Ḥn Vọng Phu  -  Ảnh: Phan Thế Vinh

NINH H̉A XƯA, LỊCH SỬ  - Vinh Hồ

 
ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ (1)     |     ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ (2)  |    DANH NHÂN    |

  ĐỊA LINH    |     NHÂN KIỆT    |  
  KẾT LUẬN      
           
www.ninh-hoa.com

 

Ảnh Núi Vọng Phu



Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau
(Diễm Xưa, Trịnh Công Sơn)

Cách nay 351 năm Ninh Ḥa Xưa có tên là phủ Thái Khang, gồm 2 huyện Quảng Phước, Tân Định, chạy dài từ Đèo Cả đến phủ Diên Ninh (Diên Khánh).

Chúng tôi mạo muội ghi lại đôi ḍng lịch sử, chắc chắn c̣n nhiều thiếu sót nhầm lẫn, kính mong được sự chỉ giáo của các bậc cao minh và quư đồng hương để sự hiểu biết của chúng ta về Tiền Nhân và Quê Hương mỗi ngày một thêm sáng tỏ, xin đa tạ quư vị.

Bài viết này căn cứ vào các tài liệu tham khảo quư giá có liệt kê ở cuối bài, người viết xin mạn phép và chân thành cám ơn quư tác giả, cùng các nhà xuất bản.
 



Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh

Sự tích tôn thần Nguyễn Hữu Cảnh tại đền thờ Châu Phú.
 -------->

Ghi Chú:
Bản đồ (Góc trên cùng bên tay trái) - Ninh Ḥa Xưa tức là Phủ Thái Khang gồm hai huyện: Van Ninh, Ninh Ḥa và một phần của Khánh Dương ngày nay.

ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ:

Lịch sử Ninh Ḥa Xưa gắn liền với lịch sử tỉnh Khánh Ḥa.

Tỉnh Khánh Ḥa là phần đất của nước Tây Đồ Di, nước Tây Đồ Di (Lin Yi) c̣n gọi là Lâm Ấp ra đời khoảng năm 190-192 độc lập hùng cường, trong lúc nước ta (người Tàu đặt tên là Giao Chỉ) c̣n bị lệ thuộc nhà Hán, về sau nước Lâm Ấp bị Chiêm Thành (Champa, Nagara Campa) chiếm mất.

Theo "Xứ Trầm Hương", Khánh Ḥa là châu Kaut Hara của Chiêm Thành, người Tàu gọi là Kautan.

Theo "Sài G̣n 300 năm cũ" phần đất Khánh Ḥa (Kanthara, Kanthara chứ không phải Kaut Hara), Phan Rang (Panduranga) và B́nh Thuận được gọi là miền Nam Chiêm Thành.

Sử nhà Minh chép Chiêm Thành có 27 xứ, 4 phủ, 7 châu, 22 huyện, nước An Nam lấy chỉ c̣n 5 xứ Bang Đô Lang (Phan Đô Lung) đến Chân Lạp mà thôi.

Cũng theo Quách Tấn, Cù Huân là tên cổ dùng để gọi Khánh Ḥa có lẽ do tiếng Kaut Hara đọc trại ra, Nha Trang hiện c̣n địa danh "cầu Hà Ra, xóm Hà Ra".

Sách "Phủ Biên Tạp Lục" ghi: "Năm 1653 Vua Chiêm là Bà Tấm quấy rối đất Phú Yên, Chúa Nguyễn Phúc Tần sai 3.000 quân đi đánh (....) Bà Tấm xin hàng và cắt đất từ sông Phan Rang trở ra đến Phú Yên dâng cho, Chúa Nguyễn đặt làm 2 phủ: phủ Thái Khang và phủ Diên Ninh (Diên Khánh)".

Sách "Việt Nam Sử Lược" chép: "Năm Quư Tỵ (1653) Vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần mới sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, c̣n từ sông Phan Lang trở ra lấy làm Thái Ninh phủ, sau đổi làm phủ Diên Khánh (tức là Khánh Ḥa bây giờ), đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú."

