

PHẦN 2
HỎI và ĐÁP
H-Khi qua đến Mỹ, tôi thường nghe nhiều người nói đến Stress.
Stress nghĩa là ǵ?
Đ-
Stress là nói về t́nh trạng căng thẳng tâm thần, tức trạng thái sợ
hăi, căng thẳng quá mức, thường gây trở ngại cho công việc và giấc
ngủ.
Cảm thấy căng thẳng là điều b́nh thường của mọi người chúng ta trước
một t́nh thế căng thẳng (stressful situation). Đang lái xe, chợt thấy
ông cảnh sát lái mô-tô nhấp nháy đèn ngay đằng sau lưng, ít ai trong
chúng ta có thể phớt tỉnh ăng-lê, ḷng chẳng chút âu lo. Trạng thái âu
lo, căng thẳng này là “anxiety”. Anxiety có nhiều mức độ. Nặng hơn,
anxiety có những phản xạ thể xác đi kèm. Như có người vừa bị tai nạn,
cảm thấy sợ hăi (căng thẳng tinh thần), mặt tái mét, tim đập như trống
làng, chân tay run rẩy, người bủn rủn đứng không vững, đầu thấy nặng
và choáng váng, đồng thời cảm thấy buồn nôn (phản xạ thể xác).
Đúng ra, để hoàn tất mọi công việc một cách tốt đẹp, chúng ta đều
cần đến một chút anxiety, một chút sợ hăi. Chút ít anxiety rất tốt cho
cuộc sống hằng ngày. Lái xe, sợ gây tai nạn, sợ bị phú-lít treo bằng,
ta để ư đèn xanh, đèn đỏ và chạy cho đúng luật. Một người bừa phứa,
không biết sợ là ǵ, coi trời cũng bằng vung, dễ gây hại cho ḿnh và
cả cho người.
Tuy vậy, quá nhiều anxiety lại chẳng tốt. Nhiều người sắp đi thi, lo
đến mất ăn mất ngủ và lâm bệnh, hoặc v́ tinh thần quá căng thẳng, nên
có những phản xạ quá đáng của thể xác, như lúc nào cũng thấy tim đập
mạnh, tay chân run như cầy sấy, đi tiểu đi cầu liên miên, rồi đến ngày
thi, lại cáo ốm không đi. Nhiều vị, v́ quá căng thẳng khi lái xe trên
xa lộ, cuối cùng đành bỏ, không dám lái xe nữa, phải phụ thuộc vào
người khác khi đi đây đi đó. Anxiety vừa phải là b́nh thường, anxiety
quá đáng là bệnh, là có rối loạn (anxiety disorder).
Bệnh tâm thần anxiety không phải hiếm. Cứ 100 người chúng ta, có đến
5-8 người bị bệnh anxiety và 1 người bị nặng đến độ chẳng thể làm
việc. Phụ nữ bị bệnh nhiều gấp đôi đàn ông.
Nguyên nhân của stress th́ nhiều vô kể, bao gồm như việc trả tiền nợ
mua nhà hàng tháng, trả chi phiếu tiền điện, nước, . . ., đổ vỡ hôn
nhân, con cái hư hỏng, thi cử, thất nghiệp, công việc khó khăn, sự
tranh chấp chủ thợ, sự mất người thân, . . . đều gây stress. Hầu như
ai ai cũng trải qua ít nhiều stress trong đời sống. Người sống trong
một xă hội văn minh, giàu có th́ có những stress của riêng họ. Người
dân trong những nước nghèo đói, liên miên có chiến tranh th́ lại có
một loại stress riêng.
Có một điều là khi nghèo quá, khổ quá th́ con người mất nhạy cảm đối
với cuộc sống, trở nên chai ĺ và coi như không c̣n biết stress là ǵ
nữa.
H:
Tại sao lại bị động kinh? Em tôi nói tháng trước tôi lên cơn động
kinh, té nằm ngoài đường phố. Nhưng tại sao tôi không biết?
Đ:
Có nhiều trẻ em bị chứng động kinh (epileysy) ngay sau khi sinh do
thương tích năo khi sinh đẻ hoặc do sốt cao v́ nhiễm trùng. Một số em
bị động kinh do bị lắc mạnh hay giằng co khiến năo bị giao động. Một
số người khác bị chứng động kinh sau khi bị viêm năo, bướu năo hoặc
chấn thương năo. Bệnh diễn tiến khác nhau tuỳ theo trường hợp, có
người chỉ bị nhẹ, mất sự nhận thức trong ṿng vài giây, có người không
kiểm soát được một vài cử động khác thường của tay chân, có người lên
cơn kinh giật dữ dội, nghiến răng, sùi bọt mép, tiểu ra quần mà không
biết. Bệnh nhân hoàn toàn không biết những ǵ xảy ra khi lên cơn. Có
thể họ cảm thấy một dấu hiệu báo trước, rồi bất tỉnh. Sau cơn giật
một lúc, bệnh nhân tỉnh dậy, không hay biết ǵ về sự việc đă bất tỉnh
và lên cơn kinh giật.
Bệnh nhân sẽ được khám xét tổng quát, làm điện năo đồ
(electroencephalogram) hay viết tắt là EEG để đo làn sóng năo, t́m nơi
tổn thương và cũng hy vọng t́m ra nguyên nhân. Tiếp theo là cho thử
máu và làm CT scan năo bộ (computerized tomography) để có thể chẩn
đoán bệnh.
Bệnh động kinh có thể xảy ra cho bất cứ một người nào, không phân biệt
tuổi tác, giới tính, chủng tộc, địa vị trong xă hội. Các nhân vật như
Alexander Đại Đế, Julius Cesar, Van Gogh, Alfred Nobel, bị bệnh kinh
phong nhưng đă trở thành những nhân vật xuất chúng. Bệnh xuất hiện ở
lúc c̣n trẻ, thường bớt dần với thời gian khi tuổi cao.
H- Tôi có ông bạn gia đ́nh bị đổ vỡ. Ông bạn không thiết ăn uống ǵ
cả, ngủ cũng không được và ngày càng ốm gầy hẳn đi, trông xanh xao và
không muốn tiếp xúc với một ai cả. Như vậy có phải ông bạn tôi bị
stress không?
Đ-
Stress và lo âu đă làm cho con người ăn không biết ngon miệng, ngủ
không yên và cơ thể sẽ gầy yếu đi. Tinh thần mất sản khoái. Nếu đem
vấn đề riêng tư ra tâm sự với bạn bè thân thiết, bàn với bác sĩ gia
đ́nh, may ra sẽ giải tỏa được nổi u hoài, sự buồn chán lo âu. Phải có
bản lĩnh để tự trấn tĩnh, ăn uống b́nh thường để duy tŕ sức khỏe.
Thời gian sẽ là yếu tố chính làm nguôi dần sự buồn phiền. Phải tự cứu
ḿnh và nghĩ rằng trên đời này không có ǵ là bất biến. Cứ nghĩ rằng
nếu không có sự đồng t́nh và đồng cảm, bao dung, tha thứ giữa hai
người và t́nh yêu thương không c̣n th́ sự chia ly là một giải thoát
cho cả hai, để được thoải mái, hơn là cứ phải ôm lấy sự bực ḿnh, ray
rứt, căi cọ hết ngày này đến năm tháng khác. Hăy hướng về tương lai
để vui sống và làm một việc ǵ để giúp người, giúp đời để cuộc sống có
ư nghĩa.
H: Làm sao biết được các triệu chứng của stress?
Đ:
H́nh như ai cũng không ít th́ nhiều stress trong cuộc sống, nhưng mỗi
người đối phó với stress một cách khác nhau. Stress sẽ đưa đến nhiều
vấn đề liên quan đến t́nh trạng yếu đau thể chất và tâm thần như đau
đầu kinh niên, loét bao tử, chứng trầm cảm, bệnh tim, bệnh đau nửa đầu
(migraine), tiêu chảy, hơi thở dồn dập, ra mồ hôi nhiều, ngứa đỏ, ói
mửa và nhiều triệu chứng khác nữa. Các triệu chứng chỉ là kết quả
phát ra ngoài do sự rối loạn nội tâm. Khi nghe kể bệnh mà nói là các
triệu chứng ấy là do stress gây ra th́ cũng chỉ là một nghi vấn mơ hồ,
cần phải có một sự thăm khám tỉ mỉ, trắc nghiệm để loại trừ các bệnh
khác sẵn có, rồi mới có thể kết luận được.
H: Có cách nào để chữa trị chứng stress?
Đ:
Có bốn cách:
·
Cách thứ nhất, rơ ràng nhất, hay nhất, nhưng cũng khó nhất là loại bỏ
nguyên nhân gây stress;
·
Cách thứ hai và thực tế để đối phó với stress là công khai hóa nó,
bằng cách đem vấn đề ra bàn với người phối ngẫu, bà con họ hàng, bạn
bè thân thiết, bạn cùng sở, hoặc những người thích nghe ḿnh nói, tỏ
bày tâm sự để vơi bớt nổi ḷng. Có những điều tưởng không thể vượt
qua, có thể giải quyết được khi đưa ra công khai;
·
Cách thứ ba là viết ra giấy chi tiết các vấn đề nan giải, cũng là cách
để bớt lo âu, căng thẳng và có thể t́m ra cách giải quyết;
·
Cách thứ tư là t́m sự giúp đỡ của những người chuyên môn như bác sĩ
gia đ́nh, bác sĩ chuyên khoa tâm thần, tâm lư gia, nhân viên xă hội,
hay những chuyên viên cố vấn, . . . Nhiều người bệnh e ngại không
muốn t́m sự giúp đỡ của những người này.
Thuốc để chữa chứng stress là loại thuốc làm dịu, chỉ nên dùng khi
đang cơn khủng hoảng, và dùng trong ngắn hạn. Có thể dùng các thuốc
chống trầm cảm và các thuốc điều trị bệnh tâm thần trong một thời gian
ngắn, dù thuốc có thể dùng trong một thời gian dài, v́ thuốc thường
gây lệ thuộc nếu sử dụng thường xuyên. Thuốc rất tốt để vượt qua cơn
khủng hoảng, và để cho ngựi bệnh lấy lại b́nh tĩnh để đối phó vói
stress.
H- Tôi luôn tự thấy ḿnh có bản tính tự ti mặc cảm, c̣n thêm nhút
nhác không muốn tiếp xúc với ai cả và cũng không muốn thay đổi lề lối
sống của ḿnh. Đi khám bệnh, bác sĩ kê đơn dùng thuốc chống trầm
cảm. Tôi không uống v́ tôi nghĩ tôi đâu có bệnh trầm cảm. Tại sao
bác sĩ cho tôi uống thuốc loại này ?
