IV
Về Vườn (tiếp)
Quay về
với ruộng vườn là tìm nẻo hòa mình với thiên
nhiên.
Nhìn theo tiến trình của con người theotiến trình Nguyễn
Khuyến - Gabriel Marcel đó là thẳng tiến vào lẽ diệu huyền
của cuộc sống. Phải chăng đó cũng chính là ý nghĩa của việc
Đào Tiềm và Nguyễn Khuyến từ quan về với ruộng vườnthuận
theo con tạo vui
cùng cảnh thiên nhiên?
Nguyễn khuyến
ngâm vịnh cảnh thiên nhiên trong dòng thơ ghi lại những
thắng cảnh của đất nước trong nhiều chuyến ông vào kinh ra
bắc. Từ ngày từ quan về Vườn Bùi, thắng cảnh ông ngâm vịnh,
cả bằng thơ Việt Âm và thơ nôm, là
những thắng cảnh nơi quê nhà. Đặc biệt là Núi An Lão ở thôn
An Lão, xã Quế Sơn, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Núi này còn
gọi là Quế Sơn, Nguyễn Khuyến lấy làm biệt hiệu cho mình.
Ngoài ra Nguyễn Khuyến còn ngâm vịnh núi Long Đội, tên nôm
là Núi Đọi, ở xã Long Đội, huyện Duy Tiên, Hà Nam, trên núi
có ngôi chùa Đọi. Hình ảnh ngôi chùa này sâu đậm trong trí
nhớ Nguyễn Khuyến khiến ông viết thành hai bài thơ Nôm và
hai bài thơ Việt Âm, một trong hai bài đó như sau:
憶 龍 隊 山
Ức Long Đôi Sơn
近 來 衰 病 不 參 禪
Cận lai suy bệnh bất tham thiền
回 憶 前 遊 亦 愴 然
Hồi ức tiền du diệc sảng nhiên
古 寺 四 鄰 唯 木 石
Cổ tự tứ lân duy mộc thạch
寒 僧 一 榻 共 雲 湮
Hàn tăng nhất tháp cộng vân yên
幾 層 竹 影 疑 無 路
Kỷ tằng trúc ảnh nghi vô lộ
有 客 桑 間 立 待 船
Hữu khách tang gian lập đãi thuyền
野 老 未 知 鍾 響 午
Dã lão vị tri chung hưởng ngọ
放 牛 山 麓 臥 松 眠
Phóng ngư sơn lộc ngọa tùng miên.
Nguyễn Khuyến tự
dịch là:
Nhớ Cảnh Chùa Đọi
Già yếu xa xôi bấy đến nay
Làng chơi loáng thoáng lại buồn thay
Chùa xưa ở lẩn cùng cây đá
Sữ cụ nằm chung với khói mây
Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến dâu đây
Chuông trưa vẳng tiếng người không biết
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.
Như ghi rõ trong
đầu đề bài thơ, Nguyễn Khuyến không đối cảnh sinh tình mà
dùng nhưng hình ảnh ghi trong trí nhó mà viết ra hai bài thơ
củng một hứng thơ bằng hai ngôn ngữ. Nhìn trên mặt dịch thơ,
bài thơ dịch như thể không phải là thơ dịch. Tỷ như câu thứ
hai trong bài thơ Việt Âm có nghĩa là:
Nhớ lại chuyền đi chơi trước đây, lòng cũng bùi ngùi
Câu tương ứng
trong bài thơ nôm nói rõ tại sao tác giả bùi ngùi:
Làng chơi loáng thoáng lại buồn thay
Chữ mới
ở đây là chữ làng
chơi, đó
là chữ tác giả tự xưng hay là bằng chứng tác giả nhớ các bạn
cùng đi chơi trước kia, nay đã mấy đi một vài ngưòi khiến
tác giả bùi ngùi tấc dạ? Bốn câu kế tiếp, cả trong bài Việt
Âm và bài nôm cùng là một bức tranh thiền với ngôi chùa nhỏ
trong khóm trúc, duới tầng mây chêng vênh trên vách đá. Có
một điểm bất ngờ là có người khách đứng đợi thuyền trên bến
nuơng dâu. Hình ảnh nương dâu gợi cho người đợc hai chữ dâu
biển trong
tiếng Việt Nam là hình ảnh sự biến đổi lớn và trong không
khí thiền của bài thơ dường như tiêu biểu cho ý niệm vô
thường của
nhà Phật. Hình ảnh người khách đợi thuyền bên bến bãi dâu
này còn gợi cho người con Phật đọc thơ dòng mật chú trong
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh:
Yết đế yết đế ba la yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề tát bà ha
theo Hòa Thượng
Tuệ Sỹ 51có
nghĩa là :
Này trí tuệ! Đi qua đi, đi qua bờ bên kia
đi qua đến bờ bên kia
svaha!
