞罰第十一
Đệ-nhị Thiên: Vũ-Thao第二篇 武韜
Phát-khải Đệ-thập-nhị
發啟第十二
Văn-khải Đệ-thập-tam
文啟第十三
Văn-phạt Đệ-thập-tứ
文伐第十四
Thuận-khải Đệ-thập-ngũ
順啟第十五
Binh-đạo Đệ-thập-lục
兵道第十六
Tam-nghi Đệ-thập Thất
三疑第十七
Đệ-tam Thiên: Long-Thao第三篇 龍韜
Vương-dực Đệ-thập-bát
王翼第十八
Luận Tướng Đệ-thập-cửu
論將第十九
Tuyển Tướng Đệ-nhị-thập
選將第二十
Lập Tướng Đệ-nhị-thập-nhất
立將第二十一
Tướng Uy Đệ-nhị-thập-nhị
將威第二十二
Lệ Quân Đệ-nhị-thập-tam
勵軍第二十三
Âm-Phù Đệ-nhị-thập-tứ
陰符第二十四
Âm-Thư Đệ-nhị-thập-ngũ
陰書第二十五
Quân-Thế Đệ-nhị-thập-lục
軍勢第二十六
Kỳ-Binh Đệ-nhị-thập-thất
奇兵第二十七
Ngũ-Âm Đệ-nhị-thập-bát
五音第二十八
Binh-Trưng Đệ-nhị-thập-cửu
兵徵二十九
Nông-Khí Đệ-tam-thập
農器第三十
Đệ-tứ Thiên: Hổ-Thao第四篇 虎韜
Quân-Dụng Đệ-tam-thập-nhất 軍用第三十一
Tam-Trận Đệ-tam-thập-nhị
三陣第三十二
Tật-Chiến Đệ-tam-thập-tam
疾戰第三十三
Tất-Xuất Đệ-tam-thập-tứ
必出第三十四
Quân-Lược Đệ-tam-thập-ngũ
軍略第三十五
Lâm-Cảnh Đệ-tam-thập-lục
臨境第三十六
Động-Tĩnh Đệ-tam-thập-thất
動靜第三十七
Kim-Cổ Đệ-tam-thập-bát 金鼓第三十八
Tuyệt-Đạo Đệ-tam-thập-cửu 絕道第三十九
Lược-Điạ Đệ-tứ-thập
略地第四十
Hoả-Chiến Đệ-tứ-thập-nhất火戰第四十一
Lũy-Hư Đệ-tứ-thập-nhị
壘虛第四十二
Đệ-ngũ
Thiên: Báo-Thao第五篇 豹韜
Lâm-Chiến
Đệ-tứ-thập-tam
林戰第四十三
Đột-Chiến
Đệ-tứ-thập-tứ
突戰第四十四
Địch-Cường
Đệ-tứ-thập-ngũ
敵強第四十五
Địch-Vũ
Đệ-tứ-thập-lục
敵武第四十六
Ô-Vân-Sơn-Binh
Đệ-tứ-thập-thất
烏雲山兵第四十七
Ô-Vân-Trạch-Binh
Đệ-tứ-thập
烏雲澤兵第四十八
Thiểu-Chúng
Đệ-tứ-thập-cửu
少眾第四十九
Phân-Hiểm
Đệ-ngũ-thập
分險第五十
Đệ-Lục
Thiên: Khuyển-Thao第六篇 犬韜
Phân-Hợp
Đệ-ngũ-thập-nhất
分合第五十一
Vũ-Phong
Đệ-ngũ-thập-nhị
武鋒第五十二
Luyện-Sĩ
Đệ-ngũ-thập-tam
練士第五十三
Hiếu-Chiến
Đệ-ngũ-thập-tứ
教戰第五十四
Quân-Binh
Đệ-ngũ-thập-ngũ
均兵第五十五
Vũ-Xa-Sĩ
Đệ-ngũ-thập-lục
武車士第五十六
Vũ-Kỵ
Đệ-ngũ-thập-thất
武騎士第五十七
Chiến-Xa
Đệ-ngũ-thập-bát
戰車第五十八
Chiến-Kỵ
Đệ-ngũ-thập-cửu
戰騎第五十九
Chiến-Bộ
Đệ-lục-thập
戰步第六十
HOÀNG-THẠCH-CÔNG TAM LƯỢC
黃
石
公
三
略
Tam-Lược nguyên danh là Hoàng Thạch Công Tam-Lược, là một
binh-thư trứ-danh cuả Trung-quốc thời cổ. Sách này chú-trọng
vào sách-lược chính-trị để xiển-minh đạo dùng binh giữ nước.
Binh-thư này chuyên luận chiến-lược. Triều Công-Vũ thời
Nam-Tống phê-b́nh: "Luận-dụng kỳ-diệu cuả binh-cơ, xác-quyết
nghiêm-minh ba quân có thể chuyển chết thành sống, nước có
thể đổi c̣n ra mất".
Sách (chừng hơn 3800 chữ) hoàn-thành cuối đời
Tây-Hán, thời-kỳ Vương-Măng soán-quyền. Sách gồm ba phần:
Thượng-lược, Trung-lược và Hạ-lược. Thượng-lược thiết-lập
lễ-thưởng, phân-biệt gian-thần, luận rơ thành-bại.
Trung-lược hiệu-sai đức-hạnh, thẩm xét quyền-biến,
sách-lược, quyệt-kỳ (quyệt-biến xuất-kỳ) và âm-mưu. Hạ-lược
tŕnh-bầy đạo-đức, thẩm-sát an-nguy, phân-biệt tặc-hiền.
TƯ-MĂ PHÁP
司 馬 法
Tư-mă Pháp c̣n gọi là Tư-mă Binh-pháp
司馬兵法hay
Tư-mă Nhương-Tư Binh-pháp
司馬穰苴兵 法.
Học-giả lịch-đại mỗi người một ư. Có người cho là ngụy-thư.