Đ-
Tôi nghĩ ông mắc phải chứng loạn thần kinh về chức năng xă hội, trong
đó người bệnh thường trực có mức độ lo âu và sợ sệt không có nguyên
cớ. Đó có thể là do sự thiếu kinh nghiệm cuộc sống ngay từ khi c̣n
nhỏ, cha mẹ ôm ấp, ch́u chuộng, cấm cản không cho tiếp xúc, chơi đùa
với các trẻ khác, hoặc chứng trầm cảm, hoặc bị stress không có nguyên
do rơ rệt. Người bệnh cứ luôn luôn sợ hăi và rất lúng túng khi gặp
phải những khó khăn với xă hội bên ngoài, đôi lúc muốn né tránh mọi
người, né tránh các việc làm có người khác chú ư, hoặc sợ người khác
cho ḿnh là một người kém cỏi và đần độn. Trường hợp bắt buộc phải
đối đầu với công việc, bệnh nhân tỏ ra lúng túng, run rẩy, toát mồ
hôi, nói năng lấp bấp, hồi hộp, tim đập nhanh, có khi hụt hơi, ngất
xỉu. Cách điều trị là t́m người cố vấn, cho người bệnh tiếp xúc làm
quen từ từ các vấn đề mà bệnh nhân hay lo sợ. Uống thuốc chống trầm
cảm trong ngắn hạn. Khi bệnh nhân tự nhận biết ḿnh đang mắc bệnh,
t́m cách tự làm chủ bản thân, không c̣n lo sợ vớ vẩn nữa với sự quyết
tâm sẽ đạt những kết quả mong muốn.
H- Em tôi bị bệnh trầm cảm phải chữa chạy cả năm trời mới bớt.
Bệnh đó là loại ǵ và có hậu quả lâu dài ra sao?
Đ-
Bệnh trầm cảm thể hiện nhiều loại khác nhau. Có trường hợp chỉ v́
stress trong cuộc sống như bị đe doạ, hay mất việc làm, có khi người
thân bị chết. Cũng có những chứng trầm cảm do sự mất cân bằng về sinh
hoá trong năo bộ, xuất hiện không lư do rơ rệt. Cần sự thăm khám tỉ
mỉ và định bệnh chính xác trước khi điều trị. Việc chẩn đoán rất khó
v́ không có thử nghiệm đặc hiệu nào hỗ trợ, chỉ trông cậy vào kinh
nghiệm, tài năng lâm sàng của bác sĩ, cùng sự hợp tác chân thành của
ngựi bệnh. Khi bệnh đă được xác định, bệnh nhân sẽ uống một hoặc hai
thứ thuốc, thêm vào đó c̣n có những buổi tâm lư trị liệu, bàn bạc hỗ
trợ. Một số trường hợp được chữa khỏi, một số chỉ kiểm soát được
triệu chứng giống như bệnh tiểu đường, bệnh cao huyết áp, phải dùng
thuốc suốt đời. Điều cần thiết là phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa
thầy thuốc và bệnh nhân. Bệnh nhân có thể có một cuộc sống b́nh
thường. Sự điều trị chỉ gây ra một số phản ứng phụ không đáng kể.
Một số khác kết quả không được tốt.
H: Mẹ của bạn tôi vừa mất và bạn ấy quá buồn rầu, bỏ ăn uống, không
c̣n muốn làm việc ǵ cả. Tôi có thể làm ǵ để giúp bạn trong hoàn
cảnh này?
Đ:
Vấn đề sinh tử là qui luật của cuộc đời nhưng có tầm quan trọng khác
nhau tuỳ theo quan niệm, triết lư sống, văn hoá, tôn giáo của mỗi
người. Có người chấp nhận sự chết của bản thân hoặc của người thân
một cách b́nh thản v́ xem đó là vấn đề tất nhiên, mà bất cứ ai cũng
phải một lần phải trải qua. Nhưng có người lại không có thể chịu đựng
được sự mất mát và xa ĺa người thân, buồn rầu, đau khổ và sinh bệnh.
Đối với những người này, đừng để họ quá cô đơn, suy nghĩ liên miên
khóc lóc. Hăy tạo cho họ có những sự tiếp xúc, gần gũi b́nh thường
với những người chung quanh cũng như ngoài xă hội, đừng để họ có giờ
rảnh để nghĩ ngợi. Cô hăy chuyện tṛ, an ủi, hỗ trợ tinh thần cho bạn
cô.
H-Đứa con trai nhà tôi lên 3 tuổi. Cháu đúng là một đứa con trai,
ví nó thích chơi xe tăng và súng giả. Cháu rất dễ thương, thường chui
vào ḷng tôi để được mẹ hôn hít vuốt ve. Cha cháu không đồng ư cho
tôi làm như vậy và trách tôi là sẽ làm cho thằng bé trở thành ẻo lả,
yếu đuối khi cháu trưởng thành trong tương lai. Ư kiến của bác sĩ thế
nào?
Đ-
Trên đời này, con người, dù lớn bé, già trẻ, trai hay gái đều thích
người khác yêu thương. Khi c̣n nhỏ nếu bị hất hủi, thiếu t́nh thương
của cha mẹ, th́ sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến thái độ sau này, khi bé
trưởng thành. Sự yêu thương của người mẹ dành cho con không bao giờ
có thể khiến con trờ thành một đứa trẻ ẻo lả, yếu đuối cả, mà trái
lại, có thể tạo dựng con trở thành một người vững vàng, biết bao dung,
tha thứ và có t́nh thương yêu người khác. Nhiều công tŕnh nghiên cứu
của các nhà tâm lư về các thái độ không b́nh thường của đa số người ,
đă cho thấy một gia đ́nh bất hoà, hoặc những đứa trẻ thiếu t́nh thương
của cha mẹ, đến khi trưởng thành thường có những thái độ bất thường.
Cấm đoàn trẻ nhiều quá, hoặc che chở nuông chiều quá đáng đều có những
hậu qủa không tốt. Tuy nhiên, bà đừng lấy ư kiến của tôi để đối đầu
với ông nhà. Bà chỉ nên nhỏ nhẹ nói với ông nhà là những bà mẹ khác
cũng đều làm như bà, và ông nhà cũng chẳng nên nghiêm khắc với cháu,
để cháu có một tương lai tốt đẹp.
H: Tôi có nghe nói bệnh tâm thần phân liệt. Đó là bệnh ǵ và biểu
hiện các triệu chứng như thế nào? Có thể điều trị khỏi được không?
Đ:
Bệnh tâm thần phân liệt được dịch từ chữ schizophrenia là một bệnh tâm
thần khiến người bệnh có sự nhận thức sai lạc các sự việc và có những
thái độ bất thường. Nguyên nhân gây bệnh chưa được biết rơ, nhưng yếu
tố gia đ́nh, môi trường sống chung quanh, và xúc động tâm lư đă thúc
đẩy sự ngă bệnh. Nếu một người có hai cha mẹ mắc bệnh tâm thần phân
liệt th́ xác suất 40% người ấy cũng có triển vọng bị bệnh. Sự lạm
dụng marijuana cũng là một yếu tố thúc đẩy mắc bệnh. Bệnh nhân có cái
nh́n lệch lạc về xă hội, sống trong sự buồn chán và hoang tưởng.
Trong khi nói chuyện, họ thay đổi đề tài luôn luôn mà không lư do,
lười biếng chăm lo sức khỏe, vệ sinh và đời sống của chính họ, luôn
luôn xa cách mọi người. Người bệnh thay đổi tính t́nh và thái độ một
cách lạ thường, và luôn tin rằng những người khác đang theo dơi và t́m
cách hăm hại họ. Họ c̣n nghe thấy những tiếng nói không thiện cảm
văng vẳng bên tai, hoặc hoang tưởng sợ hăi. Một số người nghĩ rằng
người mắc bệnh sẽ dữ dằn hơn những người b́nh thường, nhưng thật sự
không có ǵ khác, có chăng sự khác biệt là những người bệnh đôi khi
t́m cách tự huỷ. Nhiều bệnh nhân từ chối khám bệnh và uống thuốc v́
họ không nhận ra họ đang mắc bệnh. Không có xét nghiệm và cách thử
nào đặc hiệu để hỗ trợ cho sự định bệnh. Chẩn đoán bệnh hoàn toàn dựa
vào khả năng và kinh nghiệm của bác sĩ khi tiếp xúc với bệnh nhân cũng
như nhận xét về sự thay đôi thái độ của bệnh nhân do người nhà cung
cấp.
Về thuốc men điều trị, hiện có rất nhiều thuốc công hiệu
(antipsychotics) để chữa bệnh tâm thần phân liệt bao gồm: clozapine,
fluphenazine, olanzapine, promazine, risperidone, thioridazine,
thiothixene, trifluoperazine, và đang có thêm nhiều thuốc mới nữa.
Những thuốc trên có dạng uống và chích để kiểm soát bệnh. Chữa bệnh
này cũng cần có sự hỗ trợ tâm lư người bệnh của gia đ́nh. Không có
cách chữa khỏi được bệnh, nhưng có thể kiểm soát được bệnh. Và bệnh
nhân có thể có được một cuộc sống b́nh thường, nếu bệnh nhân chịu khó
uống thuốc đều lâu dài theo sự chỉ dẫn của bác sĩ và nhân viên y tế.
H: Tôi luôn luôn phải lo lắng, không chỉ vấn đề tài chánh mà c̣n
việc học hành của các cháu, việc nhà cửa và nhiều thứ linh tinh khác.
Tôi thừa biết lo lắng không giải quyết được vấn đề, nhưng tôi vẫn cứ
lo. Có cách nào làm cho bớt lo không?
Đ:
Trong cuộc sống, không ai tránh khỏi được những lo lắng về nhiều t́nh
trạng xảy ra hằng ngày, nào là việc học hành của con cái, công việc
tại sở làm, vấn đề thu nhập tiêu pha, sự bất hoà trong mối quan hệ
trong xă hội, sự đau ốm của bản thân và những người trong gia đ́nh, và
biết bao vấn đề khác nữa. Có hai cách để đối phó với những lo âu
thường nhật này là hành động để loại bỏ nguyên nhân của sự lo âu, và
làm giảm sự quan trọng của sự lo lắng. Chẳng hạn như tiền thu nhập
không đủ để tiêu pha, th́ t́m cách giảm chi tiêu và t́m việc làm phụ
khác. Bận tâm việc học hành các con th́ thường xuyên liên lạc với
thầy cô giáo để theo dơi việc học hành của chúng. Có nhiều sự lo
lắng không thể loại bỏ, nhưng nếu bớt quan tâm đi một chút, th́ sẽ
thấy thoải mái, dễ chịu hơn. Đừng khư khư ôm lấy những lo lắng một
ḿnh, mà đem những sự việc đáng quan tâm của ḿnh ra chia sẻ với mọi
người thân trong gia đ́nh hay bàn bạc với bạn bè tâm giao thân thiết,
đôi khi rất hữu ích và sẽ giải toả những lo lắng triền miên đó mà
chính ḿnh chẳng giải quyết được ǵ, lại c̣n sinh thêm bệnh hoạn nữa.
H:
Tôi sắp phải qua mấy kỳ thi quan trọng. Mặc dầu hàng ngày tôi đă học
hành kỹ lưởng, nhưng vẫn có sự lo lắng là không làm được bài và bị
rớt. Làm sao để có thể vượt qua t́nh trạng này?
