LÊ
PHỤNG
III
Trường hợp 2.
Các Thiền sư trả lời bằng những phán đoán đặt ngay vào câu
hỏi hay vị thề của người hỏi.
Đại Mai Pháp Thường trả lời: “Chẳng có ư chỉ ǵ trong việc
Tây lại của ngài hết.”
Long Nha Cư Tuần : “Đây là câu hỏi rất khó trả lời.”
Mục Châu Đạo Tung: “Ta không có câu trả lời”.
Báo Minh Đại Thánh: “Ta chưa từng đến Tây thiên.”
Thạch đầu Hi Thiên: “Hăy hỏi cây cột đăng đứng trơ ra đấy.”
Khi môn sinh chưa hiểu câu trả lời này, ngài tiếp: “Ta c̣n
mù tịt hơn cả ngươi”
Năm vị Thiền sư này đều tự nhận là không có khả năng đưa ra
một câu giải đáp. Phải chăng là bởi qúy tổ cho biết là
chính qúy tổ cũng không có câu giải đáp, với mục đích
cũng để giải thoát cho môn đệ ra khỏi áp lực của công án,
tựa như trong trường hợp 1. Đằng khác, phải chăng cả năm câu
trả lời này đều cho thấy là người hỏi đă không hỏi đúng
người. Đó, phải chăng cũng là một sự thiếu cân xứng, theo
Alexander Bain, để tạo ra nụ cười Thiền giải thoát cho môn
đệ. Đằng khác:
Bảo Giác Thủ Nhất: “Như bán nước bên bờ sông”.
Bảo Ninh Nhân Dũng: “Như thêm sương vào tuyết”
Hai vị Thiền sư này dường như nghi ngờ cố gắng của môn sinh
bởi giá trị công án, tựa như câu trả lời của Kính Sơn Đạo
Nhân: “Câu hỏi của người không đúng chỗ.” Môn sinh: “Phải
làm sao mới đúng chỗ?” trả lời: “Sau khi chết ta sẽ nói cho
ngươi biết.”
Phải chăng cả ba Thiền sư này cùng muốn xuống cấp chính câu
hỏi cũng như vị thế của người hỏi, bởi lẽ không đúng chỗ
không đúng lúc? Phải chăng sự xuống cấp này cũng nhằm mục
đích tạo ra nụ cười Thiền, để giúp môn sinh có lối thoát ly
khỏi áp lực của công án.
Trường hợp 3.
Đó là trường hợp các Thiền sư dùng lối đốn hành. Có
thoại chép rằng khi ThủyLăo hỏi Mă Tổ về ư chỉ của Đạt Ma,
ngài tống ngay cho một cái đạp vào hông té nhào xuống đất.
Khi chống chân đứng dậy, nhờ cái đạp của Mă Tổ, Thuỷ Lăo đại
ngộ, vỗ tay cười và nói: “Lạ thay! Lạ thay! Trăm ngàn tam
muội, vô lượng diệu nghĩa, chỉ nh́n trên đầu một sợi lông
th́ biết được căn nguyên liền.”
Trường hợp 4.
Đó là những trường hợp, hoặc tổ hoặc tăng sinh dùng một cử
chỉ thay ngôn ngữ. Một thầy tăng từ Quy Sơn đến Hương
Nghiêm. Hương Nghiêm hỏi” “Nhân có thầy tăng hỏi tổ Quy Sơn
về ư chỉ sang Trung Quốc của SơTổ, và khi trả lời, Quy Sơn
đưa cây phất tử lên. Bây giờ các ông hiểu như thế nào về
hành vi của Quy Sơn?
Thầy tăng đáp:
“Ư của tổ là tức sắc minh tâm,
phụ vật hiển lư”
Hương Nghiêm bảo: “Hiểu th́ hiểu, không hiểu th́ không hiểu.
Ích chi mà vội vàng thuyết lư như thế?
Thầy tăng tức th́ xoay người và hỏi “Ư của sư thí sao?”
Hương Nghiêm đưa cây phất tử lên như tổ Quy Sơn.