Sách "Sài G̣n 300 năm cũ" ghi: "Năm 1653 đến lượt chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đưa quân dân vượt đèo vượt núi (Thạch Bi) lấn chiếm lănh thổ Chiêm Thành đến tận Phan Rang, đặt dinh Thái Khương với hai phủ Thái Khương (Ninh Ḥa) và Diên Ninh (Diên Khánh)."

Sách "Xứ Trầm Hương" viết: "từ sông Phiên Lang trở ra đến Phú Yên th́ chiếm cứ, lập ra hai phủ là Diên Ninh và Thái Khang, và 5 huyện là Phước Điền, Ḥa Châu, Vĩnh Xương thuộc phủ Diên Ninh, và Tân Định, Quảng Phước thuộc phủ Thái Khang.

Hùng Lộc được bổ làm Thái Thú cai trị hai phủ. Dinh đóng tại Thái Khang."

Từ 4 sử liệu trên, chúng ta có thể kết luận rằng năm 1653, cách nay 351 năm, Vua Chiêm Thành là Bà Thấm sang quấy nhiễu đất Phú Yên, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần sai quan Cai cơ Hùng Lộc dẫn 3.000 quân vượt đèo vượt núi Thạch Bi (đèo Cả) sang đánh, Vua Chiêm đại bại dâng thư xin hàng và cắt châu Kaut Hara của Chiêm Thành từ sông Phan Rang ra đến Đèo Cả dâng cho, Chúa Nguyễn đặt dinh Thái Khang với 2 phủ, 5 huyện. 2 phủ là Thái Khang (Ninh Ḥa) và Diên Ninh (Diên Khánh). 5 huyện là Phước Điền, Ḥa Châu,Vĩnh Xương thuộc phủ Diên Ninh; Tân Định, Quảng Phước thuộc phủ Thái Khang. Hùng Lộc được cử làm Thái Thú cai trị 2 phủ, dinh đóng tại Thái Khang tức Ninh Ḥa bây giờ.

Huyện Tân Định thuộc địa phận Ninh Ḥa, c̣n huyện Quảng Phước thuộc địa phận Vạn Ninh bây giờ.

Theo tác giả Quách Tấn, từ khi châu Kaut Hara của Chiêm Thành thuộc về ta "cơ quan cai trị đều đóng ở B́nh Khang cho đến đời Nhà Nguyễn Trung hưng mới dời vào Diên Khánh. Dinh quan trấn thủ đóng trong vùng Ninh Ḥa hiện tại. Nhân sông chảy qua trước dinh, người địa phương mới gọi là sông Dinh cho gọn."

Theo tác giả Nguyễn Thặng: "Huyện Ninh Ḥa trước kia là huyện Tân Định thuộc phủ Thái Khang có ranh giới từ đèo Rù Ŕ đến sông Dinh (...) Dinh B́nh Khang có thủ phủ đóng trên bờ Bắc sông Dinh thuộc làng Phước Đa."

Theo tác gả Nguyễn Đ́nh Tư: "Vào khoảng 1930-1931 (...) chính phủ thực dân Pháp bèn đổi huyện Tân Định thành phủ Ninh Ḥa (tức Ninh Ḥa bây giờ), c̣n phủ Ninh Ḥa cũ th́ đổi là huyện Vạn Ninh, tên Tân Định mất hẳn từ đó."