Đ:
Cách tốt nhất để đối phó với sự lo âu về thi cử là cần sửa soạn trước
khi thi cho kỹ, và luôn tin tưởng rằng dù bài thi có khó mấy cũng có
thể làm đưọc. Thật ra bể học th́ mênh mông, biết thế nào cho đủ,
nhưng sự cần cù, nhẫn nại, liên tục và quyết tâm trong việc học hành
rất cần thiết. Những bài thi thường là để các học sinh có sức học
trung b́nh có thể làm trôi chảy được. Nhập tâm như vậy để yên chí
rằng, nếu đă học hành kỹ lưởng th́ không có lư do ǵ có thể thi rớt
được, như vậy th́ chẳng có ǵ phải lo cả. Trong dân gian thường hay
nói “học tài thi phận” chỉ xảy ra cho một số rất ít người thiếu may
mắn hoặc ỷ y cậy ḿnh học tài mà thiếu sửa soạn trước, để đến cận ngày
thi mới học rút thi đôi khi phải chịu thất bại. Một số thuốc có khả
năng làm giảm sự lo âu, nhưng phần lớn lại làm an thần, buồn ngủ, và
nếu dùng nhiều quá th́ sẽ làm dễ rớt hơn. Thuốc propranolol dùng để
kiểm soát huyết áp cao và bệnh cường giáp (overactive thyroid) có thể
được dùng với một liều thấp để kiểm soát stress khi cần tập trung suy
nghĩ. Tuy nhiên, nếu có bệnh suyễn th́ không nên dùng được thuốc
này.
H: Khi có một vấn đề ǵ dù nhỏ nhặt, tôi thường có cảm tưởng như
ruột bị thắt lại, có khi cảm thấy đau nữa. Có cách nào để tránh t́nh
trạng này?
Đ:
Thông thường, khi có một chuyện ǵ phải lo âu th́ cơ bắp bị căng
thẳng, kể cả thành ruột và bao tử. Ruột và bao tử là những cơ quan
rỗng mà thành là các thớ thịt không bị chi phối trực tiếp của năo bộ,
do vậy ta không thể điều khiển các bắp thịt ở ruột co thắt nhanh hơn
hoặc chậm hơn. Những thớ thịt đó phản ứng với stress bằng sự co thắt
có khi làm đau. Nếu t́m cách làm giảm được stress hoặc stress không
c̣n quan trọng nữa th́ sự co thắt cũng hết. Như nhà thơ Nguyễn Công
Trứ đă có câu “Nghe như thắt ruột, tai làm điếc, Giận đă tím gan,
miệng mĩm cụi…” . Trong dân gian cũng có câu “lo xoắn cả ruột” là
cũng xuất phát từ hiện tượng này. Muốn tránh chỉ có cách là làm sao
kiểm soát được stress, hay t́m cách “quẳng gánh lo đi để vui sống”.
H:Thế nào là một bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm?
Đ:
Những nghiên cứu của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (World Health Organization)
tiên đoán rằng tới năm 2020 th́ bệnh trầm cảm (major depression) sẽ
trở thành căn bệnh thứ nh́ dẫn đến tàn tật (disability) trên toàn thế
giới và căn bệnh thứ nhứt dẫn đến tàn tật ở những nước đang phát
triển.
Bệnh trầm cảm là một bệnh rất phổ biến. Cứ 100 người có đến 10 người
bị bệnh này và xác suất bị bệnh này trong đời người (lifetime
prevalence) có thể đến 15%. Hiện thời chưa có những thống kê về bệnh
trầm cảm ở người Việt Nam. Có nhiều nghiên cứu cho thấy rằng cuộc sống
gây căng thẳng tinh thần hay những biến cố tạo khủng hoảng trong cuộc
sống là nguyên nhân gây bệnh trầm cảm.
Theo kinh nghiệm của người viết th́ bệnh trầm cảm xảy ra ở người Việt
Nam có xác suất cao hơn người Mỹ bản xứ. Lư do là đa số người Việt Nam
sống ở hải ngoại là người tị nạn và họ đă trải qua rất nhiều biến cố,
khủng hoảng trong đời sống. Những khủng hoảng đó là chiến tranh Việt
Nam, tù cải tạo, thuyền nhân vượt biển, nhiều khó khăn đáp ứng với văn
hóa nước ngoài và đời sống kinh tế không tốt đẹp.
Ta có thể ước lượng rằng xác suất của thế hệ thứ nhứt, sanh trưởng tại
Việt Nam và di tản định cư ở hải ngoại, bị trầm cảm có thể gấp 2 hay 3
lần người bản xứ. Đây là thế hệ đă trải qua rất nhiều biến cố, khủng
hoảng như đă kể trên. Một số người v́ mưu sinh, sống c̣n đă vượt qua
được những triệu chứng trầm cảm lần đầu tiên. Nhưng vài năm sau đó, hệ
thống thần kinh bị suy nhược sẵn, chỉ có một biến cố nhẹ hơn trong
cuộc sống (thí dụ như xích mích vợ chồng hoặc con cái rời nhà sống
riêng) cũng có thể gây ra bệnh trầm cảm nặng (major depression).
Thế hệ thứ 1.5, sinh tại Việt Nam di tản và định cư theo cha mẹ ở nước
ngoài lúc c̣n nhỏ, cũng có những căng thẳng riêng của họ. Đó là những
mâu thuẫn về nguồn gốc của ḿnh. Họ không hẳn là người Việt cũng không
hẳn là người bản xứ hoàn toàn nên có nhiều khó khăn trong việc đáp ứng
kết hợp văn hóa bản xứ với văn hóa của gia đ́nh. Nếu theo phong tục
của bạn th́ về nhà phụ huynh không vừa ḷng, c̣n theo phong tục gia
đ́nh th́ khó đáp ứng được với bạn bè cùng trang lứa.
H: Những dấu hiệu nào cho ta biết một người đang mắc bệnh trầm
cảm?
Đ:
Người Á châu ít chịu công nhận những triệu chứng của bệnh trầm cảm v́
những lư do văn hóa. Hiện thời có rất nhiều sự hiểu lầm về bệnh trầm
cảm. Xă hội tin rằng những người bị trầm cảm là những người lười biếng
với ư chí bị suy kém. Người ta c̣n tin rằng bệnh trầm cảm là một bệnh
tưởng tượng v́ bác sĩ gia đ́nh không t́m được nguyên do thể chất của
những triệu chứng đau nhức của bệnh trầm cảm. Một số khác nghĩ rằng
bệnh nhân trầm cảm có “tánh xấu” v́ họ hay bực bội cau có gây gổ với
mọi người xung quanh.
Bệnh trầm cảm không giống như bệnh cảm, ta ngủ một đêm sáng thức dậy
thấy mệt mỏi và nghẹt mũi. Bệnh trầm cảm xảy ra rất chậm cho nên đôi
lúc bệnh nhân không nh́n ra được những dấu hiệu của nó v́ những triệu
chứng trầm cảm tăng từ từ. Đến lúc bệnh trầm cảm trở thành nặng, người
bệnh không đi làm được hay không sinh hoạt b́nh thường trong gia đ́nh
th́ mới t́m bác sĩ để trị bệnh.
V́ những lư do trên mà những bệnh nhân Á châu khi khai những triệu
chứng trầm cảm, họ ít khi chịu khai những triệu chứng tâm lư mà liệt
khai những triệu chứng thể xác đánh lạc hướng chẩn đoán của bác sĩ gia
đ́nh. Theo cách chẩn đoán của khoa tâm thần th́ hai triệu chứng chính
để chẩn đoán trầm cảm là: buồn sầu (depression) và mất sự hứng thú
trong đời sống (anhedonia). Những triệu chứng này ít thấy những người
bệnh nhân Á châu than phiền. Nếu có than phiền về sự mất hứng thú th́
họ hay ghép vào đó một nguyên nhân chính đáng như cơ thể bị đau nhức
kinh niên chẳng hạn. V́ thế một số đông bệnh nhân Á châu không được
chẩn đoán và trị liệu đúng mức.
Những triệu chứng trầm cảm thường được thấy ở những bệnh nhân Á châu
là những cơn đau nhức bất thường, giấc ngủ bị thay đổi (mất ngủ hay
ngủ li b́), người hay mệt kinh niên, xáo trộn trong khẩu vị (ít ăn,
xuống cân), hay quên, không tập trung tư tưởng được, người hay “tự
ái”, dễ bực bội (irritability). Ngay cả triệu chứng bực bội cũng được
che đậy qua những lư do như những căng thẳng ở sở làm, con cái không
vâng lời, người hôn phối không đối xử tốt với ḿnh. Chính v́ thế mà
khi mới nghe bệnh nhân kể lể, bác sĩ gia đ́nh ít khi nghĩ đến bệnh
trầm cảm. Thật ra những căng thẳng trong cuộc sống ai cũng có, nhưng
đối với người bị trầm cảm căng thẳng được cảm nhận nhiều hơn b́nh
thường.
H: Xin bác sĩ giải thích v́ sao bệnh nhân Á châu tránh né không
muốn kể rơ t́nh trạng bệnh tâm thần của ḿnh?
Đ:
Những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng khoảng 60% bệnh nhân trầm cảm
bị đau nhức trong người. Gần 1/3 (30%) bệnh nhân đau kinh niên bị bệnh
trầm cảm. Ở nước Mỹ, hàng năm có khoảng 400 triệu chuyến khám bác sĩ
(clinic visits) th́ gần phân nửa là v́ đau nhức. 90% những bệnh nhân
có những triệu chứng tâm lư được chẩn đoán đúng mức. Nhưng chỉ có 50%
bệnh nhân trầm cảm có triệu chứng thể xác được bác sĩ gia đ́nh chẩn
đoán và nhận ra bệnh trầm cảm. Nếu những bệnh nhân này có kèm theo
những bệnh về thể xác th́ xác suất nhận ra bị bệnh trầm cảm chỉ có 20%
mà thôi.
Theo cách chẩn đoán của khoa Tâm Thần th́ chỉ cần 2 tuần lễ có những
triệu chứng trầm cảm kể trên thường xuyên ảnh hưởng đến cuộc sống gia
đ́nh và xă hội là hội đủ điều kiện của bệnh trầm cảm. Tuy nhiên trên
thực tế, bệnh nhân chờ đợi rất lâu, cả tháng đến cả năm trời mới chịu
đi khám bác sĩ. Thời gian chần chờ chữa trị lâu hơn ở bệnh nhân Á châu
v́ họ rất sợ bị gán cho cái bệnh tâm thần (mental illness). Khi chần
chờ lâu th́ hệ thống thần kinh bị suy thoái nhiều gây rắc rối cho việc
chữa trị. Ngoài ra khi bệnh trầm cảm trở nên nặng th́ bệnh nhân thường
có những ư nghĩ chán đời, không muốn sống và thậm chí có ư định tự tử.
H: Như vậy bệnh trầm cảm có cơ sở thần kinh học (neurology)?