Cái đạp của Sơ Tổ trong trường hợp 4, cũng như hành vi đưa
cây phất tử lên cao của Hương Nghiêm, cả hai cùng như không
trực tiếp liên quan ǵ tới cái cười Thiền. Nhưng dường như
hành động đốn hành của Sơ Tổ hay hành vi dơ cao cây phất tử
của Hương Nghiêm cả hai cùng bất thần giải thoát cho
đồ đệ áp lực của công án mà môn sinh đang nung nấu. Như vậy
tác dụng dối với môn sinh, của đốn hành cùng những hành vi
bất thần này cũng chẳng khác ǵ tác dụng cũa nụ cười Thiền.
Trường hợp 5.
Gồm những câu trả lời viện dẫn
nhưng sự việc không thể có trong thế giới nhân quả tương đối
này. Tỷ như:
Long Nha Cư Tuần nói: “Bao ǵờ con rùa đen bằng đá biết nói,
rồi ta sẽ nói cho các ngươi nghe về ư ch́ Tây lai của tổ.
Động Sơn trả lời cho Long Nha: “Đợi khi Động thủy ngược
ḍng, ta saẽ nói cho ngươi biết.”
Mă Tổ trả lời cho tục gia đệ tử Bàng Uẩn: “Bao giờ ông uống
một hớp trọn cả Tây Giang, ta saẽ cho ông biết.”
Suzuki nhận xét là “tất cả nhưng điều kiện trên là hi hữu,
nếu như mọi đối đăi thời-không vẫn nguyên dạng đối với tâm
thức hữu hạn của chúng ta. Chỉ có thể hiểu chừng nào chúng
ta nhẩy vào một cảnh giới vượt trên kinh nghiệm đối đăi của
ḿnh.” So sánh với trường hợp 1, những câu giải đảp trong
trường hợp 5 này, cho người đọc thấy các thiền sư cũng muốn
tạo nên một sự chênh lệnh, nhưng những điều kiện nêu ra đều
rất cao v́ đều không có trong thế giới nhân quả này.
Trường hợp 6.
Điển h́nh cho những giải đáp sắp hạng trong trường hợp 6 là
giải đáp của Thiền Vân Môn: “Này các thầy, các thầy đi khắp
thiên hạ mong t́m ư chỉ của Tổ sư Tây lại nhưng cây cột
trước mắt các thầy hiểu rơ việc này. Các Thầy có muốn biết
làm sao cây cột lại hiểu được ư chỉ Tổ sư đến sứ này
không?”. Vân môn trả lời tiếp:
“Chín lần chín tám mươi một”.
Giải đáp của Vân Môn trên đây, tương tự như những giải đáp
trong trường hợp 1. Thiền sư Vân Môn đối chiếu câu hỏi với
cây cột trước mặt môn sinh. Tất nhiên cũng như trường hợp,
ngài đă tạo ra được một nụ cười Thiền giải thoát ap lực của
công án cho môn sinh. Nhưng ngài thêm một câu trong bản cửu
chương. Theo Suzuki
qua câu bảng cửu chương này Vân
Môn đă viện dẫn ra một kinh nghiêm tu tập thay v́ dùng một
danh lư. Kinh nghiệm đó là kinh nghiệm bất nhị, mà
Thiền giả thường dùng làm căn bản hóa giải những nghi hoặc
thành một nhất thể ḥa diệu.
Trường hợp 7.
Tiêu biểu bởi sự im lặng của Thiền sư Linh Thọ Như Mẫn khi
môn sinh hỏi về ư chỉ của Tổ sư đông du. Sự im lặng có thể
hiểu theo nhiều cách, khiến người đọc khó t́m ra được nụ
cười Thiền trong trường hợp này.
Trường hợp 8.
Gồm những trường hợp các Thiền sư nói ra những điều vô
nghĩa, dường như chẳng có chú liên quan ǵ với vấn đề . Thí
dụ như câu giải đáp của Nam Đài Cần :
“Lông rùa một tấc nặng bẩy
cân.”.