Đơn giản hơn,
hình ảnh người đợi đò trong nương dâu này là hình ảnh con
người trong cõi vô thương chờ bè pháp sang bên bờ bên kia
bến mê.
Hai câu kết bài
thơ Việt Âm cùng một ý thơ với bài thơ nôm :
Chuông xưa vẳng
tiếng người không biết
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây
cùng
mang đến cho người đọc bức tranh trâu thứ mười một, ngoài
mười bức tranh trâu thường gặp trong nhiều chùa. Mười bức
tranh trâu cổ điển là mười bức tranh mô tả mười giai đoạn
công trình của người tu tập đi tìm cái
tính của
mình bởi để đạt được trạng thái kiến
tính thành Phật. Trong
mười giai đọan đó người tu tập phải kiên trì vất vả đi tìm
con trâu, tượng trưng cho cái
tính của
mình. Trong hai câu kết bài thơ, dường như ông lão quê, không
biết tới tiếng chuông,
thả trâu bên sườn non, nằm ngủ dưới gốc cây. Phải chăng hình
ảnh ông lão quê này chính là hình ảnh Nguyễn Khuyến tự họa?
Tuổi mỗi năm một
cao, bè bạn mỗi ngày một thưa vắng, Nguyễn Khuyến bớt đi
thăm viếng danh lam thắng cảnh mà ở nhà ngâm vịnh thiên
nhiên qua biến đổi bốn mùa làm vui.
Trong những
tuyển tập thơ của An Lão Tam Nguyên Công, người đọc đếm được
khoảng trong ngoài hai mười bài thơ viết về mùa xuân , hai
chục bài viết về mùa hè, mươi
bài về mủa thu, và năm sáu bài về mùa đông
Điển hình nhánh
thơ mùa xuân của Nguyễn Khuyến là ba bái cùng một đề tài như
sau :
春 日
一
霜 氣 曚 曨 滿 地 飛
Sương khí mông lung mãn địa phi
晨 光 飄 忽 恨 熹 微
Thần quang phiêu hốt hận hy vi
圍 金 橘 核 猶 藏 甲
Viên kim quất hạch do tàng giáp
盆 水 仙 花 未 解 衣
Bồn thủy tiên hoa vị giải y
曉 滴 幽 篁 如 自 泣
Hiểu trích u hoàng như tự khấp
夜 鳴 獨 鶴 似 安 歸
Dạ minh độc hạc tự an quy
畏 寒 懶 欲 推 衣 起
Úy hàn lãn dục thôi y khởi
外 戶 常 開 客 亦 稀
Ngoại hộ thường khai khách diệc hy.