Đ:
Những nghiên cứu chụp h́nh năo mới nhất cho thấy rằng bệnh trầm cảm
không phải là một bệnh “tưởng tượng” v́ nó gây ra rất nhiều biến đổi
trong sự hoạt động của năo bộ. Những cơ cấu thần kinh (brain
structures) và mạch thần kinh (neural circuits) điều ḥa những triệu
chứng căng thẳng thể xác được dùng chung với bệnh trầm cảm. Chính v́
thế mà khi bị trầm cảm, bệnh nhân có nhiều triệu chứng tâm lư lẫn thể
xác. Cái khác biệt là bệnh nhân Á châu lọc ra những triệu chứng tâm
lư, chỉ khai với bác sĩ những triệu chứng thể xác.
Những nghiên cứu chụp h́nh năo bằng MRI cho thấy rằng khi bị trầm cảm,
hệ thống limbic (limbic system) hoạt động quá độ từ đó sinh ra những
triệu chứng căng thẳng tinh thần như cau có, lo âu phiền năo, mất ngủ,
... Hệ thống cortex (cortical system) hoạt động yếu, sinh ra những
triệu chứng như thiếu sự chăm chú, mất khả năng suy xét, mất sự nhậy
bén lanh lẹ, ... Khi bệnh trầm cảm được điều trị th́ những mất quân
b́nh kể trên đổi chiều và b́nh thường trở lại.
Khi bị trầm cảm lâu ngày, sự căng thẳng thường xuyên sẽ tạo ra những
kích thích tố xấu (glucocorticoids) làm giảm những chất nuôi dưỡng tế
bào thần kinh (Brain derived nerve growth factor, viết tắt BDNF). Khi
glucocorticoids tăng và BDNF giảm th́ sẽ làm hư hỏng một số tế bào
thần kinh. Nhóm tế bào thần kinh kết cấu tạo thành vùng hippocampus
rất nhậy cảm với glucocorticoids. Khi những tế bào thần kinh chết dần,
cấu trúc này bị thoái hóa (atrophy). Vùng hippocampus của óc rất quan
trọng trong việc giúp ta có trí nhớ ngắn hạn. V́ thế khi bị căng thẳng
hay trầm cảm lâu ngày không trị liệu th́ trí nhớ sẽ bị ảnh hưởng xấu.
Lạm dụng x́ ke ma túy cũng có tác động tương tự lên vùng hippocampus.
H- Xin cho biết những nguy cơ có thể xảy ra khi bệnh trầm cảm không
được chữa trị đúng mức.
Đ-
Có rất nhiều nguy cơ xảy ra khi bệnh trầm cảm không được điều trị đúng
mức. Nguy cơ ở cá nhân, khi bị căng thẳng (stress) lâu ngày th́ sẽ làm
hư hỏng nhiều phần của năo bộ. Mới đầu ta chỉ thấy sự xáo trộn trong
sự phân phối hoạt động của các vùng trong năo bộ, như vùng limbic hoạt
động quá độ c̣n vùng cortex hoạt động kém hơn. Khi để lâu sự mất quân
b́nh này dẫn đến sự xáo trộn về chất thần kinh giao nối
(neurotransmitter imbalance) và sau đó dẫn đến sự xáo trộn về nội tiết
(endocrine imbalance). Khi nội tiết bị xáo trộn th́ hiện nay chưa có
cách trị hữu hiệu v́ khoa học chưa phát minh ra thuốc trị nội tiết mất
quân b́nh.
Bệnh trầm cảm ảnh hưởng xấu đến các bệnh thể xác khác một cách gián
tiếp và trực tiếp. Căng thẳng của chứng trầm cảm làm bệnh nhân cảm
thấy đau nhức nhiều hơn người không bị trầm cảm. Khi uống thuốc th́ họ
bị phản ứng phụ nhiều hơn v́ sự căng thẳng làm giảm sự chịu đựng của
cơ thể họ, do đó mà các bệnh khác không được trị đúng mức. Khi bị trầm
cảm nặng, bệnh nhân chán chường nên bỏ bê việc uống thuốc thường
xuyên, không tập thể dục và ăn uống bất thường làm các bệnh như tiểu
dường hay cao máu nặng hơn. Ngoài ra trầm cảm cũng ảnh hưởng trực tiếp
đến hệ thống miễn nhiễm (immune system), các bệnh tim mạch, đường
ruột, hô hấp làm triệu chứng của các bệnh này nặng hơn.
Ở nam giới bệnh trầm cảm không được chữa trị dễ dẫn đến lạm dụng rượu,
hút thuốc và x́ ke ma túy. Sự nghiện ngập hút xách sẽ làm bệnh trầm
cảm nặng hơn. Nó sẽ dẫn đến sự sụp đổ gia đ́nh rất nhanh. Những nghiên
cứu cho thấy sự bạo hành gia đ́nh tăng lên với người bị trầm cảm. Nguy
cơ tử vong khi tự tử rất cao ở nam giới bị trầm cảm. Nguy cơ này cao
hơn nữa nếu bệnh nhân trầm cảm hút xách và mất tự chủ. Ngoài ra c̣n có
nguy cơ làm hại sinh mạng kẻ khác khi trong lúc say rượu và tuyệt
vọng, bệnh nhân giết con cái hay hôn phối của ḿnh.
Về gia đ́nh th́ người bệnh trầm cảm bỏ bê sinh hoạt gia đ́nh, thích ở
trong pḥng một ḿnh, hay gây gỗ với người thân, họ bị tự ái quá độ,
t́nh cảm mất quân b́nh, dễ la lối khóc lóc v́ thế mà quan hệ gia đ́nh
rất căng thẳng. Một số người mất sự thích thú t́nh dục, không thích
chưng diện, không chăm sóc người phối ngẫu, làm quan hệ hôn nhân bị
lung lay. Nếu là phụ huynh th́ sự chăm sóc con cái bị suy giảm, khiến
người phối ngẫu phải làm việc nhiều hơn, đó cũng là một nguyên nhân
đưa đến sự xung đột trong gia đ́nh. Phụ huynh bị trầm cảm không dằn
được cơn bực bội hay la mắng, thậm chí đánh đập con cái rồi sau đó họ
bị mặc cảm tội lỗi dày ṿ. Nguy cơ ly dị ở người bị trầm cảm cao hơn
b́nh thường.
Người bệnh trầm cảm không đáp ứng được với những nhu cầu của công
việc. Họ dễ bị căng thẳng khi bị đồng nghiệp hay chủ sở phê b́nh. Họ
làm việc chậm hơn người thường v́ thiếu chăm chú và hay quên. Họ hay
mất ngủ và sáng vào sở uống cà phê thật nhiều. Lạm dụng cà phê sẽ làm
cơ thể căng thẳng hơn và sau đó họ sẽ lâm vào trường hợp mệt mỏi và
hay bị lo âu quá độ. Lâu ngày tinh thần sẽ sa sút càng nhiều và những
căng bệnh thể xác như nhức mỏi, nhức đầu sẽ ngày càng nhiều. Đến mức
độ nào đó họ sẽ mất khả năng làm việc hữu hiệu và bị đuổi sở. Khi mất
việc làm th́ bệnh trầm cảm sẽ qua giai đoạn nặng, có nguy cơ tự tử.
Nói tóm lại những cảnh địa ngục trần gian sẽ tránh được khi bệnh trầm
cảm được chẩn đoán và điều trị đúng mức.
H- Cách pḥng ngừa và trị liệu bệnh trầm cảm.
Đ-
Bệnh trầm cảm không phải lúc nào cũng phải được trị bằng thuốc men. Ta
có thể thay đổi cuộc sống và lối suy suy nghĩ để tránh bệnh trầm cảm
trở thành nặng. Một số người khi thay đổi cách suy nghĩ và lối sống
th́ căng thẳng (stress) giảm đáng kể, từ đó mà các triệu chứng trầm
cảm bớt đi và có thể hết. Thí dụ như giảm công việc lại, làm ít giờ
hơn, có nhiều thời gian sinh hoạt với gia đ́nh, dành nhiều thời giờ
đối thoại với người phối ngẫu để san bằng cái hố hiểu lầm. Nếu là sinh
viên th́ giảm số giờ học (units) lại, tăng thời gian nghỉ ngơi và ăn
ngủ điều độ. Tránh lạm dụng cà phê hay rượu chè. Tập thể dục thể thao
cũng có khả năng làm giảm trầm cảm. Tập thể thao thường xuyên sẽ làm
tăng chất nuôi dưỡng tế bào (BDNF), giúp những tế bào thần kinh sống
lâu hơn.
T́m hiểu tôn giáo để học hỏi những cách sống cho tâm hồn thư thản cũng
là một cách pḥng ngừa trầm cảm. Những nghiên cứu cho thấy tâm tĩnh
lặng (mindfulness) rất hữu hiệu trị lo âu và trầm cảm. Khi suy nghĩ lo
âu nhiều quá th́ ta tạo căng thẳng cho hệ thống thần kinh. Khi hệ thần
kinh làm việc quá độ th́ sẽ gây ra những triệu chứng lo ra và mất trí
nhớ. Tâm tĩnh lặng tạo những thay đổi tốt cho năo bộ và được thể hiện
qua sơ đồ điện năo (EEG) và chụp h́nh PET scan. Căng thẳng kinh niên
sẽ gây ra bệnh trầm cảm. Tinh thần cạnh tranh, hơn thua tạo ra rất
nhiều căng thẳng và không thích hợp với bệnh trầm cảm. Nếu người có di
truyền trầm cảm, căng thẳng sẽ làm trầm cảm phát triển sớm hơn. Những
pháp môn tôn giáo như niệm Phật, cầu nguyện Chúa, hay thiền là những
cách gián tiếp hay trực tiếp dẫn đến tâm tĩnh lặng.
Tâm lư học có những phương pháp tâm lư trị liệu như tâm lư trị liệu
nâng đỡ (supportive therapy), tâm lư trị liệu nhận thức và hành động
(cognitive behavioral therapy) để giúp người bị trầm cảm đi qua những
cơn khủng hoảng tinh thần và giúp họ hội nhập vào gia đ́nh và xă hội.
Tâm lư trị liệu dùng tâm tĩnh lặng (mindful therapy) rất thành công ở
những bệnh nhân bị ung thư và trầm cảm đi đôi. Ở những bệnh trầm cảm
nặng, tâm lư trị liệu phối hợp với thuốc men công hiệu hơn là trị
thuốc men một ḿnh.
H: Xin chỉ dẫn cách điều trị bệnh trầm cảm bằng thuốc men.