Có người lại cho đây là một số sách khác nhau. Sách ghi lại
quân-lễ, quân-pháp Trung-quốc thời cổ.
Sách gồm có 5 thiên:
-
Nhân-Bản Đệ-nhất
仁本第一
(Benevolence as Foundation)
- Thiên-tử chi Nghiă Đệ-nhị天子之義第二
(Duty of the Son of Heaven)
- Định-Tước Đệ-tam
定爵第三
(Determining Ranks)
- Nghiêm-vị Đệ-tứ嚴位第四
(Formational Discipline)
- Dụng-Chúng Đệ-ngũ
用眾第五
(Employing Masses)
ĐƯỜNG THÁI-TÔNG/LƯ VỆ CÔNG VẤN-ĐỐI
唐 太 宗 李 衛 公 問 對
Đường Thái-Tông Lư-Vệ-Công Vấn-đối cũng gọi là Lư-Vệ-Công
Vấn-đối, gọi tắt là Đường-Lư Vấn-đối. Cựu-đề: do Lư-Tĩnh
soạn. V́ Tân-Cựu Đường Thư đều không thấy chép, nên nhiều
người ngờ rằng đây là một ngụy-tác. Bọn Trần Sư-Đạo Đời
Bắc-Tống cho là do Tống-nhân Nguyễn-Dật ngụy-thác. Mă
Đoan-Lâm đời Nguyên cho rằng nhóm Vương-Chấn hiệu-chính dưới
triều Tống Thần-Tông Hi-ninh. Hiện nay đa-số các học-giả cho
là sách tập-lục tư-tưởng quân-sự cuả Đường Thái-Tông và
Lư-Vệ-Công. Nội-dung sách bao quát các vấn-đề quân-chế,
trận-pháp, huấn-luyện, biên-pḥng, nhưng chủ-yếu vẫn là
thảo-luận chỉ-huy tác-chiến.
Sách chia làm 3 quyển: Thượng, Trung, Hạ, bao gồm 98
vấn-đáp. Quyển Thượng bàn về quan-hệ Kỳ-chính (chính-thường
và đặc-thù). Quyển Trung bàn về diễn-luyện và thực-chiến cuả
các loại trận-thức. Quyển Hạ luận-thuật nguyên-tắc chỉ-huy
cùng là chiến-lệ tác-chiến.
Sách này nghiên-cứu phương-pháp chiến-tranh bằng cách
tường-cử chiến-lệ và cụ-thể-hoá lư-luận quân-sự. Cách-thức
này dẫn-dụng việc Mă-Long cuả triều Tây-Tấn thảo-phạt
Kinh-Châu, sử-dụng chiến-thuật Bát-trận-đồ, Thiên-phù-xa, là
điều cổ-nhân vốn dĩ quư-trọng chính-binh. Hoặc giả trước
lư-luận rồi sau mới xiển-minh bằng chiến-lệ, như Lư-Tĩnh
xiển-thuật nguyên-tắc đối-phân-hợp tác-chiến.
Ngoài ra, sách này khai triển sách 'Tôn-tử Binh-pháp' về các
đề-mục: kỳ-chính, công-thủ, hư-thực, chủ khách. Chú-trọng
đến tranh-thủ thế chủ-động tác-chiến, và cũng nhấn mạnh đến
bố-liệt trận-pháp, quân-chế thời cổ, và nguyên-lưu binh-học.
TOÁN-KINH THẬP THƯ
算 經 十 書
Toán-kinh Thập Thư đă từng được dùng làm giáo-tài khoa-cử
đời Đường. Đến đời Tống thấy khó quá nên mới bị loại bỏ. Vua
Càn-long cho thâu nhập vào 'Tứ Khố Toàn Thư'.
-
Chu Bễ Toán Kinh
周髀算經,
không biết tác-giả, Triệu Sảng
趙爽
(tự Quân-khanh) chú, Chân Loan
甄鸞
thuật. Đây là sách nói về Thiên-văn Lịch-toán, tức thị cắt
nghĩa Thiên-văn Cái Thiên và Lịch Tứ-phân.
Toán-gia Anh-Quốc
Christopher Cullen phân sách thành 11 phần. Tiền Bửu Tông
căn-cứ vào nội-dung sách dẫn-dụng lịch Tứ-phân, nghiệm ra
rằng sách phải viết trước năm Hán-vũ-đế đổi sang Lịch
Thái-sơ và v́ có đề-cập 24 tiết-khí của Hoài-nam-tử nên
kết-luận là sách được viết khoảng năm 100 BC.
Thú-vị nhất là chuyện
Văn-Vương hỏi Thương Cao là ngày xưa Vua Phục-hi không có
thang bắc lên Trời mà làm sao đo được các góc độ trên
thiên-cầu? Câu chuyện ấy như sau:
Ngày xưa
Chu Công hỏi Thương Cao
商高rằng: "Ta nghe nói
Ngài giỏi tính toán, xin hỏi là thuở xưa Vua Phục-hi không
có thang bắc lên Trời mà làm sao đo được các góc độ trên
thiên-cầu?"
Thương Cao đáp: "Phép toán dựa vào ṿng tṛn và h́nh vuông.
Giả thử ta lấy hai cạnh cuả góc vuông dài 3 và 4 đơn-vị.
Cạnh huyền sẽ dài 5 đơn-vị. Ta thử vẽ hai tam giác vuông góc
trên cạnh huyền này".
Bốn tam-giác nhỏ diện-tích tổng cộng là 4 x 3 x 4/2 = 24,
cộng với h́nh vuông nhỏ diện tích 1 nữa là 25 tức thị
b́nh-phương cuả cạnh huyền (52 = 25).
Phương-pháp này được Vua Vơ dùng để trị-thủy.