二
籬 竹 橫 斜 半 雨 陰
Ly trúc hoành tà bán vũ âm
藤 床 徙 倚 坐 春 深
Đằng sàng tỷ ỷ tọa xuân thâm
鄰 童 晨 起 讀 三 字
Lân đồng thần khởi độc tam tự
飛 鳥 偶 過 遺 一 音
Phi điểu ngẫu qua di nhất âm
詩 到 窮 時 無 俗 骨
Thi đáo cùng thời vô tục cốt
事 因 醉 後 有 雄 心
Sự nhân túy hậu hửu hùng tâm
老 休 幕 恨 賓 朋 少
Lão hưu mạc hận tân bằng thiểu
彭 澤 相 知 只 素 琴
Bành trạch tương tri chỉ tố cầm
三
妄 春 不 知 春 已 歸
Vọng xuân bất tri xuân dĩ quy
寒 春 漠 漠 雨 飛 飛
Hàn xuân mạc mạc vũ phi phi
庭 階 芽 甲 有 生 意
Đình giai nha giáp hữu sinh ý
上 下 鳥 魚 無 滯 機
Thượng hạ điểu ngư vô trệ ky
塵 世 有 時 黃 鶴 去
Trần thế hữu thời hoàng hạc khứ
海 波 何 處 白 鷗 飛
Hải ba hà xứ bạch âu phi
北 窗 獨 酌 頹 然 醉
Bắc song độc chước đồi nhiên túy
一 欲 穿 鞋 上 翠 微
Nhất duc xuyên hài thượng thúy vi.
dịch là
Ngày Xuân
Một
Là là sương khói mung lung
Giận trời chậm sáng thêm buồn lòng ta
Thủy tiên tỉa chửa ra hoa
Quất gieo hạt chẳng trổ ra vườn ngoài
Ngọn tre chĩu giọt sương mai
Xạc xào tiếng hạc cao bay lưng trời
Tung chăn mặc áo cũng lười
Cổng ngoài mở rộng thưa người tới thăm.
Hai
Giậu tre nghiêng ngả gió vần
Ghế mây ngồi ngắm cảnh xuân kề cà
Nhà bên trẻ học ê a
Bóng chim lạc lõng bay qua âm thầm
Lúc cùng thoát tục thơ ngâm
Khi say thêm chút hùng tâm nhìn đời
Lão hưu lui tới thưa người
Đàn xưa Bành Trạch suốt đời không dây
Ba
Đón xuân chẳng thấy xuân về
Tầng mây lành lạnh bốn bề mưa rơi
Bên thêm cây cối đâm chồi
Dưới ao cá lội lưng trời chim bay
Hạc vàng bỏ cõi trần này
Biển khơi âu trắng ai hay chốn nào
Một mình song bắc rượu vào
Những toan xỏ dép núi cao cũng trèo.
Ba bài Ngày Xuân
trên đây có thể coi là bài tiêu biểu cho nếp sinh hoạt hàng
ngày của Nguyễn Khuyến.
Trong bài thứ
nhất, Nguyễn Khuyến tỉnh giấc khi trời chưa sáng, và người
thơ cảm thấy buồn buồn. Ông nghĩ tới giò thủy tiên mới gọt
chua ra hoa, hạt
quất gieo chưa trổ mầm. Rồi trời củng sáng ra, ông nhìn thấy
ngọn tre chĩu sương và thoáng nghe tiếng hạc bay ngang trời.
Nhưng trời lạnh khiến ông lười tung chăn mặc áo, và như còn
buồn nỗi thưa vắng bè bạn tới thăm. Chuỗi hình ảnh trên đây
cho thấy tác giả nôn nóng sống một ngày mới để buồn vì trời
chậm sáng, thủy tiên chậm ra hoa, hạt quất gieo chẳng nẩy
mầm. Nhưng điều mong uớc nho nhỏ đó, trong tầm với của một
người tuổi đã cao, là những hy vọng Nguyễn Khuyến tự tạo cho
mình, mong được sớm thực hiện, và cũng là mối khắc khoải chở
đợi trong cảnh hưu quan. Vị hưu quan còn cái sung sướng nằm
lười trên giường không phải chịu cảnh chạy theo giờ giấc như
thủa còn tại chức. Bù lại, phải chăng, cổng mở rộng mà vắng
khách viếng thăm là cái giá người thơ phải trả cho nhưng
giây phút năm lười trong chăn ấm này?