Đ:
Nói về cách trị liệu bệnh trầm cảm bằng thuốc th́ hiện nay nhóm thuốc
làm tăng Serotonin (Selective Serotonin Reuptake Inhibitor-SSRI) rất
phổ biến trong việc dùng trị bệnh trầm cảm. Nhóm thuốc này gồm có
Fluoxetine (Prozac), Paroxetine (Paxil), Sertraline (Zoloft),
Citalopram (Celexa) và Escitalopram (Lexapro). Những loại thuốc trên
có thể đều có công dụng bằng nhau nhưng khác về phản ứng phụ. Bác sĩ
tùy triệu chứng của bệnh nhân mà chọn thuốc. Ngoài ra c̣n có nhóm
thuốc ảnh hưởng Serotonin và Norepinephrine (Serotonin-Norepinephrine
reuptake inhibitor- SNRI). Nhóm thuốc này gồm có Venlafaxine (Effexor)
và Duloxetine (Cymbalta). C̣n nhiều thuốc nữa không tiện liệt kê ra
hết. Càng ngày càng có nhiều loại thuốc mới ra nên việc trị liệu bệnh
trầm cảm tương đối hữu hiệu hơn lúc trước.
H- Xin cho biết những điều cần quan tâm khi trị bệnh trầm cảm
bằng thuốc men.
Đ-Những
nghiên cứu thuốc trầm cảm ở trẻ em cho thấy rằng loại thuốc này có thể
tăng những ư muốn tự vận. Không có trường hợp hoàn tất tự tử (suicide
completion). Con số này rất nhỏ tuy nhiên FDA vẫn ra thông báo để cho
các bác sĩ đề pḥng. Các nhà nghiên cứu nghĩ rằng một số những đứa trẻ
có ư muốn tự vận bị chẩn đoán lầm. Những em này có thể bị bịnh t́nh
cảm lưỡng cực (bipolar affective disorder), khi uống thuốc trầm cảm,
trong người thấy bứt rứt khó chịu hay bực bội nhiều hơn mà không tự
chủ được.
Những giai đoạn bác sĩ cần theo dơi bệnh nhân kỹ là giai đoạn khởi đầu
uống thuốc và giai đoạn điều chỉnh thuốc liều cao hơn. Nếu bệnh nhân
uống thuốc trầm cảm cảm thấy khó chịu, có những cơn vui quá độ
(mania), cảm thấy năng lực tăng thật nhiều mà không cần ăn và ngủ, th́
nên dừng thuốc và thông báo bác sĩ tức thời. Nói chung, thuốc trị trầm
cảm rất an toàn.
Bệnh trầm cảm không phải là một bệnh tưởng tượng như người ta thường
nghĩ. Người bệnh trầm cảm không thể dùng ư chí để vượt qua căn bệnh
này mà cần phải được trị liệu đúng cách. Bệnh này cũng không hẳn chỉ
là bệnh tâm thần v́ nó có nhiều triệu chứng về thể xác, và nó có cơ sở
thần kinh sinh lư học (neurobiology). Nếu không trị đúng mức bệnh này
sẽ gây tai hại cho cuộc sống cá nhân, gia đ́nh và xă hội.
H: Xin cho biết những h́nh thái rối loạn tâm thần.
Đ:
Bệnh rối loạn tâm thần (anxiety) có nhiều h́nh thái:
* Căng thẳng toàn diện (generalized anxiety disorder).
* Kinh hoảng đột ngột (panic disorder).
* Ám ảnh (obsessive-compulsive disorder).
* Sợ hăi vô lư (phobic disorder).
* Rối loạn tâm thần sau một biến cố (posttraumatic stress disorder).
H: Xin nói rơ những triệu chứng bệnh căng thẳng toàn diện.
Đ:
Triệu chứng của bệnh căng thẳng toàn diện (generalized anxiety
disorder) rất đa dạng, giống triệu chứng bệnh của nhiều cơ quan khác
nhau. Người bị căng thẳng toàn diện có thể có một hay nhiều triệu
chứng sau:
- Thường xuyên cảm thấy căng thẳng và dễ nổi nóng bất thường.
- Hay giật ḿnh, hoặc phản ứng quá đáng khi nghe tiếng động hay khi có
việc ǵ lạ xảy ra.
- Khó tập trung tư tưởng để suy nghĩ hoặc làm việc, đầu óc nhiều khi
như trống rỗng.
- Khó ngủ: khó dỗ giấc ngủ hoặc chợt thức giấc giữa đêm và không ngủ
lại được.
- Chóng mặt, choáng váng: triệu chứng này rất thông thường ở những
giai đoạn đầu của bệnh anxiety. Người bệnh thường xuyên cảm thấy chóng
mặt, choáng váng và có cảm tưởng như đi không vững hay sắp bị ngất
xỉu.
- Cảm giác như bị mất thăng bằng khi đi đứng: nhiều bệnh nhân mô tả
cảm giác mất thăng bằng giống cảm giác như đang đi trên thuyền bồng
bềnh trên mặt biển. Nhiều người khác mô tả chân như không có sức,
không đặt xuống đất được b́nh thường. Có người lại cảm thấy như thân
h́nh đang bị nghiêng sang một bên và cảm thấy cần phải cố gắng nghiêng
người sang phía bên kia để lấy lại thăng bằng.
- Khó thở: người bệnh hay cảm thấy ngộp thở, có cảm giác không hít vào
đủ dưỡng khí cho cơ thể nên phải thường xuyên hít thở sâu và nhanh.
Thường thường triệu chứng này không đến nỗi nặng, và người bệnh chỉ
có thói quen hay hít thở một hơi thật sâu và dài. Nếu cơn khó thở nặng
hơn, người bệnh thở vừa sâu vừa nhanh và dồn dập. Thở như vậy một lúc,
người bệnh sẽ hít vào quá nhiều Oxygen, và thải khí Carbon dioxide từ
phổi ra nhanh quá. Hậu quả là những xáo trộn biến dưỡng sẽ xảy ra, tạo
ra những triệu chứng mới, như tê quanh miệng, tê ở đầu các ngón tay,
choáng váng, chóng mặt, hoa mắt, tay chân co quắp và cuối cùng, có thể
ngất xỉu. Trong trường hợp này, cho người bệnh hít thở ngay vào một
bao giấy sẽ làm người bệnh mau chóng hồi phục.
- Hồi hộp: đa số người bị anxiety đều cảm thấy tim đập mạnh, nhanh
hoặc thất nhịp. Chính v́ vậy, người bị anxiety hay nghĩ ḿnh bị bệnh
tim và đi thăm hết bác sĩ tim này đến bác sĩ tim khác.
- Đau hay tức ngực: khoảng 60% người bệnh bị anxiety than đau hay tức
ngực. Người bệnh thường mô tả ngực bị đè nặng ở vùng tim bên ngực
trái. Thường đây là một cảm giác liên tục, ê ẩm và nằm sâu trong
ngực. Cảm giác ấy khiến người bệnh càng cuống lên, nghĩ ḿnh bị bệnh
tim gây “heart attack”.
- Cảm giác như bị nghẹn (choking sensation): rất nhiều người bị
anxiety có triệu chứng này. Suốt ngày, họ có cảm giác như có vật lạ
trong cổ họng làm nghẽn đường thở.
- Bị tê: 2/3 số người mang bệnh anxiety than bị mất cảm giác hoặc có
cảm giác như có kiến ḅ ở tay, bàn tay, bàn chân, ở quanh mắt hay
miệng.
- Nóng lạnh: 72% người bệnh có triệu chứng ớn lạnh hay cảm thấy có
những luồng hơi nóng xông lên bất thường. Có người thấy ớn lạnh một
phần cơ thể hay dọc theo xương sống. Ngược lại, có những người khác
thấy từng luồng hơi nóng xông lên bụng, ngực, cổ rồi biến mất. Có
người lúc đó cảm thấy mặt nóng và đỏ.
- Buồn nôn: buồn nôn cũng là một triệu chứng thông thường của bệnh
anxiety. Tuy nhiên, khi kể bệnh, lại ít người đề cập đến điều này.
- Tiêu chảy: có người hay bị tiêu chảy. Đa số chỉ thỉnh thoảng bị tiêu
chảy. Có người bị nặng đến độ phải mang tă và không dám đi đâu xa nhà.
- Nhức đầu hay nhức mỏi các bắp thịt: 86% người có bệnh anxiety bị
nhức đầu hay nhức mỏi các bắp thịt kinh niên, đặc biệt là các bắp thịt
vùng cổ và lưng. Họ gần như phải uống thuốc đau nhức mỗi ngày. Khi
được chữa trị đúng cách, anxiety bớt, đau nhức cũng thuyên giảm.
- Mệt mỏi: hầu hết người bị anxiety đều than mệt mỏi. Cái mệt mỏi
thông thường của một người b́nh thường nhưng làm việc quá sức là vào
buổi chiều, sau một ngày làm việc. Cái mệt mỏi của người bị anxiety
xảy ra cả ngày. Người bị anxiety lúc nào cũng thấy mệt mỏi và như
không có sức.
H: Những nguyên nhân nào đưa đến bệnh căng thẳng tâm thần toàn
diện?
Đ:
Chúng ta đă biết thế nào là “anxiety”, một t́nh trạng căng thẳng, sợ
hăi của tinh thần, thường có những phản xạ của thể xác đi kèm như tim
đập mạnh, mặt tái, tay chân run rẩy, người bủn rủn... Một chút
“anxiety” th́ tốt, giúp ta hoạt động, hoàn thành mọi công việc hằng
ngày, nhưng nhiều “anxiety” quá là bệnh, là có rối loạn (“anxiety
disorder”).
Sao
lại có những người lúc nào cũng cảm thấy lo âu, sợ hăi, người luôn
căng thẳng. Cũng có người bệnh như giả vờ, thỉnh thoảng lên những cơn
kinh hoảng đột ngột (panic attack), tưởng chừng sắp chết đến nơi, một
chặp sau đă lại tươi như hoa. Rồi những người đầu óc luôn đầy những ám
ảnh vô lư, biết mà không sao gạt ra được.
Nguyên nhân của căn bệnh anxiety c̣n nằm trong ṿng giả thuyết. Tuy
thế, càng ngày người ta càng ngờ rằng anxiety là do sự xáo trộn của
những chất dẫn truyền trong óc ta.
Óc ta được tạo bởi muôn ngàn những sợi thần kinh nối kết với nhau một
cách tinh vi. Đuôi của sợi thần kinh nọ nối kết với đầu của sợi kia.
Mọi tư tưởng hoặc hành động của ta đều do sự dẫn truyền của các luồng
điện thần kinh, từ sợi thần kinh nọ tiếp sang sợi thần kinh kia trong
óc.
Ở những chỗ nối kết của các sợi thần kinh, các đuôi thần kinh tiết ra
những chất kích thích đặc biệt (stimulants) gọi là catecholamines.
Những chất kích thích này tác động vào đầu của những thần kinh kế
tiếp, tạo ra các phản ứng hóa học giây chuyền giúp vào sự dẫn truyền
luồng thần kinh. Người ta tin rằng trong bệnh anxiety, đuôi các thần
kinh tiết ra quá nhiều các chất kích thích catecholamines,
khiến các luồng thần kinh được dẫn truyền nhanh hơn, tạo nên các triệu
chứng của bệnh anxiety.
