|
HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
CHƯƠNG
08
TAM-THÁNH DỊCH
三
聖
易
(Tiếp theo Kỳ
101)
QUỐC-NGỮ,
TẢ-TRUYỆN
國 語,
左 傳
Trung Hoa thời
Xuân
Thu có
hai quyển sử
chính
là
"Quốc-ngữ國
語"
(007)
và Kinh Xuân Thu (257).
Quyển
trước ghi lại biệt-sử giữa Vương-thất
nhà
Chu với bẩy chư-hầu là:
Lỗ, Tề, Tấn, Trịnh, Sở, Ngô,
Việt, c̣n
quyển sau là
sử riêng
của
nước Lỗ.
"Tả-truyện左
傳"
là một trong ba truyện của Kinh Xuân Thu do Tả Khưu
Minh viết ra. C̣n hai quyển kia là Công Dương
Truyện cuả Công Dương Cao và Cốc Lương Truyện cuả Cốc Lương
Xích.
Quốc-ngữ chỉ có 3 chỗ nói đến Dịch:
ngoại trừ thí-dụ 1a) nói về bói cỏ thi, c̣n hai việc không
nói đến bói [(thí-dụ 2a & 3a)].
1a) Một chép việc Tấn Tương Công thuật chuyện người nước Tấn
bói được quẻ Kiền chi Bĩ
A
→
L, chứ
không
dùng
Kinh Dịch để bói
(Chu Ngữ Hạ, Tương Công Luận Tấn Chu Tương Đắc Tấn
Quốc (007,
110).
2a) Một nói đến Dịch-lư: “Đổng Nhân đón Công nơi sông Hà.
Công hỏi rằng: “Ta tới nơi không? Đáp: “Thần bói được quẻ
Thái
K
chi bát (Quẻ Thái, Kiền
!
dưới Khôn
/
trên, âm hào chẳng động nên giữ nguyên số 8 của thiếu-âm).
Đó là Thiên Điạ phối hanh (Kiền là Thiên, Khôn là Điạ; âm
giáng, dương thăng nên mới bảo là phối hanh) . Tiểu văng đại
lai. Nay kịp vào thoán-từ quẻ Thái. Đâu có bất lợi nào. (Tấn-ngữ
IV, Tần Bá Nạp Trùng Nhĩ Ư Tấn (007,
462).”
3a) Một căn-cứ vào tượng mà bàn: “Công-tử Trùng Nhĩ thân bói
mà rằng: ‘C̣n có nước Tấn? Được trinh (quẻ trước tức
nguyên-quái) Truân
C,
hối (quẻ sau tức biến-quái) Dự
P,
đều bát cả. Phệ-sử bói đều nói: ‘Không lành. Bế-tắc mà không
thông, hào không làm ǵ được cả vậy’. Tư-không Quí-tử nói:
‘lành, bởi v́ Kinh Dịch bảo: ‘Lợi kiến hầu’. Nếu không có
nước Tấn để phụ vương-thất, làm sao mà kiến hầu được? Mệnh
tôi bói rằng: ‘C̣n có nước Tấn?’ Bói bảo tôi rằng: ‘Lợi kiến
hầu. Được nhiệm-vụ của nước vậy, lành cuả ai lớn thay? Chấn
là xe, Khảm là nước, Truân là dầy, Dự là vui. Xe ban trong
ngoài, thuận để huấn-thị, nguyên tuyền cung-cấp, đất dầy mà
vui t́nh thực, không có nước Tấn, ai mà làm được?
Chấn là sấm, là xe; Khảm là lao khổ, là nước, là đám đông.
Chủ sấm và xe, là vơ, đám đông và thuận là văn. Văn vơ gồm
đủ, hậu đến thế là cùng.
Lời Thoán rằng: "Nguyên Hanh Lợi Trinh, vật dụng hữu du
văng, lợi kiến hầu". Chủ Chấn sấm, trưởng, cho nên Nguyên.
đám đông và thuận là Gia vậy, cho nên Hanh. Trong có Chấn
sấm, cho nên nói : Lợi Trinh. Trên xe, dưới nước, ắt là Bá.
Việc nhỏ không
cứu giúp, v́ trên dưới không
hiểu nhau. Nên mới nói : "Vật dụng hữu du văng". Chẳng thuận
mà có uy-vũ, nên mới "Lợi kiến hầu". Khôn là mẹ, Chấn là
trưởng-nam. Mẹ già, con mạnh nên nói là Dự. Lời Thoán rằng:
"Lợi kiến hầu, hành sư". Thế chính gọi là ’Cư lạc xuất uy’.