-
Cửu Chương Toán Thuật
九章算術, Tây-Hán
·
Trương Thương
張蒼
và Cảnh Thọ Xương
耿壽昌biên-định, Ngụy
· Lưu Huy
劉徽chú, bao hàm các môn Toán-thuật Áp-dụng, Đại-số và
H́nh-hoc đời nay.
Lưu Hy gọi tứ-diện
là miết-nao
鱉臑
(chân trước con ba-ba). Ông chia một tứ-diện thành những
h́nh lập-phương vi-phân để chứng minh là hai tứ-diện
(tetrahedron) có cùng diên-tích đáy và cùng chiều cao, th́
thể-tích bằng nhau.
Một điểm son của Lưu Huy là vào thế kỷ thứ tư
Công-nguyên ông đă đề-cập bài Toán thứ ba của David Hilbert
mà Toán-gia này đă tŕnh bầy trước hội-nghị Toán-học tại
Paris năm 1900 với phân-đề:
Die Volumengleichheit
zweier Tetraeder von gleicher
Grundfläche und Höhe.
Give two
tetrahedra that cannot be decomposed into congruent tetrahedra directly or by
adjoining congruent tetrahedra. Dehn (1900, 1902) showed
that a regular tetrahedron cannot be decomposed into a
finite number of congruent tetrahedra (directly or by
joining congruent tetrahedra) which can be reassembled to
make a cube. It follows immediately from this result that
two tetrahedra cannot be decomposed, as Hilbert proposed.
-
Hải Đảo Toán Kinh
海島算經,
Lưu Huy
劉徽 soạn, xoay quanh bài toán
Trùng-sai kiểu tính xem một quản núi cao bao nhiêu và cây
tiêu thẳng đứng đằng xa cách người quan-sát bao xa?
Vd: Một người quan-sát một hải-đảo từ xa, bèn
dựng hai cột cùng có chiều cao là ba trượng, trồng cách nhau
là 1000 bộ. Từ cột trước đi 123 bộ, nh́n xuống sẽ thấy gốc
cột ở xa trùng với đỉnh đảo. Từ cột sau đi 127 bộ, nh́n
xuống sẽ thấy gốc cột ở xa trùng với đỉnh đảo.
Hỏi hải-đảo cao bao nhiêu và cột ở
xa, cách bao xa?
Đáp-số: đảo cao 4
dặm 55 bộ; cột ở xa 102 dặm 150 bộ (kiểm!). Rức cái
đầu!
Cước-chú:
1 dặm = 300 bộ = 1800 thước; 1 trượng = 10 thước.
-
Tôn-tử Toán Kinh
孫子算經:
Chu Di Tôn cho rằng tác-giả sách này là nhà quân-sự Tôn Vũ
cuối đời Xuân Thu; Đới Chấn thấy trong sách nói đến Trường
An, Lạc-dương và sách Phật phủ-định thuyết của họ Chu;
Tiền Bửu Tông cho rằng sách được viết khoảng năm 400. Đây
là một sách dạy vỡ ḷng Toán thời xưa.
Vd:
Một nhà có ba con gái. Trưởng-nữ 3 ngày về nhà một lần;
trung-nữ 4 ngày về nhà một lần và thiếu-nữ 3 ngày về nhà một
lần (The Remainder’s Theorem of Abstract Algebra).
Hỏi ba chị em ấy mấy ngày nữa mới
gặp nhau sau lần gặp đầu?
Đáp-số: 60 ngày.
It’s elementary, Mr. Watson!
-
Hạ-hầu Dương Toán
Kinh
夏侯陽算經,
Đường
· Hàn Diên
韓延
soạn. Sách được viết ra thời Nam-Bắc-triều (420-589) trở
về trước. Sách dạy về phép nhân chia số nguyên và phân-số
trên cùng một hàng, tính cách đong-lường và cân-lường,
tính thuế-khoá, trả lương, luận số bước mỗi thời mỗi khác.
-
Trương Khâu Kiến
Toán Kinh
張丘建算經,
Bắc-Ngụy
· Trương Khâu
Kiến soạn. Sách tập trung 92 đề toán nói về nhân chia cùng
là bội-số chung nhỏ nhất và ước-số chung lớn nhất. Đưa ra
lời giải cụ-thể cho các bài toán giả thử tạm.
Vd:
Một khối gỗ lập-phương cạnh 3 thước cưa ra được 125 chiếc
gối lập-phương. Hỏi cạnh chiếc
gối dài bao nhiêu?
Đáp-số: 6 tấc. It’s
elementary, Mr. Watson!
-
Chuế Thuật綴術,
Nam-Tề
·
Tổ Xung Chi
祖沖之 soạn. Sách đă
thất-truyền như đă nói ở trên.
-
Ngũ Tào Toán Kinh
五曹算經,
Bắc-Chu
· Chân Loan
甄鸞
soạn.
Chân Loan, tự Thúc-đạo, làm Tư-lệ Hiệu-uư, quận-thú
Hán-trung nên viết về toán-thuật liên-quan đến hành-chánh
châu-quận là dĩ nhiên, không có ǵ để nghi-ngờ nữa. Ông soạn
sách này để tính toán 5 chuyện: điền-tào (tính diện-tích
ruộng đất h́nh chữ nhật, h́nh thang, h́nh tṛn và h́nh vành
khăn; c̣n các h́nh khác, sách tính sai bét), binh-tào
(giải-quyết vấn-đề cấp dưỡng cho binh lính), tập-tào
(ứng-dụng vào việc đổi chác lúa gạo), thương-tào (giải-quyết
vấn-đề trưng-thâu lương-thực, chuyên-chở và tồn-kho), và
kim-tào (giải-quyết vấn-đề đổi chác tơ lụa và tiền-tệ). Có
một điều thú-vị là trong bài "Phép nhân chia nhanh khi
so-sánh diện-tích ruộng đất". Năm Ất-hợi (1275), toán-gia
Nam-Tống Dương Huy mà ta đă gặp khi đề-cập tam-giác Pascal,
có vạch ra các sai-lầm trong sách và đề ra bài sửa rất
chính-xác và mạch-lạc.