Ngược lại, cũng có những chỗ đuôi thần kinh tiết ra những chất hóa học
có tác dụng làm trung ḥa chất catecholamines, do đó làm êm
dịu, giảm bớt sự dẫn truyền thần kinh. Một giả thuyết khác được đưa
ra: hay những chỗ tiết ra các chất hóa học có tác dụng làm êm dịu ấy,
v́ một lư do nào đó, tiết ra những chất này không đủ về số lượng hoặc
bị thiếu phẩm chất?
Có thể những bất thường gây bệnh anxiety có tính di truyền. Các khảo
cứu cho thấy vị nào có thân nhân trong gia đ́nh bị anxiety, dễ bị
anxiety hơn người khác.
Vai tṛ của những yếu tố bên ngoài cũng được đặt ra. Người trong thời
thơ ấu từng chứng kiến hoặc phải chịu đựng hoàn cảnh thương tâm sau dễ
bị anxiety. Một người có sẵn những yếu tố di truyền, sinh học, tâm lư
(genetic, biologic, psychological factors) trong cơ thể gây anxiety,
khi sống trong một môi trường an b́nh, sẽ ít bị anxiety hơn là phải
sinh sống trong một môi trường nhiều nhiễu nhương. Sau mỗi cơn động
đất, đa số chúng ta chỉ lo âu, sôi nổi bàn tán vài ngày, có người cười
vui: “Sống chết có số”, song người bệnh anxiety đâm lo âu, hồi hộp,
mất ăn mất ngủ cả tháng.
Nhiều bệnh thể xác (bệnh cao áp huyết, các bệnh tim, phổi, …), và
nhiều thuốc dùng (cà phê, thuốc chữa suyễn, chữa nghẹt mũi, …) có thể
gây những triệu chứng giống triệu chứng của bệnh căng thẳng tâm thần,
khi đi khám bác sĩ, chúng ta nên mang theo những thuốc đang dùng hàng
ngày để bác sĩ xem.
H: Chứng bệnh tâm thần căng thẳng toàn diện có thể chữa trị được
không? Nếu chữa trị th́ chữa bằng cách nào?
Đ:
Trừ những bậc chân tu đắc đạo, những âu lo, căng thẳng là những phản
ứng b́nh thường của mọi người trần chúng ta, khi ta phải đương đầu với
những đe dọa. Những âu lo b́nh thường như vậy không cần đến những chữa
trị bằng thuốc. Nhưng khi âu lo, căng thẳng đi quá một mức b́nh thường
so với sự đe dọa, khiến cuộc sống bạn mất vui, bạn không làm ăn ǵ
được, bạn cần sự chữa trị.
Bệnh nào cũng thế, có nhiều mức độ từ nhẹ đến nặng. Nhẹ, ta hăy thử
trước những cách chữa không cần dùng thuốc. Nặng, cần đến thuốc uống,
thêm vào những cách chữa không dùng thuốc.
1. Các cách chữa không dùng thuốc (nondrug therapy):
Đa số những trường hợp anxiety nhẹ không cần phải dùng đến thuốc. Chỉ
cần một thái độ hiểu biết, nâng đỡ của bác sĩ, cùng một vài chỉ dẫn
hợp lư là đủ (supportive therapy).
Bạn lo quá, chết chửa, sắp mất quyền lợi của người không phải là công
dân đất Mỹ? Vậy bạn... nên thi nhập tịch để trở thành công dân Mỹ. Hăy
biến âu lo thành hành động, biến căng thẳng thành vũ khí lợi hại giúp
ta hăng hái học thi. Hăy sử dụng “anxiety” như một người bạn tốt.
Bạn hay bồn chồn, hồi hộp quá đáng mỗi khi có những sự việc bất ngờ
xảy ra? Vậy khi làm việc ǵ, ta nên so đo, trù liệu kỹ lưỡng, để tránh
được những bất ngờ. Một người mỗi khi sắp sửa đi làm, lại thấy căng
thẳng, mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, đứng không vững. Hỏi ra mới biết
có sự xung khắc trầm trọng với một anh bạn cùng sở. Nhiều giải pháp
được đặt ra: “dĩ ḥa vi quí”, làm ḥa với người bạn cùng sở, xin
thuyên chuyển sang department khác, hoặc t́m một công việc khác tuy có
ít lương hơn, nhưng gần nhà, mỗi ngày lại khỏi phải nh́n ngắm gương
mặt khó ưa ấy, ...
Khi vấn đề gây anxiety được giải quyết thỏa đáng (problem solving),
nhiều phần là các triệu chứng anxiety của bạn sẽ biến mất.
Triệu chứng của bạn nặng hơn, bạn lại không thích dùng thuốc, bạn cần
t́m đến tâm lư trị liệu (psychologic therapy), hướng dẫn bởi một tâm
lư gia (psychologist). Tâm lư trị liệu có mục đích soi sáng cho bạn
biết rơ vấn đề của ḿnh (cognitive therapy), giúp bạn thay thế những
phản ứng không thích ứng bằng những phản ứng được xem là thích ứng
hơn, lành mạnh hơn, khi phải đương đầu với những căng thẳng của cuộc
sống hằng ngày. Bạn có những hăi sợ vô lư ư, tâm lư trị liệu cũng giúp
bạn từ từ tiếp xúc với những hoàn cảnh hay làm bạn hăi sợ, rồi giúp
bạn quen dần với những hoàn cảnh này (exposure and desensitization).
Các phương pháp làm dăn nở từng nhóm bắp thịt (relaxation
techniques) hoặc biofeedback (khách quan cảm nhận sự căng
thẳng của cơ thể, rồi t́m cách làm thay đổi các căng thẳng này) rất
tốt. Các phương pháp trên dựa vào khái niệm tinh thần và thể xác có
những tương quan mật thiết, tuy hai mà là một. Khi bị anxiety, thể
xác, cụ thể là các nhóm bắp thịt (nhất là các bắp thịt vùng đầu, cổ và
lưng), cũng ở trong t́nh trạng căng thẳng (do vậy, người bị anxiety
hay nhức đầu, mỏi cổ, đau vai, mỏi lưng). Meditation (thiền,
cầu nguyện hoặc suy tưởng theo chiều hướng lạc quan) giúp nhiều người
nh́n cuộc sống với con mắt khoan ḥa, lạc quan hơn. C̣n thể dục, thể
thao nữa, cũng giúp cơ thể khỏe mạnh, thư thái, làm giảm các căng
thẳng tinh thần.
2. Chữa trị bằng thuốc:
Anxiety nặng (thường xuyên căng thẳng, hồi hộp, mất ngủ, không thể tập
trung tư tưởng, ...) cần đến sự chữa trị bằng thuốc, phối hợp với các
phương pháp không dùng thuốc kể trên.
Thuốc chữa bệnh anxiety có nhiều loại:
·
Các thuốc an thần Benzodiazepines:
Các thuốc thuộc nhóm benzodiazepines (như Xanax, Valium, Klonopin,
Ativan, Serax, ...) là những thuốc an thần ra đời đầu tiên, và rất hữu
hiệu để chữa bệnh anxiety.
Thuốc mau chóng làm các triệu chứng thuyên giảm, nhưng có bất lợi là
hay gây nghiện. Mau lắm, chỉ sau vài tuần dùng thuốc liên tục, cơ thể
ta đă quen với thuốc, không có thuốc đâm khó chịu, buồn nôn, ăn mất
ngon, buồn sầu, thấy cuộc đời không thực (depersonalization), những
chuyển động b́nh thường của cơ thể nay thấy kỳ kỳ làm sao ấy (abnormal
perception or sensation of movement), có khi lên cơn kinh giật
(seizure). Đang dùng thuốc loại này, nhất là với lượng cao, và đă dùng
một thời gian khá lâu, bạn không nên bất ngờ bỏ thuốc, nếu không có ư
kiến của bác sĩ.
Nhiều trường hợp căng thẳng tâm thần tạm thời chỉ cần dùng thuốc 5 đến
7 ngày là đủ. Với những t́nh trạng căng thẳng tâm thần kinh niên, sự
dùng thuốc có khi cần kéo dài nhiều tháng. Khi dùng những thuốc an
thần này, tuyệt đối bạn không nên uống rượu, v́ thuốc và rượu phối hợp
với nhau, có thể làm bạn gây tai nạn khi đang lái xe.
·
Thuốc Buspirone:
Chính v́ tác dụng gây nghiện của những thuốc an thần thuộc nhóm
benzodiazepines, các bác sĩ hiện nay không c̣n dùng nhiều những thuốc
thuộc nhóm này như trước, cho những t́nh trạng căng thẳng tâm thần
kinh niên. Thay vào đấy là những thuốc mới.
Thuốc Buspirone tốt để chữa những t́nh trạng căng thẳng toàn diện
(generalized anxiety), lúc nào cũng hồi hộp, lo âu. Có điều, mất từ 2
đến 4 tuần thuốc mới phát huy được hiệu lực của nó. Nên, trong lúc chờ
đợi, bạn cần nhiều đến sự nâng đỡ tinh thần của những người thân, hoặc
tạm thời dùng thêm thuốc thuộc nhóm benzodiazepines kể trên.
· Thuốc
chống sầu buồn (antidepressants):
Đây là một nhóm thuốc rất quan trọng. Đầu tiên, người ta t́m ra những
thuốc này để chống bệnh sầu buồn (depression). Dùng thuốc lâu, người
ta lại khám phá thêm được những cái tốt khác của chúng. Chúng chống
được cả các t́nh trạng căng thẳng tâm thần toàn diện (generalized
anxiety), ám ảnh (obsessive-compulsive disorder), rồi, với bệnh kinh
hoảng đột ngột (panic disorder), hoặc hăi sợ vô lư (phobic disorder),
chúng cũng trị tuốt luốt. Ôi, đời ta sẽ mất vui nhiều lắm nếu không có
chúng. Chúng ít gây phản ứng bất lợi, lại không gây ghiền như các
thuốc an thần benzodiazepines, nên có thể dùng dài lâu.
Nhóm thuốc này tốt, nên các hăng thuốc đua nhau chế thêm nhiều thuốc.
Chỉ xin đan cử một ít tên thuốc, để bạn quen dần với những thuốc thuộc
nhóm này: Tofranil, Elavil, Pamelor, Anafranil, Prozac, Paxil,
Effexor, ... (Thuốc tây không giống “thuốc bắc”, có tên có tuổi đàng
hoàng.)
Có thuốc tác dụng trong ṿng vài ngày, có thuốc trong ṿng vài tuần.
Bạn nên kiên nhẫn. Đặc biệt, thuốc Elavil của nhóm này hay được dùng
để chữa nhiều chứng đau nhức, đem lại kết quả rất tốt.
H: Phương cách chữa trị bệnh căng thẳng tâm thần toàn diện như thế
nào?
Đ:
Tùy trường hợp, căng thẳng tâm thần có thể được chữa trị bằng những
phương pháp không cần dùng thuốc, hoặc cần chữa bằng thuốc. Cho những
trường hợp nặng, kinh niên, lai rai suốt đời, chữa trị bằng thuốc đưa
đến kết quả nhanh chóng hơn, nhưng tâm lư trị liệu giúp kết quả của sự
chữa trị kéo dài hơn. Phối hợp cả hai phương pháp chữa trị, thuốc và
tâm lư trị liệu, đưa đến kết quả tốt đẹp nhất.