Được hai điều ấy lo ǵ không là quẻ được nước ”. (Tấn Ngữ
IV,
007,
458, Trùng Nhĩ thân phệ đắc Tấn Quôc).
C̣n
Tả-truyện lại đề-cập Dịch
20
lần,
chia làm 4 lần chỉ bói
Dịch
để biết tương-lai hoặc kể chuyện bói
Dịch
các đời trước:
1b)
Mẫn Công
2, Huệ Vương 17, tân-dậu (660 BC),
257,
I/479,
008,
I/9b,
274,
62.4:
Tả-Truyện: Thành-Quư lúc sắp ra đời, Hoàn-Công có sai bói:
tất là sinh con trai tên là Hữu, ở bên hữu Công, giữa khoảng
nền xă, giúp nhà vua. Họ Quư mà mất, th́ nước Lỗ hết
hưng-thịnh. Lại bói được quẻ Đại-hữu chi Kiền
(N
→
A).
Cùng một cha
mà kính như vua tôi. Đến khi sinh ra, nơi tay có viết chữ
hữu
友
(nghiă là bạn). Cho nên đặt tên là Hữu.
2b) Hi Công 4, Huệ Vương 21, ất-sửu (656 BC),
257,
I/525:
Tả-Truyện:
Xưa Tấn Hiến-Công muốn cho Ly-Cơ làm Phu-nhân, bói rùa thấy
xấu, bói cỏ thi thấy quẻ tốt. Công chọn quẻ tốt. Người bói
rùa nói: Phệ (bói cỏ thi) là sở-đoản, Quy (bói rùa) là
sở-trường. Vả lại lời dao (thoán) có câu: Tự chuyên biến
đổi, ngăn cái hay của Công. Một thơm như cỏ huân, một hôi
như cỏ du, tiếng xấu mười năm chưa hết, xoá bỏ hết tốt đẹp
của Công. Xin đừng đổi. Công không nghe, lập
làm Phu-nhân. Về sau v́ lời dèm của Ly-Cơ với Công, Thế-tử
phải thắt cổ ở Tân-Thành (Khúc-Ốc), Công-tử Trùng Nhĩ chạy
ra ấp Bồ và Công-tử Di-Ngô chạy ra ấp Khuất.
3b) Hi Công 15, Tương Vương 7, bính-tí (645 BC),
257,
I/591, I/11ab,
274,
61.6:
Tả-Truyện: Tấn đói, Tần chở gạo sang cho. Tần đói, Tấn cấm
bán thóc cho, nên Tần-Bá đánh Tấn. Bốc-sử Phụ bói được quẻ
tốt. Khi qua sông, xe vua hỏng. Tần-Bá hỏi ư-nghiă. Đáp: thế
là đại-cát. Ba lần đánh bại thế là bắt được vua Tấn. Bói
được quẻ sơn-phong Cổ
R.
Sách có câu: Ngh́n cỗ xe. Ba lần đi. Xong rồi bắt được Hùng
hồ. Theo quẻ, Cổ là vua. Quẻ trinh (hạ-quái) của quẻ Cổ là
phong (tốn vi phong). Quẻ hối (thượng-quái) là sơn (cấn-vi
sơn). Về mùa là thu. Ta bỏ rơi quả cây để dùng gỗ cây. Thế
là thắng: Quả rơi, gỗ mất, c̣n đợi ǵ mà không thua.
4b) Thành Công 16, Giản Vương 11, bính-tuất (575 BC),
257,
II/454,
257,
II/8a,
274,
61.7:
Tả-Truyện:
Vua Tấn bói cỏ thi. Đoán là triệu cát, được quẻ Phục,
nghĩa là các nước miền nam (Sở, Trịnh) sẽ suy, nguyên-súy sẽ
trúng phát tên, mà vua Sở sẽ bị thương ở mắt. Chẳng thua th́
thế nào mới là thua. Vua Tấn nghe theo.
Thứ đến, có 7 lần bàn đến nghiă-lư
suy từ quái-, hào-từ:
1c) Tuyên Công 6, Định Vương
4, mậu-ngọ (603 BC),
257,
II/209,
274,
63.1:
Tả-Truyện:
Công-tử
Mạn-Măn
nước Trịnh cùng
Vương-tử
Bá-Liêu
nói
chuyện, tỏ ư muốn được chức Khanh.