-
Ngũ Kinh Toán-thuật
五經算術,
Bắc-Chu
· Chân Loan
甄鸞
soạn. Sách giải các toán-đề gặp trong Kinh Thư,
Hiếu-kinh, Kinh Thi, Kinh Dịch, Luận-ngữ, Tam-Lễ (tức Chu
Lễ, Lễ-kư và Nghi-lễ) và Kinh Xuân Thu.
Khác biệt giữa các lời chú bài Phạt Đàn của Mao Hanh và
Trịnh Huyền: (Kinh
Thi,
Tiểu Nhă, Ngụy Phạt, Ngư Tiệm,
008, tr.
146-7;
078, tr.
500a).
Bất giá bất sắc, hồ thủ hoà tam bách triền hề. Bất thú bất
lạp, hồ chiêm nhĩ đ́nh hữu huyền đặc hề. 不稼不穡,胡取禾三百廛兮?不狩不獵
,胡瞻爾庭有懸特兮?Không
cầy cấy, không gặt hái, làm sao thu hoạch được ba trăm mẫu
bách-cốc? Không săn bắn cá-nhân hay tập-thể, làm sao
thấy được con hoan
獾
ba tuổi treo nơi sân ngươi? Chú rằng: "Vạn vạn là ức, thú ba
tuổi gọi là đặc". Tiên rằng: "Mười vạn là một ức. Ba trăm ức
là số bó bách-cốc vậy".
Chân Loan Án:
Hoàng-đế đặt ra phép số thập-phân, gọi là: ức, triệu, kinh,
cai, tỷ. nhưỡng, câu, giản, chính, tái. Khi dùng lại chia
thành ba hạng: thượng, trung, hạ (ứng với đại-số, trung-số
và tiểu-số). Hạ-số cứ tăng hàng chục một. Như nói, mười vạn
là ức, mười ức là triệu, mười triệu là kinh. Trung-số cứ
tăng hàng vạn một. Như nói, vạn vạn là ức, vạn vạn ức là
triệu, vạn vạn triệu là kinh. Thượng-số, số cùng ắt biến.
Như nói, vạn vạn là ức, ức ức là triệu, triệu triệu là kinh.
Nói như thế, họ Trịnh dùng hạ-số, c̣n họ Mao dùng trung-số.
Luận-giả án:
Trong Hoàng Cực Kinh Thế Thiệu-tử cũng dùng trung-số.
Sách-số của Chu Dịch: (008,
tr. 80c)
Phàm thiên địa chi số ngũ thập hựu ngũ, thử sở dĩ
thành biến-hoá nhi hành quỷ-thần dă. Kiền chi sách nhị bách
nhất thập hựu lục, Khôn chi sách bách tứ lục hựu
tứ, phàm tam bách hựu lục-thập đương kỳ chi nhật. Nhị
thiên chi sách, vạn hựu nhất thiên ngũ bách nhị thập,
đương vạn-vật chi số dă. Thị cố tứ doanh nhi thành Dịch,
thập hựu bát biến nhi thành quái, bát-quái nhi tiểu
thành. Dẫn nhi thân chi, xúc loại nhi trưởng chi, thiên-hạ
chi năng sự tất hĩ. (Hệ-từ Thượng-truyện, IX/1, 3, 4, 5, 6,
7).
凡天地之策五十有五。此所以成變化而行鬼神也。乾之策。二百一十有六。坤之策。百四十有四。凡三百有六十。當期之日。二篇之策。萬有一千五百二十。當萬物之數也。是故四營而成易。十有八變而成卦。引二伸之。觸類而長之天下之能事畢矣。
Số của trời đất là 55: nhờ đó mà sinh ra biến-hoá và
hành-động như quỷ-thần.
Sách-số quẻ Kiền là
216; sách-số quẻ Khôn là 144. Vị chi là 360, ám-hợp với số
ngày trong một năm b́nh-dân. Tổng-sách-số của hai thiên
Thượng Hạ Kinh Dịch là 11520, kháp-hợp với số vạn của
vạn-vật. Cho nên bốn lần chia cỏ thi mà thành biến-dịch, 18
lần biến mà thành quẻ, tám
quẻ mà tiểu-thành
(Sở dĩ nói
như vậy là v́ tuy thành Dịch nhưng chưa được hoàn-bị).
Dẫn mà suy-diễn ra, tiếp-súc với từng loại mà khai-triển ra,
th́ vạn-sự hay trong thiên-hạ đều hoàn-tất được vậy.
Chân-Loan Án chỉ tầm thường nên không chép vào đây.
10. Tập Cổ Toán
Kinh
緝古算經,
Đường
·
Vương Hiếu-Thông soạn và chú, gồm 4 quyển.
Chủ yếu
là tính toán về đắp đê. Từ thể-tích suy ra chiều dài cuả đê.
Sách đưa ra một lối giải một hệ thống ba hoặc bốn
phương-tŕnh bậc nhất.
(073,
tr. 428) Một kho trên nhỏ dưới lớn, trên dưới sai nhau 6
thước. Hạ-phương cao hơn thượng-phương 9 thước. Phần trên
chứa được 187 thạch 2 đấu luá, nay đă xuất kho 50 thạch 4
đấu. Hỏi: thượng-phương, hạ-phương cao bao nhiêu thước, và
thóc tồn kho cao bao nhiêu thước?
Đáp:
thượng-phương = 3 thước; hạ-phương = 9 thước; cao 1 trượng 2
thước, thóc tồn-kho, trên dưới đều sâu 6 thước.
10Bis.
Số-Thuật Kư-Di
數術記遺
(073, tr. 443-458), Đông-Hán
·
Từ-Nhạc soạn, Bắc Chu
· Chân-Loan chú.