Bệnh căng thẳng tâm thần có khỏi hẳn được không? Cùng c̣n tùy. Những
trường hợp nhẹ, thỉnh thoảng người bệnh mới có triệu chứng, và cần
chữa trị lại. Những trường hợp nặng, kinh niên, sẽ lai rai hoài, cần
chữa trị dài lâu. Sự chữa trị tuy không chữa khỏi được căn bệnh, nhưng
nhắm mục đích giúp người bệnh vui sống, làm việc b́nh thường để tiếp
tục thăng tiến bản thân, đồng thời đóng góp vào sự thịnh vượng chung
của gia đ́nh và xă hội.
Ngày trước, khi người ta chưa hiểu rơ về bệnh anxiety, sau khi thăm
khám cho bạn, và không t́m thấy ǵ lạ, nhiều phần bác sĩ sẽ nói: “Ô,
có ǵ đâu, ông bạn chỉ hay khéo tưởng tượng (it's all in your mind)”.
Nay, bác sĩ đă nói khác: “Bạn bị căng thẳng tâm thần đấy, Mỹ họ gọi là
‘anxiety’. Sự chữa trị, đặc biệt là sự hiểu biết thấu đáo về chứng
bệnh này sẽ làm bạn yên tâm và triệu chứng của bạn sẽ thuyên giảm”.
H: Tôi có nghe nói về bệnh tâm thần kinh hoàng đột ngột. Xin nói
rơ cho tôi hiểu về chứng bệnh đó.
Đ:
Bệnh tâm thần kinh hoảng đột ngột (panic disorder) là bệnh tâm thần
gây những cơn sợ hăi, kinh hoảng rất đặc biệt. Bệnh xảy ra thường lắm,
nhiều không kém bệnh suyễn. Dựa theo những trường hợp bệnh được báo
cáo, người ta cho rằng cứ trong 100 người, có 1 đến 3 người mang bệnh
này (1-3%). Trên thực tế, có lẽ con số này c̣n cao hơn, v́ có nhiều
trường hợp bệnh bác sĩ định lầm thành bệnh khác (tưởng rằng bị bệnh
suyễn, bệnh tim, ...). Bệnh hay bắt đầu trong khoảng tuổi 18 đến 45.
Bệnh kinh hoảng gây những ảnh hưởng tai hại trên đời sống của người
bệnh ngang ngửa với bệnh trầm cảm (major depression): cuộc sống mất
vui, khả năng làm việc suy giảm, gia đ́nh xáo trộn. Theo một báo cáo,
số ngày nghỉ việc của người bệnh kinh hoảng cao hơn số ngày nghỉ việc
của người bệnh tiểu đường, bệnh tim, bệnh thận.
H: Như vậy xin cho biết bằng cách nào để biết được chứng bệnh kinh
hoàng đột ngột?
Đ:
Bệnh gây những cơn kinh hoảng rất đột ngột (panic attack). Trong những
cơn kinh hoảng, người bệnh cảm thấy khó chịu, sợ hăi, căng thẳng tinh
thần dữ dội, đồng thời có những triệu chứng thể chất đi kèm. Những cơn
kinh hoảng thỉnh thoảng mới xảy ra, hoặc có thể đến viếng người bệnh
vài lần mỗi ngày. Thường chúng kéo dài vài phút đến một tiếng, nhưng
thỉnh thoảng, cũng có nhiều trường hợp chúng kéo dài đến vài giờ đồng
hồ.
Trong một cơn kinh hoảng như vậy (có khi nhẹ, có khi nặng), người bệnh
thường có ít nhất 4 trong các triệu chứng sau đây, xảy ra một cách đột
ngột, và nhanh chóng tăng cường độ trong ṿng 10 phút:
- Hồi hộp, thấy tim đập mạnh hay nhanh.
- Toát mồ hôi.
- Run rẩy tay chân.
- Cảm giác ngộp thở.
- Cảm giác bị nghẹn (choking).
- Đau ngực hay thấy khó chịu trong ngực.
- Buồn nôn hay thấy khó chịu trong bụng, đau vùng bụng trên.
- Thấy chóng mặt, không vững, choáng váng hoặc xỉu.
- Cảm thấy không thực (feelings of unreality) hoặc có giảm giác thoát
xác, ḿnh tự thoát ra khỏi ḿnh (being detached from oneself).
- Sợ không c̣n kiểm soát được chính ḿnh hay muốn phát điên lên.
- Sợ chết.
- Bị tê (mất cảm giác hay có cảm giác như kiến ḅ).
- Ớn lạnh (chills) hay ngược lại, thấy nóng phừng (hot flushes).
Điều đáng sợ là người bệnh cảm thấy được cơn kinh hoảng sắp xảy ra mà
vẫn không tự trấn tĩnh được. Các triệu chứng hoàn toàn vượt ra ngoài
sức kiểm soát của người bệnh.
Triệu chứng xảy ra trong cơn kinh hoảng giống triệu chứng của nhiều
bệnh thể chất như bệnh tim mạch, bệnh phổi, bệnh thần kinh, bệnh các
tuyến nội tiết, ... Điều này lại càng làm người bệnh thêm căng thẳng
trong cơn kinh hoảng, v́ sợ ḿnh đang bị một bệnh thể chất quan trọng,
nhiều vị đi khám bác sĩ hoài hoặc thường xuyên chạy vào pḥng cấp cứu.
Và chẳng trách bác sĩ có thể định lầm là người bệnh bị heart attack
(chết cơ tim cấp tính), lên cơn suyễn, ... Không ít người bệnh đă đi
khám vô số bác sĩ, vào ra pḥng cấp cứu, và sau nhiều năm, bệnh mới
được t́m ra. Cơn kinh hoảng có khi như từ trên trời rơi xuống, tấn
công người bệnh bất ngờ, không báo trước, cũng không do một nguyên
nhân chi rơ rệt. Ngược lại, có những cơn kinh hoảng xảy ra trong một
hoàn cảnh, hay với một ư nghĩ đặc biệt nào đó. Có người cứ lái xe trên
đường lại lên cơn kinh hoảng, đến nỗi sợ không c̣n dám lái xe đi đâu.
Thét rồi, người bệnh cố tránh ngay cả ư nghĩ ra khỏi nhà, v́ nhà đă
trở thành một tổ ấm an toàn, rời khỏi nó lỡ cơn kinh hoảng đến bất
th́nh ĺnh th́ biết làm sao.
Có những cơn kinh hoảng sai ngược hơn, thích đánh thức người ta dậy
lúc đang ngủ, để bắt làm bạn với nó một lúc. Chúng cũng dữ dội không
kém, khiến người bệnh cứ nghĩ đến việc đi ngủ đâm sợ, hoặc nặng hơn
nữa, lên cơn kinh hoảng ngay lúc vào giường, khi nghĩ đến việc ḿnh
sắp thiếp ngủ, sắp phải đương đầu với cái cảm giác khủng khiếp ḿnh đă
từng bị. Có người nặng đến độ đâm bi quan và thất chí, đi t́m một chỗ
yên tĩnh hơn bên kia thế giới, nơi không có bóng dáng của chứng bệnh
kinh hoảng.
H: Những nguyên nhân nào đưa đến chứng bệnh kinh hoàng đột ngột
này?
Đ:
Nguyên nhân đích thực nào gây ra chứng bệnh lạ lùng này, y học chưa
khám phá ra. Nhiều giả thuyết cho rằng bệnh xảy ra do sự làm việc lung
tung, lộn xộn của một số vùng đặc biệt trong óc ta, hoặc do sự hoạt
động bất thường của các chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitters)
trong óc.
H: Như vậy cách chữa trị chứng bệnh kinh hoàng đột ngột như thế
nào?
Đ:
Hiện nay chúng ta có nhiều cách trị căn bệnh.
1. Các thuốc an thần Benzodiazepines:
Các thuốc an thần thuộc nhóm benzodiazepines (như Xanax, Valium,
Klonopin, Ativan, Serax, ...) rất hữu hiệu để chữa bệnh kinh hoảng,
dùng ngắn hạn. Thuốc mau chóng làm các triệu chứng thuyên giảm, nhưng
có bất lợi là hay gây nghiện. Đang dùng thuốc loại này, nhất là với
lượng cao, bạn không nên bất ngờ bỏ thuốc, nếu không có ư kiến của bác
sĩ.
Valium, một thuốc an thần benzodiazepines vang bóng một thời, cũng đă
từng được dùng để chữa bệnh kinh hoảng. Nhưng Valium nay đă nhường
bước trước những đàn em như Xanax, Klonopin, Ativan, những thuốc hiện
đang được dùng nhiều để chữa bệnh kinh hoảng.
2. Thuốc chống sầu buồn (antidepressant):
Đây là một nhóm thuốc rất quan trọng. Đầu tiên, người ta t́m ra những
thuốc này để chống bệnh sầu buồn (depression). Dùng thuốc lâu, người
ta lại khám phá thêm những tài hoa khác của loại thuốc này. Chúng
chống được cả các t́nh trạng căng thẳng tâm thần (anxiety), nhiều t́nh
trạng đau nhức, và nay với bệnh kinh hoảng, chúng cũng trị luôn.
Chúng ít khi gây phản ứng bất lợi, không làm bạn mất sự tự chủ (lose
control), cũng không khiến bạn thay đổi tâm tính. Chúng lại không gây
ghiền như các thuốc an thần benzodiazepines, nên có thể dùng dài lâu,
có khi nhiều năm.
Hiện có nhiều thuốc thuộc loại này được dùng để chữa bệnh kinh hoảng,
xin kể ra đây vài tên thuốc: Tofranil, Elavil, Pamelor, Anafranil,
Prozac, Paxil,
Venlafaxine,
... (thuốc tây không giống “thuốc bắc”, có tên có tuổi đàng hoàng). Có
thuốc tác dụng trong ṿng vài ngày, có thuốc trong ṿng vài tuần. Bạn
nên kiên nhẫn.
3. Thuốc monoamine oxidase inhibitors:
Các thuốc thuộc nhóm monoamine oxidase inhibitors cũng rất hữu hiệu,
song v́ chúng gây nhiều tác dụng phụ, người uống phải kiêng cữ một số
thức ăn, tránh dùng một số thuốc khác, do vậy, nay chúng ít được sử
dụng để chữa căn bệnh như trước.
4. Tâm lư trị liệu (psychologic therapy):
Nhiều cách tâm lư trị liệu đă được nghiên cứu để chữa bệnh tâm thần
kinh hoảng. Các cách tâm lư trị liệu có mục đích soi sáng cho người
bệnh biết rơ vấn đề của ḿnh (cognitive therapy), giúp người bệnh từ
từ tiếp xúc với những hoàn cảnh hay gây cơn kinh hoảng, rồi giúp họ
quen dần với những hoàn cảnh này (exposure and desensitization) là ba
phương pháp tâm lư trị liệu cho nhiều kết quả, nếu được dùng phối hợp.