Không có đức mà lại tham, trong Kinh Dịch đă có nói đến vào
quẻ Ly
^
từ quẻ Phong
w
ra.
Không sao tránh khỏi nạn được. Một năm sau người
Trịnh
giết Công-tử
Măn.
2c)
Tương Công 9, Linh Vương 8, đinh-dậu (564 BC),
257,
II/555-6, II/9a,
274,
62.8:
Tả-Truyện: Mục Khương
mất tại Đông-Cung. Khi trước, Phu-Nhân dời cung của ḿnh, để
tới ở Đông-Cung th́ có bói được quẻ Cấn
t
chi bát. Quan Bốc-sử đoán: "Cấn biến thành quẻ Tùy
Q.
Tùy tượng trưng việc ra đi. Phu-Nhân sẽ ra khỏi nơi này. Mục
Khương nói: “Không đúng. Trong Kinh Chu Dịch có nói: Tùy là
lớn, hanh thông có lợi, chắc chắn, không có hại. Lớn là ǵ?
Là người có thể cách. Hanh thông là ǵ? Là gồm đủ đức hay.
Lợi là ǵ? Là làm đủ bổn-phận. Trinh là ǵ? Là các
hành-động, giữ đều không sai. Thể cách có đủ, th́ trị được
dân. Có đức hay th́ mới theo đúng nghi-lễ. Làm đủ bổn-phận
th́ biết giữ công-b́nh. Hành-động giữ đều không sai, th́ mọi
việc đều không hỏng. Nhưng bốn nết đều phải là thực có, chứ
đừng là giả-tạo. Vậy Tùy nghiă là không bị trách dù
rằng Tùy cũng có nghiă xấu, nếu thiếu bốn nết. Tôi là
đàn-bà, trong thời loạn, ở vị kém (v́ là đàn-bà), mà lại
không có nhân, không đáng gọi là lớn, là có thể cách. Tôi
không làm cho
nước
được yên, nhà được ḥa, th́ không thể bảo được là tôi gồm đủ
đức hay, tức là hanh. Xét hành-động tôi c̣n hại cả
cho tôi, th́ không thể bảo là tôi làm đủ bổn-phận. Quên
điạ-vị, tôi có những việc xấu, không thể bảo là tôi đă chắc
chắn. Người nào có đủ bốn nết mới thực là tùy, là
vô-cữu. Tôi chẳng được ǵ, sao gọi là tùy. Tôi đă
xấu sao được là vô-cữu. Chắc chắn là chết ở đây không
đi ra ngoài được”.
3c) Tương
Công 28, Linh Vương
27, bính-th́n (545 BC),
257,
III/104,
008,
II/1999b,
274,,62.14:
Tả-Truyện:
Tử Thái Thúc khi về Trịnh phục mệnh, bảo Tử Triển rằng: Sở
Tử mệnh sắp hết. Trong chính-trị không sửa đức, đối với
chư-hầu th́ tham-lam mù quáng, để thoả ư riêng. Tưởng c̣n
sống lâu
được
sao? Trong sách Chu Dịch, chỗ quẻ Di khởi từ quẻ Phục (X
→
[)
có cho biết: "Trở lại mê sẽ bị hung" (Lời Thoán quẻ Phục).
Lời đó sẽ áp-dụng cho Vua Sở. Vua Sở định trở lại ư muốn (là
Vua Trịnh thân tới chầu), mà bỏ hết cái gốc là đức. Không đủ
phưong-tiện trở lại ư muốn đó, thế gọi là : Trở lại mê. Mê
th́ hung. Xin vua ta cứ sang Sở, để rồi tống chung vua Sở,
rồi trở về. Thế là
được
ḷng cả dân Sở. Trong ṿng mười
năm, Sở thôi không c̣n ảnh-hưởng ǵ với chư-hầu, dân ta sẽ
yên vui.
4c)
Chiêu Công 7, Cảnh Vương
10, bính-dần (535 BC),
257,
III/252, III/4a,
274,
62.2:
Tả-Truyện: Khổng Thành Tử bói dịch, xem trong hai con
bế-thiếp của Vệ Tương
Công là Mạnh Trập và Nguyên ai sẽ có thể nối ngôi:
được
quẻ Truân
C.
Rồi bói có nên cho Trập làm chủ không. Th́
được
quẻ Tỷ
H.