Gồm 14
phép tính là: Tích Toán, Thái-nhất, Lưỡng-nghi, Tam-tài,
Ngũ-hành, Bát-quái, Cửu-cung, Vận-trù, Liễu-tri, Thành-số,
Bả đầu, Quy-toán, Châu-toán, và Kế-số.
Ta mộ
thuật này, e sẽ di-vong, nên chép vào sách cho hậu sinh
hiếu-sự.
MƯU-KẾ
Mưu-kế là phương-sách quân-sự. Điển-h́nh là 'Tam Thập Lục
Kế'
三十六計
tức 'Tam Thập Lục Sách'
三十六策
gồm
sáu chương, mỗi chương có 6 kế-sách. Đó là sách-lược cổ-đại
cuả Trung-quốc, gọi nôm na là chước, như trong câu Kiều:
Thừa cơ lẻn bước ra đi,
Ba mươi sáu chước, chước ǵ là hơn?
Năm 2003, Quách Khắc Nghiă phát-hiện được một ngọc-giản Đời
Tùy cuả sách này tại di-chỉ Tế-ninh.
Lư-luận cuả sách đôi khi dựa trên
Kinh Dịch (27 điều trong 22 quẻ): như kế số 4 dùng Thoán-từ
quẻ Tổn
(Tổn
ích nhu hữu thời損
益柔有時
=
Bớt chỗ cứng, thêm chỗ
mềm cùng có thời),
kế số 5 dùng tượng-từ
quẻ Quyết (剛決柔也。=
Cứng quyết mềm vậy), kế số 6 dùng quẻ Tụy (Tụy bất ngu. Khôn hạ Đoài thượng Tụy
chi tượng, lợi kỳ bất tự-chủ nhi thủ chi萃不虞。坤下兑上之象,利其不自主而取之。=
Tụy Không vui. Khôn dưới Đoài trên là tượng quẻ Tụy, lợi ở
chỗ tự-chủ mà chiếm lấy), kế số 14 dùng Thoán-từ quẻ Mông
(Phỉ ngă cầu đồng mông, đồng mông cấu ngă.
匪
我求童蒙,童蒙求我 =
Không phải ta t́m trẻ thơ mà trẻ thơ t́m ta), kế số 15 dùng
hào-từ lục-tam quẻ Kiển (Văng Kiển lai phản.
往蹇來返。=
Như thể tiến đi th́ mắc kiển nạn, trở lại th́ được yên ổn),
kế số 15 dùng hào-từ lục-nhị quẻ Tỷ
(比之自内
=
Như thể tự trong mà gần gũi ra ngoài), kế số 15 dùng
tiểu-tượng-từ hào lục-ngũ quẻ Mông (Đồng Mông chi cát, thuận
dĩ Tốn dă.
童蒙之吉,顺以巽也。=
Sự tốt cuả trẻ thơ ngây, là thuận nghe vậy), kế số 15 dùng
hào-từ cửu nhị quẻ Sư (Tại Sư trung, cát, vô-cữu.
在師中吉,无咎,=
Như ở trong quân, có đức trung th́ tốt, không lỗi), kế số 15
dùng-tiểu-tượng-từ hào lục-tứ quẻ Sư (Sư tá thứ, vô cữu.
Vị thất thường dă.
師左次,无咎。未失常也。=
Quay trở về, không lỗi, là chưa mất đạo thường vậy), kế số
16 dùng quẻ Thoán-từ quẻ Nhu (Nhu, hữu phu, quang hanh.
需,有孚,光亨。
= Chờ đợi có tin tưởng, sáng suả hanh thông), kế số 17 dùng
tượng-từ hào thượng-lục quẻ Khôn (Long chiến vu dă, kỳ đạo
cùng dă.
戰龍於野,其道窮也。= Như
rồng đánh nhau ở đồng nội, là cái đạo đă cùng vậy), kế số 19
dùng quẻ Lư (Đoài hạ Kiền thượng, Lư chi tượng.
兌下乾上之象
= Đoài dưới Kiền trên là
tượng cuả quẻ Lư), kế số 29 dùng hào-từ thượng-cửu quẻ Tiệm
(Hồng Tiệm vu lục, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
鴻漸于陸,其羽可用為儀,吉。=
Như chim hồng bay ở đường mây, lông cuả nó có thể dùng làm
đồ trang-sức, tốt), kế số 24 dùng Thoán-từ quẻ Khổn (Khổn,
hữu ngôn bất tín.
困,有言不信。=
Khổn, có lời mà chẳng tin), kế số 27 dùng quẻ Truân (Vân lôi
Truân dă.
雲雷屯也。=
Vân lôi Truân vậy), kế số 15 và kế số 31 dùng hào-từ cửu-tam
quẻ Tiệm (Lợi ngự khấu.
利御寇,=
Chế-ngự được giặc cướp th́ lợi).
Để
nhớ 'Tam Thập Lục Kế' ta có thể dùng bài thơ ngũ-ngôn sau
đây:
金玉檀公策,Kim
Ngọc Đàn Công Sách
藉以擒劫賊,Tạ
Dĩ Cầm Kiếp Tặc
魚蛇海間笑,Ngư
Sà Hải Gian Tiếu
羊虎桃桑隔,Dương
Hổ Đào Tang Cách
樹暗走痴故,Thụ
Ám Tẩu Si Cố
釜空苦遠客,Phẫu
Không Khổ Viễn Khách
屋樑有美屍,Ốc
Lương Hữu Mỹ Thi
擊魏連滅虢。Kích
Ngụy Liên Diệt Quắc
Trong toàn bài, ngoại trừ 'Đàn
Công Sách'
và
'Diệt Quắc' là 3 và 2 chữ, c̣n ngoài ra mỗi chữ đều đại-diện
1 kế.
Chương
I :: Thắng-chiến-kế
勝戰計
Advantageous Strategies:
1. Man Thiên Quá Hải
瞞天過海 Deceiving
Heaven to Cross the Sea,
2.
