LÊ
PHỤNG
III
Ngoài chuỗi cười ṛn, nhiều Thiền sư thựng dùng phương pháp
nhún ḿnh làm hề, không phải chỉ riêng trong việc
giảng pháp mà c̣n biểu thị nếp sống tự do tự tại của thiền
giả ở ngoài mọi cương tỏa. Giới Thiền học thường nhắc tới
hai giai thoại sau đây.
Một là khi đạo Thiền mới du nhập Trung Quốc, Lương Vũ Dế
muốn hiều kinh Kim Cương, cho mời thiền sư Phó Đại Sĩ
(497-569) tới giảng. Phó Đại Sĩ bước tới bên bàn của giảng
đường, nhà vua chăm chú ngồi nghe. Phó Đại Sĩ găi lên mặt
bàn, rồi bước xuống khỏi giảng đường và cất tiếng hỏi Vũ Đế:
“Bệ hạ đă hiểu chưa?” Vũ Đế trả lời: “Ta không hiểu”. Phó
Đại Sĩ nói tiếp: “Bồ Tát đă thuyết pháp xong rồi”.
Lần sau Phó Đại Sĩ ra mắt Lương Vũ Đế, đầu đội mũ, ḿnh mặc
cà sa, và chân đi giầy. Thủa đó, sư Phật giáo không dội mũ;
mọi phương sĩ đều không đi giầy, và một thường dân không mặc
áo cà sa. Thế nên ngài Phó Đại Sĩ chẳng phải là một nhà,
chẳng phải là phương sĩ và cũng chẳng phải là thường dân.
Giai thoại thừ hai là giai thoại về Kakua, người Nhật Bản
đầu tiên sang Trung Quốc tu tập đạo Thiền. Khi trở về Nhật
Bản, ông được Hoàng Đế vời tời để tường tŕnh cho Ngai biết
về nhưng điều mà Kakua đă hấp thụ được về đạo mới này. Giữa
sân rồng, Kakua lấy trong túi áo ra một ống sáo, khấu đầu
kính chào Hoàng Đế, rồi đưa sáo lên miệng thồi một tiếng
ngắn, đoạn khấu đầu kính cẩn tạ từ Hoàng Đế, rồi đi ra
.
Giới phê b́nh ngày nay cho rằng Kakua đă khéo léo cô đọng
thiên kinh vạn quyển Thiền học vào một tiếng sáo ngắn.
Giới Thiền Sư không ngần ngại dùng những kỹ thuật chọc
cười, nhiều khi như hỗn hào, của giới làm hề để biểu thị,
ngoài việc truyền thụ giáo lư, mọi nếp sống ngoài ṿng trói
buộc của xă hội vụ lợi. Sử Thiền học c̣n chép truyện Thiền
sư Tuyết Phong, thường dùng ba trái banh bằng gỗ, luôn tay
tung hứng như những vai hề trong các gánh xiếc và khi có
người tới xin làm đệ tử của thầy th́ thầy bắt người đó bắt
đầu phải học môn tung bắt trước khi bắt đầu học sách Thiền.
Lại có truyện Thiền giả Thạch Đầu, một hôm có người tới hỏi
ông về một điểm khá khúc mắc trong Phật học, thời Thạch Đầu
gắt gỏng mắng rằng: “Im mồm. Đừng ủng ẳng như chó sủa nữa!”
Lại thêm Thiên Long, khi môn đệ hỏi ông ngả nào dẫn vào đất
Phật, thời ông không trả lời và chỉ dơ lên một ngón tay. Lại
thêm Phổ Hóa, kề chuông bên tai thiên hạ mà lắc, để những
mong giúp người nghe tiếng chuông mà đốn ngộ. Vân Môn là tổ
Vân Môn Tông nổi danh về những câu trả lời tiếng một. Khi tổ
làm thủ ṭa, có người hỏi chỗ im lặng của tiên sư phải viết
ra thế nào. Vân Môn đáp bằng một chữ “Sư.” Một chữ “Sư” ở
đây cho người đọc thấy ngay nó chứa đựng nhiều ẩn ư, và một
trong những ẩn ư đó đang ở trong tâm của Vân Môn, khi Tổ
thốt ra lời này. Đích thực nó ra sao sẽ là một vấn đề mà
người học Thiền phải tự ḿnh khêu tỏ.