Khổng Thành Tử bàn với Sử Triều. Sử Triều nói: “Truân nghiă
là rộng lớn, th́ c̣n nghi ngại ǵ”. Thành Tử nói: “Liệu quẻ
có nghiă là lớn tuổi hơn (Trập), th́ quyền thế có hơn
không?” Sử Triều nói: “Đă gọi tên là Nguyên cũng đáng làm
Trưởng. Mạnh có tật, bài vị rồi sẽ không
được
xếp trong miếu, không hơn
được
Nguyên. Vả lại lời giải trong quẻ Truân
l
lợi dụng nên nối ngôi. Nếu cứ b́nh thường
tính tuổi mà
được
th́ sao c̣n cần t́m người
nối dơi. Cần t́m người
nối, thế tức là người
thường
không
được.
Cả hai quẻ cùng một ư. Xin ngài cho Nguyên. Khang Thúc đă
chọn. Hai quẻ đă chỉ. Bói dịch đúng với mộng. Vũ Vương
xưa vốn dùng cách đó, sao ngài không theo …” Thế là Khổng
Thành Tử lập Linh Công.
5c)
Chiêu Công 12, Cảnh Vương
15, tân-mùi (530 BC),
257,
III/294-5, III/5a,
274,
61.11:
Tả-Truyện:
Khi Nam Khoái định phản, có một người làng biết
được,
mới đi ngang nói bóng nói gió can ngăn. Nam Khoái bói dịch,
được
quẻ Khôn, biến ra quẻ Tỷ
(B→
H).
Giảng là: Xiêm mầu vàng, rất tốt. Nam Khoái cho là tốt lắm,
mới bảo Tử Phục Huệ Bá rằng: Tôi muốn mưu việc ngay, ông
nghĩ thế nào? Huệ Bá nói: Tôi thường
nghiệm, nếu v́ trung tín mà làm, th́ việc thành. Nếu không,
tất là hỏng. Ngoài cứng dắn (thượng-quái
quẻ Tỷ là quẻ khảm
+),
trong diụ dàng (hạ-quái là quẻ khôn
/),
thế là trung. Hoà trên cùng dưới thế là tín. V́ thế giảng
rằng: Xiêm mầu vàng, rất tốt. Vàng là mầu chính giữa
(trung-ương)
trong năm mầu. Xiêm thường
là trang-sức phiá dưới. Nguyên cát là đại-cát. Nếu trung mà
không ở giữa th́ đă không có mầu vàng. Nếu kính-cẩn mà không
có ở phiá dưới, th́ đă không có trang-sức. Nếu việc mà không
tốt th́ không tới hay
được.
Khi trong và ngoài cùng hoà-hợp th́ có trung. Khi
điều-khiển một việc cho có tín-nghiă, th́ việc có kính-cẩn.
Nuôi
được
ba đức trực, dũng, ôn, th́ việc hay. Không có ba đức ấy,
việc không hay. Vả lại, gặp quẻ ấy, th́ không thể đoán
kết-quả một công việc khó khăn. Ngài có ǵ để trang-sức? Nếu
giữa (tâm) mà tốt th́ mới có mầu vàng. Nếu trên mà tốt th́
mới có nguyên cát. Nếu dưới mà tốt th́ mới có xiêm. Có đủ ba
thứ tốt th́ kết-qủa tốt đẹp như đă giảng. C̣n thiếu một thứ,
th́ dù quẻ đă giảng như thế, kết quả cũng chưa thể có
được
như thế.
6c) Chiêu Công 29, Kính Vương
7, mậu-tí (513 BC),
257,
III/466,
274,
61.7:
Tả-Truyện:
Rồng là vật thuộc về hành thuỷ, chức thuỷ-quan đă bỏ, cho
nên không bắt
được
rồng nữa. Nếu không, sao Kinh Dịch lại nói đến. Quẻ Kiền chi
Cấu
(A
→
l)
có câu: Rồng ẩn không dùng. Quẻ Đồng-nhân
M
có câu: Rồng hiện nơi ruộng. Quẻ Đại-hữu
N
có câu: Rồng bay trên trời. Quẻ Quyết
k
có câu : Ngang với Rồng, sao cho khỏi hối? Quẻ Khôn có câu:
Đàn Rồng không đầu hiện ra, tốt. Quẻ Khôn chi Bác
(B→
W)
nói:
"Như bầy rồng đánh nhau ở nội". Nếu không thấy sớm chiều,
th́ làm sao gọi tên được ?
