Kỳ 6:
Chủ đề thứ hai tiêu biểu mối giao duyên giữa tranh Gustave
Courbet và thơ Hồ Xuân Hương là chủ đề về các hang động. Chủ
đề này, theo Gaston Bachelard là một chủ đề đă có đông đảo
tác giả nổi danh tại nhiều nước Âu Châu khai thác. Tây Ban
Nha có Miguel de Cervantès (1547-1616) tác gia bộ Don
Quichotte; Pháp có Victor Hugo (1802-1885), Pivert De
Sénancour (770-1846), Anh có Virginia Woolf (882-1941), Đức
có Ludwig Tieck (1773-1853). Trong phạm vi hội họa có
Lucientes Goya (746-1828) cũng vẽ nhiều về hang động. Nhưng
chủ đề hang động của Gustave Courbet không cùng một hướng
với các tác gia kể trên. Trong nét họa của hang động của
Gustave Courbet, người xem tranh thấy ư thơ của Hồ Xuân
Hương rơ rệt hơn cả. Ḍng văn thơ lấy hang động làm chủ đề,
trong văn hoc Việt Nam, quen biết nhất có truyện Động Từ
Thức của Nguyễn Dư, tác phẩm này gợi hứng cho Tản Đà viết
bài Tống Biệt. Nhưng ḍng thơ viết về hang động của Hồ Xuân
Hương đứng ngoài ḍng thơ hang động mơ cảnh thần tiên nói
trên. Trái lại, trong thơ Hồ Xuân Hương, với chủ đề hang
động, người xem thơ thấy nét họa của Gustave Courbet.
Những bài thơ quen thuộc nhất, với chủ đề hang động của Hô
Xuân Hương là bốn bài dưới đây:
Động Hương Tích
Bầy đặt kia ai khéo khéo pḥm
Nứt ra một lỗ hỏm ḥm hom
............................................
Giọt nước vô t́nh rơi thánh thót
Con thuyền vô trạo cúi lom khom
.............................................
tiếp là bài:
Hang Cắc Cớ
Trời đất sinh ra dá một cḥm
Nứt ra đôi mảnh hỏm ḥm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập pḥm
Giọt nước hước hữu t́nh rơi lơm bơm
Con đường vô ngạn tối om om
..................................................
rồi tới bài:
Kẽm Trống
Hai bên th́ núi giữa th́ sông
Có phải đây là Kẽm Trống không
Gió giật sườn non khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
Ở trong hang núi c̣n hơi hẹp
Ra khỏi đầu non đă rộng thùng
................................................
và bài:
Hang Thánh Hóa:
Khen thay con tạo khéo khéo phàm
Một đố giương ra biết mấy ngoàm
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp
Lách khe nước rỉ mó lam nham
...............................................
Trong chủ đề hang động, những bức tranh của Gustave Courbet
thường được giới phê b́nh hội họa nhắc nhở tới là bức La
Source de La Loue, 1863, La Source de La Loue, 1864, (xem
Phụ bản 6) và trong tập sơ họa có bức Deme Verte, (xem Phụ
Bản 7) là bức Gustave Courbet phác họa từ ngoài hai chục năm
trước: năm 1840. Phê b́nh bức Dame Verte, Werner Hoffman
viết:
What again and again draws Coubet’s eye into caves,
crevices, and grottoes is the fascination that emanates from
the hiden, the imprenetrable, but olso the longing for
security. What is behind this is a panerotic mode of
experience that perceives in nature a femal creature and
consequenly projects the experience of cave and grotto into
the female body, At this point ‘realism’ turns into
symbolism [...]
Phụ bản 6. Thesource of loue
Lời b́nh tranh Gustave Courbet trên đây có thể dùng để b́nh
thơ Hồ Xuân Hương. Thật vậy, đọc những bài ngâm vịnh cảnh
thiên nhiên như hang, động, kẽm, người đọc thơ không ai
không nhận ra ư ngoài lời thơ của Hồ Xuân Hương: Nữ sĩ ngâm
vịnh những bộ phận thâm sâu trên cơ thể phụ nữ với những
h́nh ảnh hiện thực, hiện thực đến mức trở thành những biểu
tượng cho người đời sau.
Trở lại tranh Gustave Courbet, cảnh cửa hang không có cửa
đóng mở theo Charles Baudouin chính là cái khêu gợi:
le desir de curiosite est le desir de connaitre le secret de
la procréation.