Câu của Vân Môn Đạo Tín:
“Rắn cổ mộ ngh́n năm,
Ngày nay đầu mọc sừng”
Những câu giải đáp này dường
như tương tự với nhưng câu trong trường hợp 5. Suzuki nói rơ
thêm trong trường những hợp này:
Khó mà rút ra ư chỉ từ những
nhận định đó nếu chúng ta chỉ là những kẻ từ chương. Cái
mệnh danh là kinh nghiệm Thiền như vậy phải tiêu giải hết
mọi quan hệ thời-không mà chúng ta đang sống, đang hành
động, và suy lư ở trong đó. Chỉ khi nào chúng ta trải qua
cuộc kư danh này, bấy giờ một sợi lông rùa mới nặng bẩy kư
và một biến cố ngh́n năm về trước trở thành một kinh nghiệm
sống động trong giây phút này đây.
Người đọc cảm thấy rằng những lời vô nghĩa trong nhưng giải
đáp trên, cũng như những điều không thể có trong thế giới
nhân quả tương đối này cũng đều là nhưng sự đối chiếu thiếu
cân xứng tạo nên nụ cười Thiền, để giúp môn sinh tạm thoát
được áp lực của công án. Đó là diều người đọc nhận ra trong
cuộc đối thoại của Thạch Sương Khánh Chư với môn sinh tới
hỏi ông về ư chỉ của sư Tây lại. Thạch Sương Khánh Chư giải
đáp là:
-
Một tảng đá trơ trọi
giữa trời.
Khi môn sinh làm lễ bái tạ, Sư hỏi:
-
Hiểu không?
Đáp:
-
“Bẩm không.”
Sư bảo:
-
May mà ông không hiểu,
nhược bằng hiểu th́ đầu ông chắc chắn sẻ vỡ ra từng mảnh
Phải chăng cái đầu môn sinh có thể vỡ ra từng mảnh là do áp
lực của sự say mê giải đáp công án?
Trường hợp 9.
Là những trường hợp các Thiền
sư nêu ra một vài sáo ngữ, vốn không hẳn là những lư lẽ
đương nhiên, nhưng cũng không hoàn toàn vô nghĩa như các
trường hợp 8.
Nguyệt Đỉnh Đạo Luân trả lời:
涼
風
卻
退
簷
前
暑
Lương phong khước thối diêm
tiền thử
Nghĩa là:
Cơn gió mát đuổi hơi nóng ra
hiên trước
Bảo Hoa Nghiêm nói:
霜
雪
風
落
葉
Sương tuyết phong lạc diệp
Nghĩa là:
Sương tuyết gió rụng lá
Môn sinh hỏi: “Thế là nghĩa ǵ?”
Thiền sư đáp:
逢 春 又 卻 生
Phùng xuân hựu khước sinh
Nghĩa là:
Xuân sang lại nẩy chồi.
Những khẩu quyết trên đây, có phần dễ hiểu hơn nhưng khẩu
quyết đề cập tới “lông rùa nặng bẩy cân” hay “uống một hớp
trọn cả con sông.” Tuy nhiên, những khẩu quyết mới này cũng
không phải là dễ hiểu, bởi những khẩu quyết này nhằm giải
nghĩa chuyến Đông du của Sơ Tổ, nên người nghe nhận thấy sự
thiếu mạch lạc giửa câu hỏi và câu giải đáp. Nhưng việc dùng
các biến tượng của thiên nhiên để giải thích các vấn đề của
Thiền, đa số các trường hợp đối chiếu một câu hỏi mà óc
tưởng tượng của thiền sinh không dễ ǵ nh́n xuyên qua với
nhưng biến tượng của thiên nhiên. Đó cũng là một sự thiếu
cân xứng theo thuyết của Alexander Bain. Thế nên trong những
trường hợp có sự so sanh thiếu cân bằng như vậy là có nụ
cười Thiền trong việc truyền thụ Thiền học.
oOo
Xem Kỳ
8
LÊ
PHỤNG
www.ninh-hoa.com |