7c)
Ai Công 9, Kính Vương
34, ất-măo (486 BC),
257,
III/655, III/8a,
274,
62.6:
Tả-Truyện:
Triệu Ưởng nước Tấn bói rùa, xem có nên cứu Trịnh, chống
Tống không. Được
quẻ: Nước gặp lửa. Các vị Thái-sử Triệu-Mặc và Quy đều cho ư
kiến. Dương
Hổ mới bói dịch. Gặp quẻ Thái chi Nhu
(K→
E).
Mới nói rằng: bên Tống đang cát, không nên địch. Vi Tử Khải
(Tổ nước Tống) là con vua Đế Ất. Hào-từ lục-ngũ quẻ Thái có
câu: Đế Ất gả chồng cho em gái, có phúc, rất tốt. Tống và
Trịnh có họ về bên ngoại. Phúc (chỉ) là lộc vậy. Nếu vua Đế
Ất gả chồng cho em gái mà có cát lộc, th́ ta làm sao mà cát
được.
Thế là Triệu Ưởng bỏ ư định giúp Trịnh.
Sau rốt,
9
lần c̣n lại chuyên
luận dịch-tượng
suy từ Hào Chi tức quái-biến:
1d) Trang Công 22, Huệ Vương 5, kỷ-dậu (672 BC),
257,
I/391-2,
008
II/1775abc, I/3a,
274,
63.12:
Tả-Truyện: Lúc Kính Trọng nhỏ, Chu-Sử tới thăm Trần-hầu.
Trần-hầu sai bói dịch, được quẻ Quan chi Bĩ (T
→
L).
Chu-Sử nói: hào-từ lục-tứ quẻ Quan trong Kinh Dịch bảo rằng:
“Xem việc sáng sủa trong nước, lợi-dụng việc triều-cận nhà
vua”. Quẻ này có ư nghiă là thay Trần làm cho nước yên, là
đi ở nước khác. Không phải là tự bản thân mà là tự con cháu.
Ánh sáng từ xa, từ chỗ khác chiếu tới. Khôn
/
là tượng đất. Tốn
)
là tượng gió. Kiền
!
là tượng trời. Gió, trời ở trên đất, tức là núi. Có núi th́
có sản-vật ở núi, mà soi xuống được là nhờ ánh sáng của
trời. Thế th́ ở trên đất. Nên nói: “Xem việc sáng sủa trong
nước, lợi-dụng việc triều-cận nhà vua”. Chư hầu mang đến sân
vua cả trăm thức, cung phụng ngọc lụa cùng các vât đẹp quư
của trời đất. Nên nói: “Lợi-dụng việc triều-cận nhà vua”.
Thế là nhờ về con cháu. Gió thổi trên đất nên bảo là ở nước
khác. Nếu ở nước khác, tất là họ Khương. Khương là ḍng dơi
Đại-Nhạc. Nhạc là núi. Núi phối với trời. Vật không thể cả
hai cùng to lớn. Trần mà suy th́ họ này mới thịnh. Đến khi
Trần suy, Trần Kính Trọng mới bắt dầu khá giả. Đến khi Trần
mất, th́ ḍng Kính Trọng được cầm quyền chính.
2d) Mẫn Công 1, Huệ Vương 16, canh-thân (661 BC),
257,
I/471, I/7b,
274,
63.4:
Tả-Truyện: Xưa Tất-Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn, được
quẻ Truân chi Tỷ
(C
→
H).
Tân Liêu xem rồi đoán là tốt. Truân đă bền, Tỷ lại vào, c̣n
ǵ tốt hơn. Phải là triệu đông đúc thịnh-vượng. Chấn là
tượng đất, xe theo ngựa, ḿnh ở đây, người anh v́ đó mà lớn,
người mẹ che chở cho, chúng nhân theo về, sáu thể không đổi,
hợp mà thành bền, yên mà hay trừ diệt, đó là quẻ của công,
hầu. Con cháu công hầu tất khôi phục được tước vơ.
3d) Hi Công 15, Tương Vương 7, bính-tí (645 BC),
257,
I/594, II/1a,
274,
64.15:
Tả-Truyện: Xưa Tấn Hiến-Công cho bói việc gả Bá-Cơ sang Tần,
gặp quẻ Khuể chi quẻ Qui-muội (f
→
v).