Sang
bài thứ hai, trong hai câu mở đầu là cảnh lúc trời đã sáng
rõ, Nguyễn Khuyến đã mặc áo đóng khăn ra ngồi trên ghế mây
nhìn nhọn tre chĩu sương mai, nghe tiếng trẻ con hàng xóm
học sách Tam Tự Kinh, nghe vẳng tiếng chim kêu. Nguyễn
Khuyến lạithoát
tục lảm
thơ, người thơ nhấp rượu để thêm hùng tâm nhìn đời. Tuy
nhiên, bù lại cái buồn thiếu vắng bạn, Nguyễn Khuyến liên
tưởng tới cây đàn không dây của Đào Tiềm. Qua ý thơ, này
phải chăng là Nguyễn Khuyến đã nhớ tới truyện Đào Tiềm chỉ
muốn thưỏng thức tiếng nhạc mà không cần nghe tiếng giây tơ
rung, thời niềm vui với bạn phải chăng đâu cần phải gặp bạn?
Hai câu mở đầu
bài thứ ba Nguyễn Khuyến ghi lại cảnh mưa xuân, khiến tác
giả như không thấy xuân về. Đó là tâm cảnh người thơ lúc đó,
nhưng con tạo không vì người thơ mà ngưng tiến hóa. Ao sau
cá vẫn lội, trời cao chim vẫn bay. Trong tâm người thơ, hạc
vàng vẫn bỏ cõi trần này bay đi như câu mở đầu bài Hoàng Hạc
Lâu của thi sĩ Thôi Hiệu đời Đường:
昔 人 已 乘 黃 鶴 去
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
kể lại tích
người tiên Phí văn Phi một thủa cỡi hạc về thăm lầu Hoàng
Hạc ngay nay chẳng ai biết ở nơi đâu. Hình ảnh hạc vàng bỏ
cõi trần tượng trưng cho cái cảnh ngưòi tiên về cõi tiên.
Hình ảnh chim biển trắng giữa biển khơi trong câu tiếp theo
là hình ảnh tiêu biểu cho cảnh phóng khoáng không giàng
buộc. Phải chăng, đặt hạc vàng đối với âu trắng, rồi tiếp
tới hai câu kết, mối hùng
tâm sau tuần rượu, Nguyễn Khuyến muốn xỏ giép leo núi cao
khiến người đọc nhớ tới chuỗi hình ảnh đoạn cuối bài Quy Khứ
Lai Hề Từ của Đào Tiềm:
富 貴 非 吾 願, 帝 鄉 不 可 期
Phú qúy phi ngô nguyện, đế hương bất khả kỳ
懷 良 辰 以 孤 往, 或 植 扙 而 耘 耔
Hoài lương thời dĩ cô vãng, hoặc thực trượng hoặc nhi vân tỉ
登 東 皋 以 舒 嘯, 臨 清 流 而 賦 詩
Đăng đông cao dĩ thư khiếu, lâm thanh lưu nhi phú thi
dịch là
Lợi danh chẳng đợi chẳng mong
Cung tiên xa thẳm cũng không có màng
Ước mong được buổi rảnh dang
Nghỉ tay vun xới chiều vàng dạo chơi
Lên cao thở mạnh một hơi
Bên khe thi tứ đầy vơi dạt dào
Sang mùa hè,
tiết trời thay đổi, cảnh thơ của Nguyễn Khuyến cũng đổi thay
như ghi trong bài:
夏 日
Hạ Nhật
輕 風 嫩 暑 夏 之 初
Khinh phong nộn thử hạ chi sơ
大 醉 狂 吟 獨 有 余
Đại túy cuồng ngâm dộc hữu dư
巿 婦 承 盤 供 熟 荔
Thị phụ thừa bàn cung thục lệ
佃 翁 發 笱 賣 鮮 魚
Điền ông phát cẩu mại tiên ngư
宿 酲 乍 起 一 聞 雉
Túc trình sạ khởi nhất văn trĩ
舊 句 未 忘 頻 檢 書
Cựu cú vị vong tần kiểm thư
蓬 蓽 此 間 供 老 病
Bồng tất thử gian cung lão bệnh
栖 栖 塵 路 更 何 如
Thê thê trần lộ cánh hà như.
dịch là
Ngày Hè
Nắng hoe gió nhẹ vào hè
Thơ ngâm say khướt lè nhè nghêu ngao
Bà hàng đội vải tới chào
Thôn ông mang mẻ cá vào mời mua
Trĩ kêu tỉnh giấc say sưa
Ôn trang sách cũ câu vừa chợt quên
Cảnh già mái dạ tường phên
Đường đời nào biết rồi nên thế nào.