Chữa bằng thuốc giúp người bệnh mau khỏe, triệu chứng nhanh chóng
thuyên giảm, tâm lư trị liệu giúp duy tŕ kết quả của sự chữa trị.
Phối hợp cả hai phương pháp chữa trị, thuốc và tâm lư trị liệu, đưa
đến kết quả tốt đẹp nhất.
Trong cộng đồng người Việt chúng ta, vấn đề là không có nhiều tâm-lư
gia (psychologist) nói tiếng Việt để làm tâm lư trị liệu cho những
người bệnh tâm thần.
Sự chữa trị cần được kéo dài bao lâu? C̣n tùy căn bệnh. Mục đích của
việc chữa trị là làm thế nào để các cơn kinh hoảng không c̣n trở lại
làm phiền ta nữa. Thường các triệu chứng sẽ thuyên giảm, bệnh dần được
ổn định trong ṿng 4 tháng, và chúng ta tiếp tục uống thuốc ít nhất 1
năm. Có người cần sự chữa trị lâu dài, có khi cả đời.
Bệnh tâm thần kinh hoảng hay xảy ra, gây nhiều phiền toái, tốn kém cho
người bệnh và gia đ́nh. Tuy nhiên, sự chữa trị thường rất hữu hiệu,
giúp người bệnh trở lại đời sống b́nh thường, nhất là nếu người bệnh
và gia đ́nh cùng hiểu rơ về căn bệnh.
H: Tôi có một người bạn bị bệnh kéo dài dai dẳng được người nhà
đưa đi khám bệnh và bác sĩ chẩn đoán là bệnh rối loạn tâm thần do ám
ảnh. Chứng bệnh này nghe lạ quá. Xin giải thích cho tôi
hiểu rơ.
Đ:
Bệnh rối loạn tâm thần do ám ảnh (Obssesive-Compulsive Disorder-OCD)
là sự xuất hiện lập đi lập lại những ư nghĩ hoặc hành vi ám ảnh. Các
triệu chứng này rất khó chịu đối với người bệnh, ảnh hưởng đến sinh
hoạt thường ngày của người bệnh. Họ nhận thức được sự vô lư của các ư
nghĩ và hành vi này, cố gắng t́m mọi cách để chống lại nhưng không có
kết quả.
Người bệnh có thể chỉ có ư nghĩ hoặc hành vi ám ảnh nhưng thường th́
kết hợp cả hai.
Như vậy rối
loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD)
là một chứng rối loạn lo âu dựa trên các ư nghĩ dai dẳng và ám ảnh
và/hoặc các hành vi cưỡng chế. Dù người bệnh nhân biết được rằng những
ư nghĩ là của ḿnh, nhưng hoàn toàn bất lực trước nó. Tương đương như
vậy, hành động cưỡng chế hoặc “nghi lễ” là những hành vi dập khuôn,
được lặp đi lặp lại mà không đạt được một mục đích nào cả.
Nỗi ám ảnh thường gặp nhất là sợ nhiễm khuẩn từ đất bụi, vi trùng hoặc
dầu mỡ, dẫn đến thói quen tắm rửa cưỡng chế. Một số những ám ảnh khác
bao gồm bạo lực, ngăn nắp, bệnh tật, t́nh dục, sự cân đối và tôn giáo.
Một hành động cưỡng chế thường thấy nữa là việc kiểm tra và đo đếm,
thường được thực hiện một cách nghi lễ với số lần nhất định mà người
bệnh cho rằng “thần ḱ”. Khoảng 70% bệnh nhân OCD vừa có những ám ảnh
vừa có những hành vi cưỡng chế; số bệnh nhân chỉ có những ư nghĩ ám
ảnh chiếm khoảng 25%, c̣n trường hợp chỉ có hành vi cưỡng chế không đi
kèm suy nghĩ th́ tương đối hiếm.
Cho đến gần đây, OCD hay được coi là một căn bệnh hiếm. Tuy nhiên, một
nghiên cứu cộng đồng được hỗ trợ bởi Viện Sức khỏe Tâm lư Quốc gia của
Mỹ cho thấy rằng số người mắc chứng OCD lên đến 2% dân số. Một nghiên
cứu cộng đồng khác với 3,020 người tại Singapore tuổi từ 13 đến 65 lại
báo cáo tỷ lệ căn bệnh này chỉ ở mức 0.3% (Fones, Kua, Ng & Ko 1998).
Hơn nữa, căn bệnh này thường bắt đầu vào độ tuổi cuối vị thành niên –
đầu trưởng thành, thường diễn biến khó lường và măn tính. Số phụ nữ bị
mắc chứng bệnh này nhiều hơn nam giới một chút.
Trong số 40 bệnh nhân mẫu mắc chứng OCD được điều trị tại Bệnh viện
Đại học Quốc gia Singapore, 22 người là nam, và 80% số người có triệu
chứng cả về ám ảnh lẫn hành vi cưỡng chế. Nỗi sợ hăi bị nhiễm khuẩn là
điều thường gặp nhất (60%); những chủ đề gây ám ảnh khác bao gồm sự
cân đối và hoàn hảo (25%), bạo lực (10%), và tôn giáo (10%). Độ tuổi
thường gặp nhất là 15 đến 25 tuổi.
H: Ông bạn bên cạnh nhà tôi bị bệnh dây dưa kéo dài và đi khám bệnh
được bác sĩ chẩn đoán là bệnh rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Xin bác sĩ
cho biết cách
chữa trị
căn bệnh như thế nào.
Đ:
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD-obsessive-compulsive
disorder))
là một hội chứng có h́nh thức đa dạng và diễn biến khó lường. Nhiều mô
h́nh điều trị đă thành công ở những mức độ nhất định trong việc cải
thiện các triệu chứng OCD. Những liệu pháp này bao gồm dược lư trị
liệu (pharmacotherapy), điều trị nhận biết hành vi (CBT), liệu pháp
sốc điện (electro-convulsive therapy) và phẫu thuật tâm thần
(psychosurgery). Thông thường, sử dụng một ḿnh biện pháp trị liệu tâm
lư sẽ không có hiệu quả, nhưng sự ủng hộ về mặt tinh thần, tâm lư cho
bệnh nhân OCD và gia đ́nh là vô cùng quan trọng
1. Dược lư trị liệu (Pharmacotherapy)
Dược lư trị liệu hỗ trợ các bệnh nhân OCD bằng các loại thuốc chống
trầm cảm (Antidepressant), đặc biệt là những thuốc có tác dụng lên hệ
thống serotonin. Những thuốc này bao gồm clomipramine (75mg – 200mg),
fluoxetine (20mg – 60mg), paroxetine (20mg – 60mg) và sertraline (50mg
– 200mg). Những thuốc cân bằng tâm trạng như lithium cũng được sử dụng
để tăng hiệu quả của thuốc chống trầm cảm, đặc biệt với những bệnh
nhân đồng thời mắc chứng trầm cảm nặng. Đôi khi những thôi thúc, cưỡng
chế ḱ quặc hoặc những ư nghĩ ám ảnh ở bệnh nhân OCD rất gần với bệnh
thần kinh (Psychosis). V́ vậy, những thuốc chống thần kinh
(Antipsychosis) như haloperidol, trifluoperazine ở liều nhẹ đă được kê
đơn cùng với thuốc chống trầm cảm. Benzodiazepines thường chỉ có thể
làm giảm bớt hành vi lo âu của bệnh nhân OCD. Hiện tại chỉ có
clonazepam là thuốc chứa benzodiazephine duy nhất, được cho thấy có
tác dụng chống những ám ảnh.
2. Liệu pháp nhận thức hành vi (Cognitive Behavioural Therapy CBT)
Liệu pháp “tự phơi nhiễm” (Exposure therapy) là phương pháp điều trị
hành vi chính thường được sử dụng. Phương pháp này cho bệnh nhân OCD
tiếp xúc với các vật thể kích thích sự lo âu, ám ảnh,
ví dụ:
chạm vào các vật có thể lây nhiễm bệnh như nắm đấm cửa, sàn nhà…vv.
Bước sau đó là ngăn chặn hành vi,
ví dụ:
bệnh nhân tự kiềm chế không rửa bàn tay vừa bị “nhiễm bẩn” của ḿnh.
Liệu pháp tự phơi nhiễm thường được thực hiện theo mức độ, cấp bậc
t́nh huống gây sợ hăi.
Liệu pháp Làm mẫu (modelling) yêu cầu bác sĩ trị liệu làm mẫu cách xử
lư một t́nh huống gây sợ hăi mà không thực hiện những hành vi, “nghi
lễ” cưỡng chế. Cuối cùng, chuỗi ư nghĩ ám ảnh sẽ bị gián đoạn, từ đó
bị ngắt hoàn toàn bằng cách dừng lại những suy nghĩ đó.
Trong các biện pháp trị liệu nhận thức, bệnh nhân được dạy cách đối
mặt với thực tế của những điều khiến ḿnh sợ hăi, chỉ ra rằng bệnh
nhận đă đánh giá quá cao mức độ nguy hiểm của nó. Hướng suy nghĩ
trắng-đen và phóng đại hóa cũng là những yếu tố làm sai lệch nhận
thức.
3. Liệu pháp sốc điện (electro-convulsive therapy ECT) và Phẫu thuật
tâm lư (Psychosurgery)
Liệu pháp sốc điện (ECT) thường được cho là không hiệu quả đối với
bệnh nhân OCD không bị trầm cảm hoặc có ư định tự tử, và phẫu thuật
tâm lư (psychosurgery) chỉ nên được áp dụng khi tất cả những biện pháp
trị liệu hành vi và dược lư đều thất bại trong việc giảm bớt triệu
chứng OCD.
Cho đến thời gian gần đây, Rối loạn ám ảnh cưỡng chế luôn được coi là
một trong những hội chứng khó đoán nhất trong các bệnh về rối loạn tâm
lư. Bệnh này thường có một quá tŕnh măn tính và chiều hướng xấu đi,
với các triệu chứng tăng giảm thất thường. Tuy nhiên, sự tiến bộ gần
đây trong dược lư trị liệu, cũng như các phương pháp điều trị hành vi
đă giúp giảm bớt triệu chứng OCD một cách đáng kể với 70% bệnh nhân.
Mặc dù số đông bệnh nhân phản ứng tốt với phương pháp điều trị, thường
vẫn có một số triệu chứng c̣n sót lại.
H: Tôi có nghe đến bệnh sợ hăi vô lư. Xin nói rơ căn bệnh cho tôi
biết. Xin cám ơn.
Đ:
Bệnh sợ hăi vô lư (phobic disorder) là sợ một cách vô lư đưa đến sự
tránh né có ư thức những đồ vật hoặc t́nh huống thường không có tính
chất nguy hiểm đối với hầu hết mọi người. Sự sợ này thường gây đau khổ
cho người bệnh mặc dù họ vẫn nhận thức được rằng điều đó là không có
cơ sở và vô lư.
Đón Đọc BỆNH TÂM THẦN -
PHẦN 3