Sử Tô bói rồi nói rằng không tốt. Lời dao tức Lời hào
thượng-lục có nói: kẻ sĩ cắt tiết dê, không có máu. Con gái
bưng dỏ không. Xóm bên tây trách không thể đến được. Khuê
chi Qui-muội như thể không được giúp. Ly chi Chấn cũng như
Chấn chi Ly làm sấm, làm lửa, làm cho họ Doanh đánh bại được
họ Cơ. Xe đă sút trục, lửa đă đốt cháy cờ, bất-lợi trong
việc hành-quân, thua ở Tôn-Khưu. Qui-muội chi Khuê, cô-độc,
cung nỏ giặc đă giương lên. Cháu theo cô, sáu năm ẩn-nấp.
Lẩn trốn về nước, bỏ cả vợ con, năm sau chết ở g̣ Cao-Lương.
Đến khi Huệ Công ở Tần có nói: Tiên-quân ví thử nghe lời
đoán của Sử Tô, th́ ta không đến nỗi thế này. Hàn Giản thưa:
Bói rùa chỉ là tượng, bói dịch chỉ là số. Vật sinh ra rồi
mới có tượng. Có tượng rồi mới có nuôi. Nuôi rồi mới có số.
Tiên-quân mà bại đức có kể đến số được không? Lời nói của Sử
Tô nghe làm ǵ vô-ích. Thi có nói: cái mầm ác của dân, không
phải tự trời sinh. Gây sự hỗn-loạn thù ghét, là do người.
4d) Hi Công 25, Tương Vương 17, bính-tuất (635 BC),
257,
I/656, II/5a,
274,
63.9:
Tả-Truyện: Công nói: thử bói xem, gặp quẻ Đại-hữu chi Khuê (N
→
f).
Đáp: tốt. Được quẻ “Công-hầu dùng để triều-hiến Thiên-tử”.
Công hưởng v́ thắng trận, c̣n ai tốt hơn được? Vả lại, nhờ
quẻ ấy, trời ban ân-trạch như mặt trời, Thiên-tử chống Công
có được không? Nên phải nể v́ tiếp đón như quẻ Đại-hữu phục
vụ quẻ Khuê, quẻ đoán là như vậy.
5d) Tuyên Công 12, Định Vương 10, giáp-tí (597 BC),
257,
II/262-3, II/1879c, 1880a, II/6b,
274,
63.7:
Tả-Truyện:
Tri Trang-tử
(Tuân-Thủ)
nói:
“Đạo
binh này lâm-nguy. Trong Kinh Dịch về quẻ Lâm
S,
tự quẻ Sư
G
ra
(G
→
S),
có nói: Một đạo quân ra trận phải theo luật đă ban-hành. Nếu
luật không hay thế là hung. Vị chỉ-huy nếu theo đúng
binh-pháp th́ mệnh-lệnh thành hay. Nếu sai binh-pháp th́
mệnh-lệnh thành dở. Một số đông đem chia ra th́ thành yếu.
Các ḍng nước mà ngược nhau th́ thành nước ao tù ... Kinh
Dịch bảo như thế đó"
6d) Tương Công 25, Linh Vương 24, quí-sửu (548 BC),
257,
III/46, II/12b,
274,
64.10:
Tả-Truyện: Ở Tề, vợ Đường Công nguyên là chị gái Đông Quách
Yển. Đông Quách Yển làm gia-thần cho Thôi Vũ Tử (Thôi Trữ).
Đường Công chết, Yển đánh xe cho Vũ Tử tới phúng viếng. Vũ
Tử trông thấy vợ Đường Công là Đường Khương đẹp, sai Yển bắt
đem tới. Yển nói: “Vợ chồng phải khác họ. Ngài về ḍng Đinh,
họ vua Tề, mà tôi th́ ḍng Hoàn Công, tức là cùng họ. Ngài
không thể lấy chị tôi được”. Vũ Tử cho bói
để quyết định. Gặp quẻ Khốn chi Đại-quá (o
→
\ ).
Các Thái-sử đều đoán là quẻ tốt. Vũ Tử hỏi Trần Văn Tử. Trần
Văn Tử nói: Chồng theo quẻ phong (tốn
)),
hạ thể quẻ Đại-quá. Phong là gió. Gió có tính cách lật đổ.