Qua những giai thoại kể trên, người đọc thoáng nhận ra những
nụ cười, tạm gọi là nụ cười Thiền. Nhưng muốn nhận diện được
nụ cười Thiền, người đọc không có cách nào hơn là tham khảo
những cuốn sách viết về nụ cười. Đoạn kế tiếp dưới đây ứng
dụng những thành quả tŕnh bày trong cuốn Cười, Nguyên Nhân
và Thực Chất của Dương Tấn Tươi, do cơ sở xuất bản Phạm
Quang Khai phát hành năm 1968 tại Sai G̣n. Tác giả cuốn sách
đă khéo thu gọn nhiều triết thuyết về nụ cười của nhiều
triết gia danh tiếng và dẫn dắt người đọc về tiếng cười của
người Việt Nam qua những truyện cười, truyện tiếu lâm. Nối
dài phương pháp của Dương Tấn Tươi để t́m nguyên nhân và
thực chất nụ cười Thiền là chủ đích của nhưng trang kế tiếp.
Bắt đầu là nguyên nhân và thực chất của nụ cười của thế
nhân, Dương Tấn Tươi viết:
Muốn [cuời] cần phải dập tắt t́nh cảm, dùng toàn trí óc và
phải có đầy đủ tự do.
Đằng khác, dập tắt t́nh cảm là điều người muốn xuất gia phải
đoạt được; dùng trí óc vả kinh nghiệm để phán đoán là cố
gắng thường xuyên của người học Thiền, và dùng nụ cưới Thiền
trong việc truyền thụ Thiền học, người học Thiền muốn tỏ ra
là ḿnh có đầy đủ tự do. Thế nên, rơ ràng là có sự tương ứng
giữa nụ cười của thế nhân và nụ cười Thiền.
Quay lại việc t́m hiễu nguyên nhân và thực chất của cái cười
của thế nhân, đựa theo lập luận của Alexander Bain
(1818-1903), người đọc ghi nhận hai điểm căn bản:
Cười là một sự giải thoát;
Nguyên do chính của cái cười
là sự không cân xứng.
Cười là một sự giải thoát, khi con người thoát ra khỏi một
trói buộc vật chất cũng như tinh thần.
Chúng ta, ai cũng từng biết truyện thàng Bờm, từ chối đề
nghị “ba ḅ chín trâu” của phú ông, rồi từ chối cả “ao sâu
cá mè”, cả “bè gỗ lim”, cả “chim đồi mồi”, rồi khi phú ông
đưa ra nắm sôi th́ Bờm cười. Phải chăng, có thể là Bờm cười
v́ lúc đó Bờm đang đói bụng, và nắm sôi giải thoát cho Bờm
cái cồn cào trong bụng đói?
Cái cười gây ra bởi sự không cân xứng thường thường là cảnh
dốt lại hay khoe chữ, hay cảnh cú đậu cành mai
của những anh xấu trai lấy vợ đẹp. Cái cười bởi sự không cân
xứng là cái cười của câu truyện cổ:
Mười Voi
Xưa một nhà có ba người con rể. Hai người rể lớn th́ giầu
có, người rể thứ ba th́ nghèo khổ, không có cóc khô ǵ,
nhưng được cái mồm nói huyếch nói hoáng, chỉ một tấc đến
trời.
Khi bố vợ mất, hai người rể lớn, người th́ đem lợn gạo,
người th́ đem gà vịt đến làm lễ viếng. C̣n anh thứ ba trơ ra
chẳng có ǵ, lại c̣n đon đả nói ở nhà với vợ rằng:
To ǵ con lợn, lớn ǵ gà vịt.
Để ta đi mua hằn mười voi thật to thật lớn về làm lễ cúng
cho mà xem.
Nói rồi bỏ đi. Đi luôn mấy
hôm, cả nhà đợi măi chẳng thấy về. Cập kỳ đến lúc đám đă cất
rồi mới thấy anh ta lù lù dẫn cái mặt đến, vừa làm ra bộ
giận dũ, vừa làm như lấy làm tiếc, xót xa trong ḷng mà phàn
nàn rằng:
Rơ thật tức cả ḿnh! Ḿnh định
mua kỳ được mười voi. Một người có tám con đem bán, ḿnh bảo
được dử cà mười mới mua. Họ đi kiếm măi không được, rồi lại
bỏ đi mất hút đằng nào, làm cho ḿnh chờ đợi mất công mà vô
ích.
Thật quả là:
Mười voi không được bát nước
sáo.
Paul Reps & Nyogen Senzaki, Zen Flesh and Zen Bones: A
collection of Zen and Pre-Zen Writing,
Doubleday, Garden City,
1959, p.60-61.
Dương Tấn Tươi, Cười, Nguyên Nhân và Thực Chất, sđd.
tr. 42.
Dương Tấn Tươi không cho biết ông đă dùng tác phẩm nào của
Bain.
Nguyễn Văn Ngọc, Truyện CổNước Nam, tập I, cơ sở Đại
Nam
tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 34
oOo
Xem Kỳ
6
LÊ
PHỤNG
www.ninh-hoa.com |