Tác giả Trần Đ́nh Tây trong bài "Ḥn Khói Quê Tôi" viết: " Trước năm 1930 Ḥn Khói quê tôi là Tổng Hà Ngoại trực thuộc huyện Vạn Ninh. (....) Ḥn Khói cách huyện Vạn Ninh dộ 50 cây số đường biển, cách huyện Ninh Ḥa hơn 10 cây số. Thuở ấy, tổ tiên chúng ta di chuyển từ nơi này đến địa phương nọ chỉ có 2 phương tiện duy nhất là đi bộ hoặc bằng ghe thuyền. Từ Ḥn Khói lên Vạn Ninh (Vạn Giă) đêm nào cũng có "ghe đ̣" chở khách lên xuống - một đêm đi lên, một đêm đi xuống - ghe đ̣ nằm tại bến B́nh Tây kẻ đi người về tấp nập (...) Từ làng Phú Thọ đi lên Ninh Ḥa phải qua Chánh Thanh, sườn núi Ḥn Hèo, rồi đến đèo Hà Thanh tức đèo Bánh Ít cho đến đầu làng Phước Đa đều là rừng rậm. Thuở ấy cọp beo, thú dữ vô số (...) Ḥn Khói cách Ninh Ḥa gần hơn đi Vạn Ninh mà ít ai muốn liên lạc, kể cả quan quân... Bởi lư do giao thông trắc trở như thế nên Ḥn Khói tức Tổng Hà Ngoại năm xưa trực thuộc huyện Vạn Ninh là vậy."

Ninh Ḥa xưa mang tên Thái Khang tới 37 năm mới đổi thành B́nh Khang, do đó theo tôi, tên con sông Dinh không phải đợi tới khi đổi thành B́nh Khang mới "gọi là sông Dinh cho gọn" mà đă có từ khi Ninh Ḥa c̣n mang tên Thái Khang, và tôi cũng tin 1 số địa danh khác như Núi Ba Non, Ḥn Vọng Phu, v.v... cũng xuất hiện rất sớm trong khoảng thời gian ấy.

Tôi đồng ư với Ông Nguyễn Thặng "dinh B́nh Khang có thủ phủ đóng trên bờ Bắc sông Dinh", nhưng "đóng tại làng Phước Đa" theo tôi không phải là dinh B́nh Khang, dinh B́nh Khang đóng tại làng Vĩnh Phú bên bờ tả ngạn tức bờ Bắc sông Dinh gần khu vực cầu Dinh hiện nay. Đóng tại làng Phước Đa là phủ đường B́nh Khang (về sau đổi là phủ đường Ninh Ḥa), theo xác minh của anh Trần Thế Vinh tuổi trên 60, quê Thuận Lợi, Ninh Ḥa cho biết như sau:

"Từ cầu Dinh thuộc Thị trấn Ninh Ḥa đi ra hướng Bắc chừng 1 cây số là tới cống Phước Đa, gần cống có 1 con đường rẽ trái, đi khoảng hai, ba trăm mét sẽ gặp một khu đất cao (thuộc làng Phước Đa), chính nơi đây ngày xưa là Phủ đường của phủ Ninh Ḥa, cho nên dân chúng mới gọi con đường này là "đường lên phủ cũ", về sau có lẽ vào thời Pháp, Phủ đường được dời về địa điểm mới gần khu vực Ngă Ba Bùng Binh Thị trấn Ninh Ḥa hiện nay".

Tóm lại, Phủ đường Thái Khang là nơi làm việc của quan Tri Phủ phủ Thái Khang đóng tại làng Phước Đa, xă Ninh Đa, huyện Ninh Ḥa. C̣n dinh Thái Khang là nơi làm việc của quan Thái Thú (khi đổi thành B́nh Khang th́ gọi là quan Trấn Thủ) cai trị 2 phủ đóng bên bờ tả ngạn tức bờ Bắc sông Dinh gần khu vực cầu Dinh thuộc làng Vĩnh Phú, xă Ninh Hiệp, tức Thị Trấn Ninh Ḥa ngày nay.

Có nghĩa là sông chảy ngang qua dinh Thái Thú được gọi là sông Dinh, cầu bắt ngang qua sông được gọi là cầu Dinh, và chợ bên kia sông được gọi là chợ Dinh.

Khoảng năm 1930-1931 huyện Tân Định được đổi thành phủ Ninh Ḥa.

Theo Ô. Nguyễn Thặng, huyện Tân Định có ranh giới từ sông Dinh đến đèo Rù Ŕ.

C̣n tác giả Nguyễn Đ́nh Tư (viết năm 1968) th́ cho biết đèo Rọ Tượng là ranh giới của "hai quận Vĩnh Xương và Ninh Ḥa" cùng một ư kiến với Thi sĩ Quách Tấn.