Vậy không nên lấy người ấy. [(Nơi
266,
II/12b, Mao Kỳ Linh viết: khảm
+
là trung-nam, nên bảo là chồng, biến thành phong (tốn
))
là gió, mà gió có thể lật đổ, nên lấy người ấy làm sao
được). Vả lại, hào-từ lục-tam quẻ Khốn bảo: “Như thể khốn ở
ḥn đá, dựa vào cây tật-lê, vào trong cung không thấy vợ,
xấu”. Chu-tử chú-giải rất rơ: “Ḥn đá là chỉ vào hào tứ, cây
tật-lê là chỉ vào hào nhị, cung là chỉ vào hào tam và vợ là
chỉ vào hào lục”.] Khốn khổ trên đá lởm chởm là đi lại khó
nhọc, dưạ vào bụi gai thành ra ḿnh bị thương. Vào cung
không thấy vợ là điềm hung, không c̣n cứu được”. Thôi Trữ
nói: đây là một quả-phụ, lấy có hại ǵ. Có hại th́ chồng
trước đă bị hại rồi. Thế rồi lấy.
7d) Chiêu Công 1, Cảnh Vương 4, canh-thân (541 BC),
257,
III/182,
274,
63.11:
Tả-Truyện: Triệu Mạnh hỏi thầy thuốc: Ông nói Cổ là bệnh thế
nào? Đáp: Cái ǵ thái quá là Cổ, như quá thiên về t́nh-dục,
hoặc lầm lỡ, hoặc rối loạn. Xét về văn-tự, chữ cổ
蠱ghép
lại bởi hai chữ mănh
皿
và trùng蟲.
Con sâu sinh trong hột lúa, để lâu gọi là cổ. Trong Kinh Chu
Dịch, người con gái mê hoặc người con trai, gió to làm đổ
núi, th́ gọi là cổ. Mọi vật đều giống nhau cả.
8d) Chiêu Công 5, Cảnh Vương 8, giáp-tí (537 BC),
257,
III/219-20, III/1a,
274,
64.4:
Tả-Truyện: Khi xưa, lúc Mục Tử (Thúc Tôn Báo) mới sinh, cha
là Trang Thúc bói dịch, được quẻ Khiêm chi Minh-di (O
→
d),
đưa cho Thái-bốc Sở Khưu. Sở Khưu đoán: Đưa bé này sau bỏ
nước Lỗ, nhưng rồi sau lại trở về cúng giỗ ông. Sẽ có một
gian-nhân tên là Ngưu. V́ tên Ngưu đó, con ông sẽ chết đói.
Minh-di chỉ mặt trời. Con số là 10. Mỗi ngày chia làm 10 độ.
Mỗi vị là một độ từ vị vua trở xuống. Vị thứ hai là vị Công,
vị thứ ba là vị Khanh. Mặt trời đúng ngọ buổi trưa là vua.
Mặt trời vào buổi ăn là vị Công. Mặt trời mới mọc là vị
Khanh. Quẻ Khiêm sinh tự Minh-di, chỉ mặt trời mới mọc nhưng
chưa chói, chữ là đán
旦,
vị trí Khanh, cúng giỗ tổ tiên. Khiêm vốn tự mặt trời,
Minh-di cũng chỉ chim bay. V́ sáng mà chưa chói, cho nên
chim c̣n đủ cánh, là tiêu-biểu cách hoạt-động, chỉ người
quân-tử ra đi. Mặt trời mới mọc (Đán旦),
chỉ ngôi thứ ba, nên hào-từ sơ-cửu quẻ Minh-di mới nói: Ba
ngày không ăn.
Quẻ Ly
%,
hạ-thể quẻ Minh-di, là tượng Hoả. Quẻ Cấn
đơn
-,
hạ-thể quẻ Khiêm, tượng núi. Lửa đốt núi. Núi thành trơ
trụi. Tính về loài người, th́ cấn là lời nói. Lời nói mà bậy
là lời dèm. Con người mở miệng ra là tự lời dèm. Quẻ mà có
hai ly hợp là tượng giống ḅ. Thời loạn, lời dèm được nghe.
Lửa đốt núi, vậy lửa đó là ḅ, tức thị tên là Ngưu牛.
Khiêm có nghiă là thiếu, là không đủ. Chim chưa giương cánh,
đă rũ
cánh, không bay lên được cao, bóng không rộng. Cho nên
con ông, không theo kịp ông, chức không bằng ông, ông là
Khanh, th́ con ông chỉ là Đại-phu, chưa được đến ngôi thứ
ba.