Vi Ngụy Cứu Triệu
圍魏救趙 Deceiving
Heaven to Cross the Sea,
3. Tá Đao Sát Nhân
借刀殺人
To
Kill with a Borrowed Knife,
4. Dĩ Dật Đăi Lao
以逸待勞
Conserving energy while enemies tired
out,
5. Sấn Hoả Đả Kiếp
趁火打劫
To loot a house on fire,
6.
Dương Đông Kích Tây揚東擊西
Feign an attack in the east and attack in the
west.
Chương II :: Địch-chiến-kế
敵戰計
Opportunistic Strategies:
7. Vô Trung Sinh Hữu
無中生有
Create something out of nothing,
8. Ám Độ Trần Thương
暗渡陳倉
Secret Passage through Chen Cang,
9. Cách Ngạn Quan Hoả
隔岸觀火
Observing the fire from the other side
of
the river bank,
10. Tiếu Trung Hữu Đao 笑中有刀
A dagger sheathed in a smile,
11.
Lư Đại Đào Cương
李代桃僵
The plum dies in place of the pea
12.
Thuận Thủ Khiên Dương
順手牽羊
Stealing a goat along the way,
Chương III :: Công-chiến-kế
攻戰計
Offensive
Strategies:
13. Đả Thảo Kinh Sà
打草驚蛇
Startle the snake by hitting the grass,
14.
Tá Thi Hoàn Hồn
借屍還魂
Borrowing a corpse to resurrrect a soul,
15. Điệu Hổ Ly Sơn
調虎離山
To
lure a tiger from its mountain lair,
16. Dục Cầm Cô Túng
欲擒故縱
Releasing the enemy only to capture him
later,
17. Phao Chuyên Dẫn Ngọc
拋磚引玉
Tossing out a brick to get a jade
18. Tán Tặc Cầm Vương
賊擒王
Disband the thieves by capturing its
chief,
Chương
IV :: Hỗn-chiến-kế
混戰計
Confusion Strategies:
19. Phẫư Để Trừu Tân
釜底抽薪
To remove the firewood under the cooking pot,
20.
Hỗn Thủy Mạc Ngư
混水摸魚
To fish in muddy water,
21. Kim Thiền Thoát Xác
金蟬脫殼
Golden Cicada shedding the skin,
22. Quan Môn Tróc Tặc
關門捉賊
Shutting the door to catch the bandit,
23. Viễn Giao Cận Công
遠交近攻
Befriend the far and attack the near,
24. Giả Đồ Diệt Quắc
假途滅虢
Borrow a passage to attack Guo.
Chương V :: Tịnh-chiến-kế
並戰計
Deceptive Strategies:
25. Thâu Lương Hoán Trụ
偷樑換柱
Replace the superior beams and pillars with inferior ones,
26. Chỉ Tang Mạ Hoè
指桑罵槐
Pointing the mulberry but scolding the locust tree,
27. Giả Si Bất Điên
假癡不癲
Pretending to be insane while being intelligent,
28. Thượng Ốc Trừu Thê
上屋抽梯
To remove the Ladder after ascending the Roof,
29. Thụ Thượng Khai Hoa
樹上開花
Putting flowers on Tree,
30. Phản Khách Vi Chủ
反客為主
Guest Taking over the Host,
Chương VI :: Bại-chiến-kế
敗戰計
: Defeat Strategies:
31. Mỹ Nhân Kế
美人計
Beauty Scheme,
32. Không Thành Kế
空城計
Empty City Scheme,
33. Phản Gián Kế
反間計
Double Agent Scheme,
34. Khổ Nhục Kế
苦肉計
Self Injury Scheme,
35. Liên Hoàn Kế
連環計
Interconnected Ploys,
36. Tẩu Vi Thượng Sách
走為上策
Escape as the Best Scheme.
Chú-Thích: Phiên-bản này là phiên-bản
truyền-thống, nên vài chỗ hơi khác với phiên-bản hiện-hành
tại Trung-quốc.
MƯU LƯỢC
(446
, tr. 61-98)
Mưu-lược là một thủ-đoạn chính-trị, hoặc chính
đáng (dương-mưu) hoặc không chính đáng (âm-mưu quỷ-quyệt).
Dương-mưu:
Dương-mưu thuộc về chính-mưu, tích-cực tiến tới, phù-hợp
với quy-luật phát-triển cuả xă-hội, với ích-lợi cuả
quốc-gia, với nguyện-vọng cuả quốc-dân, có thể dẫn đến
thống-nhất đất nước, đoàn-kết dân-tộc hay thịnh-vượng
kinh-tế.
Đặc-điểm cuả dương-mưu là có nền móng triết-lư
vũng chăi.
Mưu lược bao giờ cũng có nền móng triết-lư.
Mạnh-tử đề ra thời-cơ, thiên-thời, điạ lợi, nhân hoà.
Việt-vương Câu-Tiễn muốn chinh-phạt Ngô-Vương
Phù-Sai để rửa hận, thành công là nhờ mưu-thần Phạm-Lăi mấy
lần nắm vững thời-cơ thiên-thời, điạ-lợi, nhân hoà.
Mưu-lược-gia phải biết 'thẩm thời độ thế', tỷ như
Ngụy tướng Tư-mă Ư là người sành 'thẩm thời độ thế', ông chỉ
biết thủ thế mặc cho Gia-Cát Lượng khiêu-khích, đưa cho
y-phục phụ-nữ thách mặc để làm nhục, ông vẫn b́nh tĩnh án
binh bất động, không nghênh chiến.
Bất luận thiên-thời, điạ-lợi, nhân-sự yếu kém ít
hay nhiều, ưu thế khó ḷng thành-công, nên chi mưu-lược
chính-tắc là quan-kiện cuả dự-kiến sự vật thành-bại. Nhà
mưu-lược cao minh là người nắm vững được chân-lư ấy, cùng là
giỏi về dùng thiên-đạo luận nhân-sự.