Như vậy, ranh giới của Ninh Ḥa xưa ở phía Bắc là Đèo Cả, c̣n ở phía Nam th́ thay đổi theo thời gian, lúc th́ tại đèo Rù Ŕ, lúc th́ tại đèo Rọ Tượng, và hiện nay là tại cuối thôn Ngọc Diêm xă Ninh Ích, huyện Ninh Ḥa giáp ranh với xă Vĩnh Lương, huyện Vĩnh Xương.

C̣n sông Dinh có phải là ranh giới giữa 2 huyện Tân Định (Ninh Ḥa) và Quảng Phước (Vạn Ninh) như tác giả Nguyễn Thặng đă viết hay không? Hay là tại đèo Bánh Ít hoặc dốc Đá Trắng? Xin thỉnh cầu ư kiến của quư vị trưởng bối.

Có 3 tư liệu quư tôi xin ghi ra đây để giúp cho các nhà nghiên cứu:

Ḥn Khói trước năm 1930 có tên là Tổng Hà Ngoại trực thuộc huyện Quảng Phước tức huyện Vạn Ninh bây giờ (theo tác giả Trần B́nh Tây).

Chuông chùa Thanh Lương thôn Nhĩ Sự , xă Ninh Thân, huyện Ninh Ḥa đúc năm 1763 c̣n lưu tại chùa, có ghi câu: "Đại Việt quốc, Quảng Nam xứ, Vương Thái hà, Tân Định huyện , Tổng Trung, B́nh An xă, B́nh An thôn." B́nh An thôn là thôn Nhĩ Sự bây giờ.

Bức Giới Đao Độ Điệp của Bộ Lễ triều Minh Mạng cấp cho Đại Đức Liễu Bửu-Huệ Thân trụ tŕ chùa Thiên Bửu Hạ, thuộc thôn Mỹ Hiệp, xă Ninh Hiệp, huyện Ninh Ḥa năm 1835 c̣n lưu tại chùa, có ghi câu: "Khánh Ḥa tỉnh, Tăng Lê văn Tự, pháp danh Liễu Bửu, quán Khánh Ḥa tỉnh, Ninh Ḥa phủ, Tân Định huyện, Trung Tổng, Toàn Thạnh xă." Toàn Thạnh xă sau đổi thành thôn Mỹ Thạnh, rồi thôn Mỹ Hiệp tức Thị trấn Ninh Ḥa bây giờ.

Tại sao Dinh Thái Khang không đặt tại Nha Trang hay Diên Khánh mà đặt tại Ninh Ḥa?


Theo tôi, trong binh pháp, việc giữ đất giữ thành khó hơn chiếm đất chiếm thành, kinh nghiệm lịch sử cho thấy trong quá khứ quân Chiêm Thành thường sang quấy nhiễu nước ta, thường hay đánh chiếm lại những vùng đất đă mất. Thời Chế Bồng Nga họ đă đánh tới Thăng Long và đốt rụi cả Kinh Thành nhà Trần. Do đó, quan Thái thú Hùng Lộc vốn là một vị danh tướng văn vơ toàn tài và Chúa Hiền là một vị Chúa thông minh sáng suốt, sau khi chiếm được châu Kaut Hara của Chiêm Thành không đặt dinh Thái Khang ở Diên Khánh hay Nha Trang mà đặt dinh ở Ninh Ḥa nằm bên bờ tả ngạn tức bờ Bắc sông Dinh là có ư lo xa đề pḥng trường hợp quân Chiêm có thể tái chiếm. Từ Phan Rang muốn chiếm dinh Thái Khang quân Chiêm phải chiếm phủ Diên Ninh, từ đó tiến ra Thái Khang họ phải vượt qua ba bốn chục cây số trên con đường độc đạo với 1 địa h́nh hiểm trở có 2 con sông và 2 ngọn đèo ngăn chận... Do đó đặt dinh Thái Khang ở Ninh Ḥa vào thời điểm đó về mặt pḥng thủ an toàn vững chắc hơn đặt ở Nha Trang hay Diên Khánh. C̣n về mặt hành chánh, tiếp tế và liên lạc với phủ Chúa ở Phú Xuân cũng thuận lợi dễ dàng hơn. Riêng về kinh tế th́ phủ Thái Khang tương đối cân đối đồng đều hơn về công nông lâm ngư nghiệp, có đủ lúa gạo, cá, muối... để quân, dân có thể tạm thời tự túc trong thời gian chờ viện binh.

