Nhàn rỗi, Nguyễn
Khuyến chống gậy đi dạo quanh thăm bà con. Đó là những dịp
cảnh xóm làng gợi hứng cho ông viết những bài mô tả cảnh quê
linh động, tỷ như bài:
夏 日 訪 表 兄 鄧 台 歸 作
Hạ Nhật Phỏng Biểu Huynh Đặng Thai Quy Tác
攜 杖 捫 蘿 遶 徑 行
Huề trượng môn la nhiễu kính hành
偶 然 來 訪 鄧 家 兄
Ngẫu nhiên lai phỏng Đạng gia huynh
相 看 鬚 髮 誰 為 老
Tương khan tu phát thùy vi lăo
曾 見 閭 閻 半 未 更
Tằng kiến lư diêm bán vị canh
臥 樹 疲 牛 噓 暑 氣
Ngọa thụ b́ ngưu hư thử khí
隔 池 小 犬 吠 人 聲
Cách tŕ tiểu khuyển phệ nhân thanh
逍 遙 笑 指 天 公 健
Tiêu diêu tiếu chỉ thiên công kiện
盡 日 當 空 一 笛 橫
Tận nhật đương không nhất địch hoành.
Tác giả tự dịch
là:
Đến Chơi Nhà Bác Đặng
Gậy men ngơ trúc dạo đường quai
Quá bướclên nhà bác Đặng chơi
Một lũ tóc râu đều tuổi tác
Nửa phần làng xóm đă thay dời
Trâu già gốc bụi ph́ hơi nắng
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người
Ngửa mặt ông kia chơi mới khỏe
Suốt hôm một sáo thổi lưng trời.
Bài Hạ Nhật Phỏng
Biểu Huynh Đặng Thai Quy Tác của Nguyễn Khuyến có một vài
điểm tương ứng với bài sau đây của Đào Tiềm:
還 舊 居
Hoàn Cựu Cư
疇 昔 家 上 京
Trù tích gia thượng kinh
六 載 去 還 歸
Lục tải khứ hoàn quy
今 日 始 復 來
Kim nhật thỉ phục lai
惻 愴 多 所 悲
Trắc sảng đa sỏ bi
阡 陌 不 移 舊
Thiên mạch bất di cựu
邑 屋 或 時 非
Ấp ốc hoặc th́ phi
履 歷 周 故 居
Lư lịch chu cố cư
鄰 老 罕 復 遺
Lân lạo hăn phục di
步 步 尋 往 迹
Bộ bộ tầm văng tích
有 處 特 偯 偯
Hữu xứ đặc y y
流 幻 百 年 中
Lưu huyễn bách niên trung
寒 暑 日 相 推
Hàn thử nhật tương thôi
常 恐 大 化 盡
Thường khủng đại hóa tận
氣 力 不 及 衰
Khí lực bất cập suy
撥 置 且 莫 念
Bát trí thả mạc niệm
一 觴 聊 可 揮
Nhất thương liêu khả huy.
dịch là
Thăm Nhà Cũ
Thượng Kinh một thủa bôn ba
Dời về quê cũ nay đà sáu năm
Hôm nay chốn cũ về thăm
Những điều trông thấy động tâm ai hoài
Cảnh dường không đổi đồng ngoài
Xóm trong dẫy phố thiếu vài ba căn
Ngơ quanh nhà cũ bước lần
Xóm giềng ngày trước quây quần nay đâu
Hoang vu lối trước ngơ sau
T́nh xưa nghĩa cũ rầu rầu tiếc thương
Trăm năm trong cơi vô thường
Lạnh nồng nồng lạnh đôi đường đổi thay
Sợ điều Đại Hóa ngừng xoay
Trước khi khí lực thân này chưa suy
Nghỉ quanh nghĩ quẩn làm chi
Một thưng uống cạn li b́ tỉnh say.
Giới nghiên cứu
về thi văn Đào Tiềm cho rằng Đào Tiềm sáng tác bài Hoàn Cựu
Cư này năm ông mới chừng ba mươi lăm tuổi, và đă về nghỉ lần
thứ nhất 33.
Trong thơ Đào Tiềm kể rằng Thượng Kinh là nơi ông sống cùng
gia đ́nh trong một thời gian, sau đó dời về quê đă được sáu
năm, bữa đó ông có dịp qua thăm ngôi nhà cũ. Cảnh trí quanh
ngôi nhà cũ làm ông xúc động, liên tưởng tới lẽ vô thường.
Ông trở vể với sách
Lẽ Kư để thấy đời người có bốn lần đại
hóa,
tiêu biểu bằng h́nh ảnh lạnh
nồng, tưong
ứng với hai mùa nóng lạnh trong một năm, từ một thiếu nhi
thành một thiếu niên, rồi thiều niên thành thanh niên, thanh
niên thành trung niên và trung niên lên lăo niên. H́nh ảnh
Đại Hóa ngừng xoay là h́nh ảnh cái chết. Cái chết tới lúc
khi lực ông chưa suy. Giới
Hán Học giảng chữ suy này
bằng sách Lễ Kư, Chương Vương Chế :
五 十 始 衰
ngũ thập thủy suy
nghịa là [sức
khỏe] suy kém lúc tuổi chưa đầy năm mươi. Như vậy, qua hai
câu 13 và 14 trong bài thơ Đào Tiềm tỏ ư lo sợ ông sẽ chết
trước năm năm mươi tuổi. Ông cố quên ư nghĩ chết chóc đen
tối này bằng cách uống cạn một thưng rượu cho say li b́.
Trở lại bài Đến
Chơi Nhà Bác Đặng. Nguyễn Khuyến chống gậy từ nhà ông ở thôn
vị Hạ sang nhà người anh con cô con cậu ruột với ông là cụ
Đặng Ư ở thôn Vị Thượng. Hai anh em ông cùng đă râu tóc tuổi
tác qua câu:
Một lũ tác râu đều tuổi tác
Câu này chảng khác
ǵ câu ông khóc Dương Khuê:
Bác già tôi cũng già rồi.
Cái biến đổi trên
bản thân dường như nhắc nhở Nguyễn Khuyến những đổi dời
ngoại thân tại thôn Vị Thượng:
Nửa phần làng xóm đă thay dời.
Cuộc dạo chơi này
chính là cảnh thơ của bài Hoàn Cựu Cư của Đào Tiềm. Nhưng
khác với cảnh hoang vu của Thượng Kinh trong thơ Đào Tiềm,
dường như thôn Vị Thượng vẫn c̣n giữ được trù phú với qua
h́nh ảnh con trâu già ph́ pḥ bên bụi cây, và qua tiếng chó
sủa bên kia ao. Tiếng chó sủa bên kia ao gợi cho người đọc
nhớ tới chương 80 sách Đạo Đúc Kinh của Lăo Tử 34.
Cho đến đây, bài
Đến Chơi Nhà Bác Đặng của Nguyễn Khuyến dương như tương ứng
với bài Hoàn Cựu Cư của Đào Tiềm. Nhưng từ câu thứ năm thơ
Nguyễn Khuyến tách dời thơ Đào Tiềm. Hai câu kế tiếp:
Trâu già gốc bụi ph́ hơi nóng
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người
có lẽ đây là bức
tranh điền viên nổi tiếng nhất trong ḍng thơ nôm. Đồng thời
hai câu này c̣n gợi cho người đọc hiểu cái ư ngoài lời của
tác giả gửi gắm trong bài thơ. Con trâu già nằm nghỉ dưới
bóng cây c̣n thở ph́ ra hơi nóng phải chăng chính là h́nh
ảnh vị hưu quan thôn Vị Hạ? Tiếng chó sủa bên kia bờ ao là
h́nh ảnh một làng nhỏ yên b́nh, có thể coi là lư tưởng,
trong sách Đạo Đức Kinh, của Lăo Tử, nhưng trong mạch thơ
Nguyễn Khuyến ở đây, phải chăng người đọc có thể coi h́nh
ảnh đó là h́nh ảnh tiêu biểu cho điều Nguyễn Khuyến buông bỏ
thế sự mặc bọn đàn em lo liệu?
Trong hai câu kết,
Nguyễn Khuyến không về sách Lễ Kí như Đào Tiềm mà về sách
Nam Hoa Kinh của Trang Tử:
Ngửa mặt ông kia chơi mới khỏe
Suốt hôm một sáo thổi lưng trời.
Tiếng sáo lưng
trời đây không phải là tiếng sáo diều quen thuộc chốn đồng
quê, mà là tiếng sáo
trời mà
Trang Tử đă mô tả trong sách Nam Hoa Kinh, đoạn mở đầu
chương thứ hai Tề Vật Luận: 35:
Nam Quách Tử Kỳ ngồi dựa ghế, [...] Nhan Thành Tử Du đứng
hầu trước mặt. [...]
Tử Kỳ nói:
- [...] Ngươi chỉ nghe tiếng sáo của đất mà chưa nghe
tiếng sáo của trời [...]
Tử Du nói:
- Tiếng sáo đất là tiếng ḥa của muôn khiếu. Tiếng sáo
của người là tiếng ḥa của ống trúc. Dám xin hỏi thế nào là
tiếng sáo của Trời?
Tử Kỳ nói :
- Ḱa như gió thổi khiến muôn tiếng đồng vang lên, nhưng
lại khiến cho nó tự ngưng đi, hoặc tự nổi lên, là ǵ đấy?
C̣n cái
ông suốt
hôm sáo thổi lưng trời phải chăng chính là ông
Trời hay
chính là Đạo? Trang Tử trả lời câu hỏi này trong đọn mở đầu
chương Thiên
Vận, sách Nam Hoa Kinh 36:
Trời vận động chăng? Đất ở yên chăng? Mắt trời mặt trăng
tranh chỗ chăng? Ai chủ trương những cái ấy? Ai giữ giàng
những cái ấy? [...] Gió nổi từ phương Bắc, một Tây, một
Đông, cái lồng bốc lên xoay quanh. Ai thở hót những cái ấy?
Ai ở rỗi không việc mà phe phẩy những cái ấy? Dám hỏi : Cớ
ǵ?
Vu Hàm Siêu
nói :
- Lai
đây! Ta bảo mi : [...] Thế gọi là Thượng Hoàng..
Trở về Lật Lư Đào
Tiềm viết trong bài Quy Khứ Lai Hề Từ, dịch là
Chuyến này về thực về rồi
Lời chào nhắn gửi cùng người tới lui
Mùi đời chẳng hợp ngán mùi
Lẽ nào gắng gượng kíp lùi hóa hay
Xóm làng thân thuộc xum vầy
Vui cùng đèn sách tháng ngày rảnh thân
Uớc mong này của
Đào Tiềm cũng là điều Nguyễn Khuyến thật sự sống trong những
tháng năm về ở Vườn Bùi.
Năm Nguyễn Khuyến
năm mươi lăm tuổi, ông theo lệ làng lên lăo và ông ghi lại
h́nh ảnh ngày đó trong bài:
Lên Lăo
Ông chẳng hay ông tuổi đă già
Năm lăm ông cũng lăo đây mà
Anh em làng xóm xin mời cả
Xôi bánh trâu heo cũng gọi là
Chú Đáo bên người lên với tớ
Ông Tử xóm chợ lễ cùng ta
Bây giở đến bực ăn dung nhỉ
Có rượu thời ông chống gậy ra.
Hai câu năm và sáu
cho thấy là tác giả đă buông bỏ nhưng thành đạt khoa hoạn
của ḿnh, coi đó như ngoại vật, và hoà ḿnh cùng bà con lối
xóm.
Nguyễn Khuyến ghi
lại nét thanh đạm nhân ngày ông có bạn, (phải chăng là một
người bạn cũng thành đạt như ông trên đường khoa hoạn) tới
thăm ông, trong bài thơ nôm, mà người Việt Nam không mấy ai
không biết:
Bạn Đến Chơi Nhà
Đă bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vường rộng rào thưa khó đưổi gà
Cải chửa ra cây trà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn mướp đương hoa
Đầu tṛ tiếp khách trầu không có.
Bác đến chơi đây ta với ta.
Đă nhiều người
b́nh giải bài thơ này. Ngay đầu đề bài thơ cũng chép khác
nhau : có đầu đề là Gặp Bạn Ngồi Chơi Suông, có đầu đề khác
là Suông T́nh. Người th́ cho là bởi ông bạn tới thăm với hai
tay không, khiến Nguyễn Khuyến khởi hứng viết bài thơ trên
đây trách nhẹ. Có người lại giảng là ông
khách tới chơi không báo trước, khiến Nguyễn Khuyến không
sửa soạn kịp để đón tiếp chu đáo, làm bài thơ này để gián
tiếp xin lỗi bạn. Có người lại cho rằng Nguyễn Khuyến viết
bài thơ này để tŕnh bày với bạn cảnh nhà thanh bạch của
ḿnh với hy vọng được bạn gíup đỡ. Cả ba giả thiết đều nghe
xuôi tai, nhưng không giả thiết nào đua ra bằng chứng và
dường như chỉ là phỏng đoán. Đồng thời khó liên kết được
những giả thiết trên với ba chữ ta
vói ta.
Người đọc thơ
hiểu ba chữ ta
với ta này
là h́nh ảnh tiêu biểu cái ta của
Nguyễn Khuyến và cái ta của
ông bạn, hoà hợp thành cái đôi ta tựa
như sự hoà hợp của một giọt nước với một giọt nước khác
thành một giọt nước độc nhất để tiêu biểu sự ḥa đồng của
Nguyễn Khuyến với ông bạn. H́nh ảnh ḥa hợp giữa hai giọt
nước tạo nên một giọt nước duy nhất gợi lên cho người đọc
thơ, chữ thủy của
Trang Tử, chương Sơn Mộc, trong câu 37 :
君 子 之 交 淡 若 水
Quân tử chi giao đạm nhược thủy
Nhượng Tống dịch
là 38:
Giao t́nh của người quân tử nhạt như nước.
Trang Tử nói rơ
hơn :
Giao t́nh của tiểu nhân ngọt như rượu ủ. Quân tử nhạt rồi
thân. Tiểu nhân ngọt rồi tuyệt.
Như vậy, nếu
quả thật mối giao t́nh của Nguyễn Khuyến cùng ông bạn đạm
như thủy 39,
thời ông bạn tới thăm Nguyễn Khuyến đâu cần mang theo quà
cáp, đâu cần phải hẹn trước, cũng như Nguyễn Khuyến đâu cần
phải có mâm cao cỗ đầy, cơm gà cá gỏi tiếp đón, hay cần phải
có khay trà cơi trâu câu chuyện mới đậm đà. Tất cả ngoại vật
đó đều vô nghĩa: Nguyễn Khuyến và ông bạn hoà hợp thành ta
với ta trong
lẽ huyền của
cuộc sống.
Ba chữ ta
với ta này
dường như không
phải là cḥ chơi chữ của Nguyễn Khuyến, mà phải chăng cáit́nh
bạn nhạt như nước này
đă là nếp sống của những nhà nho như Nguyễn Khuyến, và
Nguyễn Khuyến dùng thi tài của ông, qua ba
chữ này chuyển dịch chữ nghĩa thánh hiền sang ngôn từ Việt
Nam? Hơn nữa, ba chữ ta
với ta này
phải chăng ngắn gọn biểu lộ cái nhu cầu củacái
ta,
trong bất kỳ ai, cũng có lúc cần có cái đôi
ta?
tr.
244