9d) Chiêu Công 32, Kính Vương 10, tân-măo (510 BC),
257,
III/487:
Tả-Truyện: Trong Kinh Dịch quẻ lôi (chấn
'
đơn) trên quẻ kiền
!
(thiên) sẽ thành quẻ Đại-tráng
b.
Đó là Thiên-đạo. Kiền chỉ Thiên-tử, Chấn là chư-hầu, nay ở
trên kiền là đổi ngôi, là thần lớn mạnh, hùng tráng in như
trên trời có sấm sét vậy.
Tóm lại, trong
Quốc-ngữ
và
Tả-truyện
có tất cả là 23 điều nói dến Dịch. Có 5 điều chỉ gián-tiếp
dùng dịch nên khỏi bàn đến làm ǵ. Thứ đến có 8 điều bàn đến
nghiă lư của Dịch, đại-để như thuyết của Văn Ngôn Truyện, Hệ
Từ Truyện cũng xin miễn bàn v́ trên nguyên-tắc ta không biết
là Tả Truyện bắt chước
Dịch Truyện hay ngược lại. Xin đan-cử việc Mục Khương
có nói đến Nguyên Hanh Lợi Trinh giống như Văn Ngôn Truyện
vậy, làm bằng-chứng.
Duy 10 điều c̣n lại chuyên luận dịch-tượng
là đặc-sắc hơn cả và hiển nhiên khơi mào
tượng-số
cho dịch-gia các đời sau (Tần, Hán, Ngụy). Thoán Tượng
Truyện thích nghiă quái hào hay dùng quẻ trinh tức quẻ dưới
(hạ-quái), quẻ trước
(nguyên-quái) và quẻ hối tức quẻ trên (thượng-quái), quẻ sau
(biến-quái), mà chưa hề đề-cập quái-tượng
hay quái-biến để phân-tích hào-từ. Chung quy, dùng
quái-biến tức hào chi để luận đoán bói dịch, khởi thuỷ từ
thời-đại của
Quốc-ngữ
và
Tả-truyện.
Chú-thích về hai chữ Trinh Hối貞悔
Thượng-Thư, Thiên Hồng Phạm nói: “Rằng Trinh, rằng Hối”. Lại
nói: “Bốc ngũ chiêm dụng. Nhị Diễn Thắc”. Trịnh Huyền chú:
”Nhị Diễn Thắc chính là Trinh Hối vậy”.
Kinh Pḥng Dịch-truyện lại nói: “Tĩnh là Hối mà phát động là
Trinh”.
Đường Lục Điển nói: “Phàm nội-quái là Trinh dùng để bói vào
buổi sáng; ngoại-quái là Hối dùng để bói vào buổi chiều”.
Hồ Bỉnh Kiền nói: “Kiền thượng-cửu là cuối của ngoại-quái
nên bảo rằng kháng long hữu hối; Khôn lục-tam là cuối của
nội-quái nên bảo rằng hàm chương khả trinh”. Như vậy, hai
chữ Trinh Hối không phát ra từ quẻ hay sao?
Ngoài "Tả-truyện左傳"
và "Quốc-ngữ國語",
các điển-tịch Tiên-Tần có dẫn Dịch c̣n có: "Luận-ngữ
論語"
(Thiên Tử Lộ),
“Lễ-kư禮記"
[các
thiên 30
(Phường-kư),
32
(Biểu-kư),
33
(Truy-y)
và 39
(Thâm-y)],
“Thi-tử
尸子",
"Tử-tư-tử子思子",
(492-431 B.C.) với sách trên lụa bạch Giản Cẩm Ngũ
Hành Giải Hỗ (321)
xuất thổ năm 1973 tại Hán-mộ #3, g̣ Mă-vương, di-chỉ
Trường-sa, tỉnh Hồ-nam và Sở giản Ngũ Hành xuất thổ
năm 1993 tại Kinh-môn Quách Điếm, "Tuân-tử荀子"
(khoảng 298-238 B.C.), "Chiến-quốc-sách戰國策"
và "Lă-thị Xuân Thu"呂氏春秋(Q13,
Thiên 7; Q15, Thiên Thủ; Q20, Thiên 5; Q22, Thiên 5). C̣n
sách "Trang-tử Nam-hoa-kinh莊子南華經
(308,
309)"
chỉ nói đến Dịch-kinh mà không sách-dẫn Dịch-văn.
Xem
Kỳ 103
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|