Sau khi đặt dinh chia phủ, cử quan thái thú lập xong bộ máy cai trị, Chúa Hiền cho tiến hành chính sách di dân đă có 40 năm trước thời Chúa Tiên (1611).

Theo tác giả Nguyễn Xuân Lâm: "Năm 1648, chiến tranh Trịnh Nguyễn xảy ra quyết liệt, quân Nguyễn bắt được gần 3 vạn tù binh đưa hết vào những vùng đất từ Quảng Nam đến Phú Yên khai khẩn. Cứ 50 người làm 1 ấp được cấp công cụ và lương thực trong nửa năm đầu. Ba năm đầu khỏi nộp thuế. Nhờ chính sách di dân khai hoang tích cực này, Thuận Quảng diện tích canh tác được mở rộng, nhiều làng xóm mọc lên ngày càng đông."

Sách "Lịch sử Việt Nam Tập I" trang 293 ghi: "Họ Nguyễn đẩy mạnh công cuộc khai hoang bằng chính sách khẩn hoang lập làng. Nông dân di cư và tù binh là lực lượng chủ yếu. Họ được cấp nửa năm lương thực và 1 số nông cụ, rồi chia thành từng đoàn đi khai phá đất hoang lập thành những làng ấp mới. Ruộng đất khai khẩn sung vào làm ruộng đất công của làng đặt dưới quyền sở hữu tối cao của họ Nguyễn."

Tác giả Nguyễn Thặng cho biết: "Giữa thế kỷ thứ 17, cư dân Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định đến Ninh Ḥa sinh sống. Họ cư trú mở mang trước tiên ở những vùng đất bằng, trên 2 bờ sông Dinh, ven các trục giao thông, trên cửa sông, cửa biển, những nơi có điều kiện đi lại, lui về thăm quê cũ thuận tiện. Những xóm làng đầu tiên của Ninh Ḥa là những làng xung quanh Ngă Ba sông Dinh, nay là Thị trấn Ninh Ḥa và các thôn ở vùng ven."

Qua 3 trích dẫn trên, chúng ta biết đoàn di dân vào 2 phủ Thái Khang và Diên Ninh, hầu hết lấy từ vùng Thuận Quảng... gồm những người nghèo khổ không ruộng đất, và những tù nhân tù binh được cho đi khai khẩn đất hoang để lập công chuộc tội...

Tôi tin đợt di dân thời Chúa Tiên vào khai khẩn đất Phú Yên đă mau chóng thành tựu nhờ chính sách khẩn hoang lập làng rất tích cực của Chúa Nguyễn, cũng như Phú Yên là vựa lúa miền Trung có đồng bằng sông Đà Rằng rộng lớn ph́ nhiêu khác hẳn với vùng Thuận Hóa cằn cỗi đất cày lên sỏi đá, khí hậu khắc nghiệt trời hành cơn lụt mỗi năm. Trong ṿng 40 năm đủ dài để đời sống cư dân ổn định sung túc là một h́nh ảnh đầy sức thuyết phục sau mỗi chuyến họ về thăm cố hương thay cho ngàn câu tâm lư chiến tuyên truyền... khiến Chính sách Di dân và Phong trào Nam Tiến của Chúa Nguyễn được thuận lợi.