Cảnh thơ là một
ngày đầu mùa hè. Người thơ vẫn tiếp tục ngâm thơ nhấp rượu,
nhưng cổng ngoài có người ra vào.: có bà hàng vải, có thôn
ông bán cá. Tiếng trĩ kêu làm Nguyễn Khuyến tỉnh giấc. Nhưng
duờng như ông chợt quên một câu sách cữ vội tìm sách kiểm
lại trí nhớ. Phải chăng vì vậy mà Nguyễn Khuyến chợt thấy
mình già, cảnh già dưới mái dạ tường phên, mà tự hỏi rồi ra
đường đời sẽ ra sao. Đằng khác câu:
舊 句 未 忘 頻 檢 書
Cựu cú vị vong tần kiểm thư
nhắc người đọc
câu:
欲 辨 已 忘 言
Dục biện dĩ vong ngôn
nghỉa là:
Muốn bàn mà quên lời
trong bài Ẩm Tửu
Đệ Ngũ Thủ của Đào Tiềm
Ý nghĩ buồn buồn
này chỉ thoáng qua, Nguyễn Khuyến ghi lại một cảnh chiều hè
khác lạc quan hơn:
夏 日 晚 眺
Hạ Nhật Vãn Diểu
四 月 初 回 暑 氣 濃
Tứ nguyệt sơ hồi thử khí nồng
一 清 啼 鳥 綠 陰 中
Nhất thanh đề điểu lục âm trung
家 人 晒 穀 爭 逃 雨
Gia nhân sái cốc tranh đào vũ
婦 女 登 蠶 擬 護 風
Phụ nữ đăng tàm nghĩ hộ phong
原 濕 貪 天 歸 亦 晚
Nguyên thấp tham thiên quy diệc vãn
雲 陰 覆 日 影 猶 紅
Vân âm phúc nhật ảnh do hồng
百 年 奕 奕 誰 無 事
Bách niên dịch dịch thùy vô sự
散 髮 承 涼 獨 乃 翁
Tán phát thừa lương độc nãi ông.
dịch là
Ngắm Cảnh Chiều Hè
Đầu tháng tư nóng như nung
Bóng cây chim hót tưng bừng líu lo
Trai hò đậy thóc tránh mưa
Buồng tàm gái chặn gió lùa khép song
Đồng chiêm tiếc việc tham công
Mặt trời mây phủ ánh hồng chưa phai
Cuộc đời bận rộn mặc ai
Tóc hong hóng gió lão này riêng thôi.
Cũng
như trong bài Quan Hoạch, Xem Gặt, ngày mùa hạ mọi người bận
rộn trai lo đậy thóc tránh mưa gái lo khép của tránh gió cho
tằm, người làm đồng mặt trời lặn chưa muốn về, riêng tác giả
ung dung nhàn nhã hong tóc trước gió mát. Đó là điểm khác
biệt giữa cảnh hưu quan của Nguyễn Khuyến và cảnh Đào Tiềm
từ quan về sinh
sống bằng nghề nông. Tuy nhiên giữa Đào Tiềm và Nguyễn
Khuyến có một điểm chung bất biến. Đó là cả hai nhà thơ cùng
là những ông
say như
Nguyễn Khuyến ghi trong bài:
Vịnh Mùa Hè
Biếng trông trời hạ nước non xa
Ý khí ngày thường nghĩ đã trơ
Cá vượt khóm rau lên mặt nước
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa
Thơ Đào ngâm vịnh đưa câu rượu
Xóm Liễu quanh khe chịu tiếng khờ
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Sấm đông rầm rập gió nồm đưa.