Mưu-lược-gia sở dĩ thành công là nhờ dùng nhất
biến ứng vạn-biến. Dịch nói: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc
thông, thông tắc cửu" (Hạ-Hệ II/5), yết-thị quy-luật
vận-động biến-hoá, c̣n bọn mưu-lược-gia th́ chú-trọng đến
quy-luật thiện-biến sự vật, ứng dụng cho quyền biến. Tỷ như
mưu-sĩ cuả Mạnh Thường Quân Phùng Hoan lại có biến-kế 'thỏ
khôn có ba huyệt'.
Mưu-lược-gia cũng phải có năng-lực thiện-biện,
khai-thác triệt-để tư-duy biện-chứng đă phát-triển từ thời
trước. Chu Dịch dùng quy-luật mâu-thuẫn âm-dương, cương-nhu,
thịnh-suy, ẩn-hiển, tổn-ích để tôn-định cơ-sở biện-chứng
tư-duy cổ-đại. Lăo-tử tiến thêm một bậc, phát-triển quy-luật
biện-chứng trung-gian sự vật tương-phản, tương-thành. Nay
nếu ta phối-hợp Chu Dịch với Đạo-đức-kinh thành một khối, ta
sẽ được một nền móng vững chắc cho mưu-lược. Như cân nhắc
mưu công và cứ thủ, biến-thông giữa tiến thoái, hiểu rơ khác
biệt giữa hư với thực. Như thời-kỳ Chiến-quốc, mấy thế-hệ
vương tướng nước Tần đều thông hiểu quan-hệ biện-chứng giữa
'xa' và 'gần' giữa 'gốc' và 'ngọn'. Như phụ-tướng Phạm-Thư
cuả Tần Chiêu Vương, như Tể-tướng Lư-Tư cuả Tần Thủy Hoàng
đều từng đề-xướng kế sách 'giao-kết với xa mà công-kích
gần', 'tránh thực mà đánh hư', 'pḥ yếu mà đè mạnh'. Các kế
sách đó củng-cố phép tắc biện-chứng cuả mưu-lược, giúp cho
Tần Thủy Hoàng thắng được lục-quốc, lập đại-nghiệp
thống-nhất Trung-quốc.
Âm-mưu:
Âm-mưu thuộc về mưu-lược bất-chính-đáng, phi-chính-nghiă,
đặc-biệt ở chỗ quỷ-quyệt, gian-trá, lang-độc, đại diện cho
lạc-hậu và thế-lực hủ-lậu.
V́ đi ngược lại trào-lưu lịch-sử và lợi-ích quốc-gia cùng là
nguyện-vọng nhân-dân, nên loại mưu-lược này xung-đột và trở
ngại cực-đại cho phát-triển xă-hội, lịch-sử. Nhân đó, làm
quốc-gia lâm vào cục-diện phân-liệt và nội-loạn, kinh-tế
tŕ-trệ.
Âm-mưu chỉ kế-hoạch ám-muội, không chính đáng. Từ
âm-mưu xuất-hiện sớm nhất trong 'Sử-Kư, Tề Thái-Công Thế
Gia': "Khi Chu Tây-Bá Cơ-Xương được thả khỏi ngục Dữu-lư,
bèn cùng Lă-Thượng âm-mưu tu-đức để khuynh-loát chính-trị
Nhà Thương". Nhưng mà ở đây, 'âm-mưu' được dùng theo nghiă
rộng, bao gồm âm-mưu bên trong cũng như không chuyên chỉ
mưu-lược bất chính. Đặc-điểm cuả 'âm-mưu' như sau:
1.
Tính siêu-phản-thường cuả âm-mưu:
Âm-mưu thường được gian-tướng, gian-thần, hoạn-quan cùng
hậu-phi
thi-hành
2.
Tính gian-trá cuả âm-mưu:
3.
Đặc-điểm ẩn-nguỵ cuả âm-mưu:
Chu Dịch Mưu-Lược
Tất cả mưu-lược cổ-đại Trung-quốc đều dựa vào Kinh
Dịch. Xin xét về ba mặt:
MƯU-LƯỢC CHÍNH-TẮC
Chu Dịch mưu-lược dựa vào mô-thức chính-tắc tư-duy do 64 quẻ
đặt để. Do đó, có khả-năng khống-chế toàn cuộc: như quẻ
Kiển chỉ cần lấy 6 tượng 'tiềm', 'tại', 'kiền kiền',
'dược', 'phi', 'kháng', tức phản-ảnh chính-tắc mưu-lược
liền, kiện-toàn mưu-lược quá-tŕnh. Mưu-lược chính-tắc cuả
Chu-Dịch, bất-luận tại chính-trị, quân-sự hay nhân-sự, đều
có ảnh-hưởng sâu đậm tới hậu-thế. Đại-phàm, thượng-tầng
mưu-lược cuả hậu-thế đều là mưu-lược chính-tắc.
ẨN-HIỂN MƯU-LƯỢC
Một đặc-điểm nữa cuả mưu-lược Chu Dịch là khiá cạnh
ẩn-hiện. Như nói:
"仰以觀於天文,俯以察於地理,是故知幽明之故。原始反終,故知死生之說。
精氣為物,游魂為變,是故知鬼神之情狀。Ngưỡng
dĩ quan ư thiên-văn, phủ dĩ sát ư điạ-lư, thị cố tri u-minh
chi cố, nguyên thủy phản chung, cố tri tử-sinh chi thuyết,
tinh-khí vi vật, du-hồn vi biến, thị cố tri quỷ-thần chi
t́nh-trạng = Ngẩng lên để xem thiên-văn, cúi xuống đểm xét
điạ-lư, cho nên biết cái cớ về tối sáng, suy-nguyên từ
trước, trở lại về sau, nên biết cái thuyết sống chết, có
tinh và khí là vật, chỉ có hồn phảng-phất là biến, nên biết
cái t́nh-trạng cuả quỷ-thần" (Thượng-Hệ IV/2). Lại nói: "一闔一辟謂之變﹔往來不窮謂之通﹔Nhất
hạp nhất tịch vị chi biến, văng lai bất cùng vị chi thông =
Một đóng, một mở gọi là biến, đi lại chẳng cùng gọi là
thông" (Thượng-Hệ XI/4). Cũng nói: "探賾索隱,鉤深致遠,以定天下之吉凶,Thám
trách sách ẩn, câu thâm trí viễn, dĩ định thiên-hạ chi cát
hung. = Ḍ cái thâm u, t́m cái kín đáo, kiếm cái sâu, đi tới
cái xa, để định cái tốt xấu." (Thượng-Hệ XI/7).