Do đó, sau khi Chúa Hiền phát động chiến dịch di dân vào đất Thái Khang, tôi tin rằng Tổ tiên chúng ta đă vui vẻ hưởng ứng, hăng hái lên đường với bao niềm tin tưởng lạc quan hy vọng trong ḷng. Tất cả được chia thành nhiều toán, mỗi toán 50 người nhận nửa năm lương thực, dụng cụ... di chuyển bằng đường bộ, đường biển vào đất Thái Khang để khẩn hoang lập làng, ruộng đất khẩn được, họ được làm ăn miễn thuế trong 3 năm đầu. Những vùng đất ven biển Đại Lănh, ven cửa Vạn cửa Giă, cửa Hà Liên, cửa sông Dinh, Ḥn Khói, ven sông Tu Bông, sông B́nh Trung, sông Vạn Giă, sông An Lương, sông Dinh, sông Cầu Lấm, ven Quốc lộ số 1 như Tu Bông, Vạn Giă, Phước Đa, Vĩnh Phú, Vĩnh Hiệp, Phong Ấp, Thuận Lợi, Thuận Mỹ, Mỹ Trạch, ven Bến Đ̣ như Tân Tế, Phong Phú... Có lẽ đó là những địa điểm mà lưu dân đặt chân tới đầu tiên, nhà cửa được cất lên đầu tiên, làng xă được lập ra đầu tiên. Từ đó sẽ tỏa rộng ra như "tầm thực" trên những vùng đồng bằng màu mỡ Đồng Găng, Đồng Mốc, Đồng Đáy, Đồng Gáo, Đồng Bà Chỉ, Đồng Đụt, Đồng Tân Phước, Hội Khánh, Tứ Chánh, B́nh Trung, Phú Cang, Quảng Hội, Mỹ Đồng, v.v... ở Vạn Ninh, Đồng Cháy, Đồng Nẩy, Đồng Chuôm, Đồng Lau, Đồng Thân, Đồng Khách Mười, Đồng Nghi Xuân, Vĩnh Thịnh, Ninh Ích, Quang Đông, Điềm Tịnh, Xuân Ḥa, Phú B́nh, Phú Ḥa, Đại Tập, Đại Mỹ, Hà Thanh, Thanh Châu, Tân Hưng, Trường Lộc v.v... ở Ninh Ḥa.

Theo "Phủ Biên Tạp Lục" đường sá đi lại lúc bấy giờ chỉ là những con đường ṃn nhỏ hẹp băng qua nhiều truông nhiều đèo rậm rạp hiểm trở. Đoạn qua đèo Hổ Dương (Đèo Cả) có nhiều đá đen lởm chởm. Đường bộ th́ đi bộ, đôi khi đi bằng ngựa. C̣n đường thủy th́ đi bằng thuyền buồm, như đoạn từ Ḥn Khói đến Hội An (Quảng Nam) trời tốt chỉ đi chừng năm ba ngày.

Từ đó, chúng ta có thể h́nh dung vào thời xa xưa tại phủ Thái Khang khu vực 2 bên Cầu Dinh tấp nập người qua kẻ lại... dưới sông ghe thuyền xuôi ngược, trên bờ lưu dân gồng gánh, binh lính xa mă rộn ràng... bên này sông, dinh Thái Khang cờ xí tung bay, bên kia sông, chợ Dinh người buôn kẻ bán, và xa hơn, ẩn hiện sau những bờ tre đám chuối hàng cau... là nhà cửa của các tân thôn Vĩnh Phú, Mỹ Hiệp, tức Thị trấn Ninh Ḥa bây giờ.

 

 

VINH HỒ
(Orlando, Tháng 6/2004)

Tài liệu tham khảo:

Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quư Đôn.
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
Lịch Sử Đ.B. Ninh Ḥa của Nguyễn Thặng.
Sài G̣n Ba Tră
m Năm Cũ của Nguyên Hương Nguyễn Cúc.
Xứ Trầm Hương của Quách Tấn.
Non Nước Khánh Ḥa của Nguyễn Đ́nh Tư.
Các Đặc San Khánh Ḥa-Nha Trang tại: Orlando, Houston, Nam Cali, Bắc Cali (nhiều số).

 

Đọc tiếp:  Lịch Sử Ninh Ḥa Xưa  -    ĐÔI D̉NG LỊCH SỬ (2)