Bài thơ Việt Âm
tương ứng là bài:
Hạ Nhật Ngẫu Hứng
不 堪 夏 日 望 修 途
Bất kham hạ nhật vọng tu đồ
平 日 凌 雲 志 氣 孤
Bình nhật lăng vân chí khí cô
覆 沼 綠 蘋 跳 一 鯉
Phú chiểu lục tần khiêu nhất lý
當 門 翠 竹 舞 雙 蝴
Đương môn thúy trúc vũ song hồ
淵 明 吟 興 哆 歸 酒
Uyên Minh ngâm hứng đa quy tửu
子 厚 環 溪 儘 為 愚
Tử Hậu hoàn khê tẫn vị ngu
閒 坐 方 將 取 杯 酌
Nhàn tọa phương tương thủ bôi chước
雨 從 東 至 好 風 俱
Vũ tòng đông chí hảo phong câu.
Hai câu mở đầu
bài thơ cho thấy dường như Nguyễn Khuyến muốn bàn tới một
truyện mà hàng ngày ông thường bận tâm suy nghĩ. Mối suy
nghĩ đó bực bội như cái oi bức mùa hè. Chuỗi hình ảnh trong
câu ba và bốn trong hai bài Vịnh Mùa Hè của Nguyễn Khuyến
rất khác thường. Câu:
Cá vượt khóm rau lên mặt nước
làm người đọc
liên tưởng tới câu chót bài ca dao Lính Thù Đời Xưa 52:,
tiêu biểu cho giấc mơ của người lính thú
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng
Hình ảnh con
bướm trong câu tiếp:
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa
làm người đọc
nhớ tới con bướm trong giấc mơ của Trang Châu, trong sách
Nam Hoa Kinh 53:
Xưa Trang Châu chiêm bao thấy mình là bướm, vui phận làm
bướm, tự thấy thích chí, không còn biết có Châu nữa. Chợt
tỉnh giấc, thì lại thấy mình là Châu. Không bết Châu chiêm
bao làm bướm, hay bướm chiêm bao là Châu.
Cùng là những
giấc mơ, nhưng giấc mơ cũa người lính thú là giấc mơ thoát
khỏi vòng trói buộc của một người đang sống trong vòng trói
buộc, giấm mơ của Trang Châu là giấc mơ của một chân nhân đã
thoát vòng cương tỏa.
Chữ Đào trong
câu thứ năm chỉ Đào Tiềm, một nhà thơ Trung quốc từng hai
lần từ qua vê vui sống với vườn ruộng, mà Nguyễn Khuyến lấy
làm mẫu mực. Chữ Liễu trong câu thứ sáu trong bài Vịnh Mùa
Hè chỉ Liễu Nguyên Tông, tức Tử Hậu, tên gọi trong bài thơ
Việt Âm, người đời nhà Đường. Họ Liễu bị vua Đường bắt tội,
nên phải về quê nương náu. Ông tự cho mình là ngu nên mới bị
vua bắt tội, nên đặt tên con suối quanh nhà ông là Ngu Khê,
và khu đất nhà ông là Ngu Khâu.
Hai câu kết, cho
thấy tác giả dường như muốn viết ra điều mình suy nghĩ,
nhưng trời nổi gió đông,khiến cái oi bức cùng nỗi bận tâm
tan biến.
Xét
toàn thể hai bài thơ cùng một ý thơ này cho thấy phải chăng
Nguyễn Khuyến bận tâm vì câu truyệnchân/giả trong
việc từ quan về vườn? Nét
duyên dáng của bài thơ là tác giả cho thấy cái day dứt của
câu truyện làm tác giả bận tâm, tan biến cùng cái oi bức của
ngày hè khi có ngọn gió đông chợt tới.
Mùa thu là mùa
ngâm vịnh của thi nhân. Trong dòng thơ Việt Âm Nguyễn
Khuyến để lại khoảng mười lăm bài thơ viết về mùa thu. Khi
còn là một thư sinh, thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến mang
nhiều hình ảnh thường gặp trong thơ Trung Quốc, với cây ngô
đồng với tiếng chày đập vải với tiếng thu của Âu Dương Tu,
một nhà thơ đời Tống. Rồi tới khi luống tuổi ,thơ mùa thu
của Nguyễn Khuyến điển hình qua những cảm nghĩ nhân ngày lễ
Trùng Dương, nhằm ngày 9 tháng 9 âm lịch, hôi này người xưa
thường họp bạn đi chơi núi.. Năm kỷ sửu 1889, Nguyễn Khuyến
làm hai bài thơ vào dịp lễ Trung Dương như sau:
己 丑 重 陽
Kỷ Sửu Trùng Dương
一
風 雨 蕭 蕭 九 月 天
Phong vũ tiêu tiêu cửu nguyệt thiên
山 河 舉 目 蕞 堪 憐
Sơn hà cử mục tối kham liên
小 池 綠 漲 乃 如 此
Tiểu trì lục trướng nải như thử
去 歲 黃 花 殊 不 然
Khứ tiếu hoàng hoa thù bất nhiên
柳 葉 垂 青 光 透 日
Liễu diệp thủy thanh quang thấu nhật
竹 籬 積 翠 暮 浮 煙
Trúc ly tích thuý mộ phù vân
近 來 不 作 登 高 興
Cận lai bất tác đang cao hứng
醉 臥 寒 窗 抱 甕 眠
Túy ngoaa hàn song bão úng miên.
二
重 陽 何 處 不 躋 攀
Trùng dương hà xứ bất tê phan
隱 几 偏 容 一 老 閒
Ẩn kỷ thiên dung nhất lão nhàn
花 亦 愛 殘 開 未 得
Hoa diệc ái tàn khai vị đắc
酒 因 嗜 飲 惜 成 慳
Tửu nhân vị ẩm tích thành khan
昨 宵 甚 雨 水 窺 巷
Tạc tiêu thậm vũ thủy khuy hạng
此 夜 無 雲 月 上 山
Thử dạ vô vân nguyệt thướng san
病 眼 矇 矓 乘 醉 望
Bệnh nhãn mung lung thừa túy vọng
寒 煙 疏 影 有 無 間
Hàn yên sơ ảnh hữu vô gian
dịch là
Tiết Trùng Dương Năm Kỷ Sửu
Một
Gió mưa tháng chín xạc xào
Cảnh ngoài trông thấy mà xao xuyến lòng
Lên cao mực nước ao trong
Hoa vàng năm ngoái nay trồng muộn hoa
Mặt trời mành liễu xiên qua
Giậu tre xanh biếc khói là là bay
Chán trò trèo núi năm nay
Bên song ôm hũ uống say ngủ vùi.
Hai
Hội Trùng Dương leo non ngàn
Một mình tựa ghế lão nhàn thảnh thơi
Hoa chậm nở ngại sớm rơi
Lão say ham rượu hoá người rượu khem
Bửa qua ngõ ngập mưa đem
Tối nay mây tạnh trăng lên lững lờ
Cơn say mắt kém lơ mơ
Nửa không nửa có nhạt mờ khói bay.
Đặc điểm của cả
hai bài thơ hội trùng dương trên đây là điểm tác giả dùng
cảnh mình đang sống làm cảnh thơ. Trong bài thứ nhất đó là
mực nước ao lên cao, nhưng khóm hoa vàng, có lẽ là hoa cúc,
năm ngoái nở rộ năm nay chưa ra hoa. Mặt trời lúc đó đã
xuóng thấp dưới ngọn cây liễu, Sương chiều quên trên ngọn
tre. Riêng tác giả không đi trèo núi nằm ngủ dưới cửa sổ bên
hũ rưọu. Trong bài thứ hai, tác giả ngồi một mình nhàn tản
suy nghĩ. Hoa chậm nở vì sợ sớm nở thì sớm tàn, Lão say ham
rượu nên phải uống dè hóa thành người kiêng rượu.Rồi ghi lại
cảnh ngõ ngập nước mưa đêm bửa qua thời bữa nay trăng lại
sáng. Nhưng trong cơn say mắt lại kém tác giả chỉ nhìn thất
cảnh vật mờa aỏ như thật như hư như sương như khói. Phải
chăng đó là bằng chứng để thấy Nguyễn Khuyến làm thơ chữ
nho, nhưng không dùng thi liệu Trung Quốc mà trái lại đưa
hình ảnh đồng quê Việt Nam vào thơ Việt Âm?