Tức là nói: nên t́m kiếm sự vật ở những chỗ u-ẩn thâm sâu,
yết-thị quy-luật ẩn-hiển Chu Dịch lấy cả các tượng 'tiềm',
'tại', 'kiền kiền', 'dược', 'phi', 'kháng', đề-thị quy-luật
chuyển-biến tiềm-ẩn cùng là hiển được cuả sự vật.
Đặc-điểm cuả mưu-lược là quyền xung thời-cơ ẩn-hiển, đương
lúc ẩn nên hiển, đương lúc lộ mới nên lộ luôn. Chiến-luợc
ẩn-hiển thường thường là yếu-tố thành-bại quan-trọng. Như
Dịch nói: "君不密,則失臣﹔臣不密,則失身﹔几事不密,則害成﹔是以君子慎密而不出也。
Quân bất mật tắc thất thần, thần bất mật ắt thất thân, cơ-sự
bất mật ắt hại thành, thị dĩ quân-tử thận mật nhi bất xuất
dă. = Ông vua chẳng cẩn-mật th́ mất bầy tôi, bầy tôi chẳng
cẩn mật th́ mất cái thân ḿnh, cơ-sự chẳng cẩn mật th́ cái
hại nẩy ra, cho nên người quân-tử giữ bí-mật mà chẳng để lộ
ra vậy"(Thượng-Hệ VIII/10). Dịch nói: "夫易,彰往而察來,而微顯闡幽,開而當名,辨物正言,斷辭則備矣。Phù
Dịch chương văng nhi sát lai, chương hiển xiển u, khai nhi
đáng, danh-biện vật chính, ngôn đoán từ tắc bị hỹ = Ôi đạo
Dịch làm rơ rệt cái đă qua mà xét cái sắp tới, làm sáng tỏ
cái kín đáo, mở toang cái bí-mật, mở ra mà xứng đáng cái
tên, phân-biệt được sự vật, chính được câu nói, quyết đoán
được lời; đầy đủ cả vậy"(Hạ-Hệ VI/3). Nơi chiến-lược
quyền-mưu ẩn với hiển thể-hiện khi tấn-công và pḥng-ngự,
nơi trận-điạ-chiến hoặc vận-động-chiến, dù là kiên-thủ hay
di-chuyển.
Về mặt chiến thuật, ắt biến-hoá nơi mưu-kế
hư-thực, tiến-thoái, công-thủ.
'Tôn-tử Binh-pháp, Thế-thiên' nói: "Như lấy đá
chọi trứng, hư-thực vậy". Tức dùng đá chọi trứng để tỷ dụ
chiến-thuật hư-thực, ẩn-hiển, quan trọng đối với ư nghiă
quyết-định thành bại.
Theo 'Tam Thập-lục-Kế', kế thứ 20, 'cùng địch
không bằng phân địch, địch dương không như địch âm'. Ở đây
dương đại-biểu hiển-lộ, công-khai hay thực, âm ắt tiêu-biểu
cho ẩn-tế, bí-mật hoặc hư. 'Địch dương không như địch âm' có
nghiă là nên tránh hư mà đương đầu với thực.
Lại như, kế thứ 21 ve sầu bằng vàng thoát xác
(Golden circada shedding the skin), ắt phối-hợp hiển-ẩn với
hiển-lộ, kỳ thực là chiến-mưu cuả ẩn-độn. Kế thứ 27 là :
"Trữ ngụy làm không biết, không làm, bất-ngụy làm giả-tri,
vơng vi, tĩnh không lộ cơ, vân lôi Truân vậy". Tức bề ngoài
không lộ thanh-sắc, âm thầm khẩn-trương chuẩn-bị, thế làm
nổi lôi kích, dẫn đến thắng-lợi. Kế thứ 32: "Đă hư cho hư
luôn, trong ngờ sinh ngờ, giữa cương-nhu, kỳ lại thêm kỳ".
Tương-tự, đề-thị chiến-thuật, chiến-lược hư hư thực thực,
cho thiên-hạ thưởng-thức mùi vị 'Tam-thập-lục kế, tẩu vi
thượng sách', cũng là một loại kế quyền-nghi ẩn-hiển.
Tóm lại, mưu-lược ẩn bao gồm cơ-mật, hư, ẩn-tế,
cùng là ứng-biến, thuộc mưu-lươc âm-tính. Mưu-lược hiển ắt
bao hàm công-khai, thực, hiển-lộ cho chí chính, mưu-lược
thông-thường.
Nguyên-tắc trọng-yếu cuả mưu-lược là: đương ẩn
không ẩn, nên hiển không hiển tất bại, có đại-ẩn ắt có
đại-thành-công, đó là yếu-chỉ cuả quy-luật ẩn hiển.
Kinh Dịch vừa là một bộ sách triết-học, vừa là một
bộ sách khoa-học xă-hội, uẩn-tàng chiến-thuật tâm-lư
phong-phú, chứa chan quy-luật luận-lư. V́ có pha vào ngôn-từ
bói toán, nên Chu Dịch vừa là nguồn cuả dịch-lư vừa là tổ
cuả dự-trắc-học.
*
* *
Xem
Kỳ 187
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |