HỒ XUÂN HƯƠNG
Tiếng Nói Đại Chúng
Lê
Phụng
|
Quyển
2
Kỳ 40:
( tiếp
Kỳ 39)
6
Tiếp tới là bức La
Femme au Perroquet, hoàn tất năm 1866
(xem phụ bản 5) Đây cũng
là một bằng chứng cho thấy Gustave Courbet
muốn dành cho người xem tranh việc đi
tìm ý nghĩa ngoài nét vẽ
của họa sĩ.
Phụ bản 5. The Woman with a Parrot
Bức vẽ trình bày hình
ảnh một thiếu phụ khỏa thân nằm chéo trên giường,
tay trái dơ cao và trên bàn
tay có một con vẹt dương cánh, mầu
sặc sỡ. Mái tóc của
người trong tranh chiếm gần hết góc trái bức tranh, tấm khăn
giường mầu trắng tương phản
với mầu tóc đen và mầu da ngà
của người trong tranh. Cặp
đùi mở rộng. Một góc chăn trắng phủ
trên nửa đùi phải
và khúc bụng dưới người trong tranh.
Môi nàng hé mở như đang trò
truyện với con vẹt.
Nửa bên phải bức tranh dường như
bỏ trống và chìm trong bóng tối,
do đó dường như muốn tạo cho người
xem tranh cảm tưởng người trong tranh
có điều gì bí
mật muốn nói với con vẹt. Theo nhiều người bình
tranh, con vẹt này tượng
trưng cho người bạn trai của người
trong tranh.
Người xem tranh không khỏi nghĩ là người
trong tranh đang nói gì với con
vẹt, tượng trưng cho người
bạn trai vắng mặt trong tranh. Câu trả lời dường
như lời thơ trong bài thơ
dưới đây của Hồ Xuân Hương:
Cả nể cho nên hóa dở
dang
Nỗi niềm chàng có biết
chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy
nhô đầu dọc
Phận liễu sao đà phẩy
nét ngang
Cái nghỉa trăm năm chàng nhớ
chửa
Mảnh tình một
khối thiếp xin mang
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có nhưng mà có mới
ngoan.
Bài thơ tương
truyền có tựa đề là
Không Chồng mà Chửa.
Người đọc thơ thấy nhiều điểm đáng
chú ý. Điểm thứ nhất là tác giả như
viết riêng với
người đàn ông từng
giao du mật thiết với mình qua hai tiếng
xưng hô chàng và thiếp. Bài thơ
không để lộ nét oán thán của
tác giả với người đã đồng tình
cùng nàng tạo nên câu chuyện
dở dang này.
Điểm đáng chú ý thứ
hai là hai câu thứ ba và thư
tư. Trong hai câu này Hồ
Xuân Hương dùng thuật chiết
tự mô tả mối giao du thân mật giữa chàng và nàng. Nét
đầu dọc biến chữ thiên
天thành chữ phu 夫như
gợi nên hình
ảnh cái dương vật, và nét
ngang biến chữ liễu 了thành chữ
chữ tử 子, gợi lên hình
ảnh người đàn bà chưa
có chồng mà mang thai.
Đằng khác, đối chiếu thơ Hồ Xuân Hương
với thơ Hồ Xuân Hương,
chữ ngang trong chữ
nét ngang gợi lại nét sống
động:
Một suốt đâm ngang thích thích
mau
trong bài Dệt Cửi.
Hai câu triết tự còn chứng
tỏ tài dùng ngôn ngữ ca dao trong thơ
của Hồ Xuân Hương.
Người đọc thơ đọc hai câu triết tự này
không thể không nhớ tới
câu tục ngữ:
nhất vợ nhì trời57
và hai câu kết bài Nhất
vợ Nhì Trời của Nguyễn
Khuyến:
Tại sao vợ lại hơn trời
nhỉ
Vợ chỉ hơn trời có
cái trai.
Câu chiết tự của Hồ Xuân Hương, so chồng
với trời, thấy chồng, biểu thị bằng
chữ phu, hơn trời, biểu thị bằng chữ
thiên, một nét
đầu dọc. Câu ca dao, so vợ
với trời, cho thấy vợ hơn trời vì
có cái trai. Không ai có thể biết
được là Hồ Xuân Hương
đã khởi hứng từ ca
dao hay người đặt ca dao khởi hứng từ
thơ Hồ Xuân Hương. Nhưng
rõ ràng là lời thơ Hô Xuân Hương
và lời ca dao là một.
Hình ảnh trong thơ Hồ
Xuân Hương và hình ảnh trong ca
dao là hai hình ảnh gợi
cảm, đối xứng, nhưng cả hai tạo
ra cùng một ý nghĩa.
57 Ôn Nh ư
Nguyễn Văn
Ngọc, Tục Ngữ Phong Dao, quyển 1, Sống Mới tái
bản
tại Hoa Kỳ tr. 264
Xem
Kỳ 41
LÊ
PHỤNG
www.ninh-hoa.com |