Phụ bản 7. Dame Verte
Miệng hang không có cửa đóng như tạo cho con người đứng
trước cửa hang như t́m thấy một chốn chú thân đồng thời
không có ǵ kiềm tỏa. Phải chăng đó chính là niềm an lạc mà
tranh hang động của Courbet tạo cho người xem tranh? Tranh
Gustave Courbet thường có một tiêu điểm, focal point, đó là
một khoảng mầu đen đặt gần trung tâm khung vải. Tiêu điểm
này trong bức La Source de la Loue, năm 1864 là cửa động.
Trên phụ bản 6, người xem tranh thấy một ḍng nước từ trong
hang chẩy ra ngoài hơi xiên về mé phải. Ngược ḍng nước
người xem tranh nh́n vào ḷng hang. Mờ mờ hiện giữa ḷng
hang có một cột đá chia ḷng hang làm hai phần. Bóng cột đá
cũng hiện mờ mờ trên mặt nước, cũng chia ḍng nước thành
hai. Vách đá cùng mặt nước cùng một mầu đen: giữa vách đá và
ḍng nước có một sự phân biệt không có ǵ để tách biệt.
Người xem tranh vẫn biết đâu là nước và đâu là đá. Đó là cái
khác biệt giữa mầu đen và mầu đen trên khắp tiêu điểm bức
tranh. Ḍng nước, cũng cùng mầu đen với vách đá, từ ḷng
hang chẩy ra, trong tranh Gustave Courbet, như tạo ra âm
thanh trong tai người xem tranh. Trong bài Hang Cắc Cớ,
tiếng nước mô tả bằng hai chừ tượng thanh lơm bơm cũng vần
với ba chữ hỏm ḥm hom tượng h́nh mô tả cửa hang. Trong bài
Động Hương Tích cửa hang vẽ bằng chữ hỏm ḥm hom và tiếng
nước mô tả bởi chữ thánh thót. Sang bài Hang Thánh Hóa, cửa
hang mô tả bằng chữ ngoàm và tiếng nước đổi thành cảm xúc
trên đầu ngón tay: mó lam nham. Phải chăng âm thanh của nước
trong ḷng hang tối đen, trong tranh Gustave Courbet cũng
như trong thơ Hô Xuân Hương có đặc tính đúng như tả bằng chữ
‘ngoàm’.
The ears can hear deeper than eyes can see.
Nhận thấy hai phụ bản 8 và 9 Origine du Monde và tranh của
Andre Masson quá hiện thực, vượt khỏi tầm chấp nhận của đa
số độc giả, Ban Thường Vụ Truyền Thông xin thay thế bằng bức
tranh trên. Xin trân trọng cáo lỗi cùng bạn đọc cùng tác giả
bài cảo luận. Bạn đọc nào muốn xem hai bức họa nói trên, xin
vào www.google và t́m Coubert Gustave hoặc Origine du Monde.
Trong bóng đêm, con người không những lấy tai nghe thay mắt
thấy, mà nhiều khi c̣n lấy tay quờ quạng để ḍ đường. Như
vậy phải chăng khoảng mầu đen tiêu điểm trên tranh Gustave
Courbet, tượng trưong cửa động và ḍng nước ḷng hang, tương
ứng với những chữ tượng h́nh tượng thanh cùng cùng vần trong
thơ Hồ Xuân Hương? Phải chăng đó là mối giao duyên giữa thơ
Hồ Xuân Hương và tranh Gustave Courbet? Tiếng nước là ngôn
ngữ của nước. Như thơ Paul Eluard:
Je tiens le flot de la riviere comme un violon.
Gaston Bachelard dùng tiếng nước làm kết luận cuốn LEau et
les Rêves. Ôm kết
[...] la cascade fracasse ou le ruisseau balbute.
Limagination est un bruiteur, elle doit amplifier ou
assourdir. Une fois limagination maitresse des
correspondances dynamiques, les images parlent vraiment. On
comprendra cette correspondance des images et des sons, si
lon médite ces vers subtils où une jeune fille, penchée sur
le ruisseau, sent passer dans ses traits la beauté [...] la
cascade fracasse ou
And Beauty born of murmuring sound
Shall pass into her face.
Three years she grew.
Phải chăng, đúng như lời Gaston Bachelard, từ tiếng nước
trong tranh của Gustave Courbet và trong thơ Hồ Xuân Hương
đă nẩy ra cái đẹp của nữ tính trong tưởng tượng của người
xem tranh và người đọc thơ?