Người Việt Nam ta có
câu: "Cái răng, cái tóc là gốc con người". Có lẽ đó là chi tiết
dễ nhận diện nhất đối với mỗi dân tộc, trước khi nhìn vào cách ăn mặc.
Chỉ riêng qua trang phục hoặc qua các kiểu tóc từng thời kỳ ta cũng có
thể thấy tác động của những biến động xã hội Việt Nam đối với trang
phục như thế nào.
Góc tức là một phần
của vẻ đẹp. So với toàn bộ con người thì răng và tóc chỉ là những chi
tiết rất nhỏ. Nhưng chính những chi tiết nhỏ nhất ấy lại làm nên vẻ
đẹp con người. Ý nghĩa của câu tục ngữ này là khuyên mọi người hãy
giữ gìn hình thức bên ngoài cho gọn gàng sạch sẽ vì hình thức bên
ngoài thể hiện phần nào tính cách bên trong. Qua câu tục ngữ trên, ta
thấy cách nhìn nhận, đánh giá và quan niệm về cái đẹp của nhân dân lao
động thật tinh tế. Trong cao dao, dân ca có rất nhiều câu ca ngọi hàm
răng, mái tóc của người phụ nữ:
Tóc em dài, em cài
hoa lý,
Miệng em cười hữu ý,
anh thương!
Hay:
Mình về có nhớ ta
chăng?
Ta về, ta nhớ hàm
răng mình cười!
Hình ảnh người phụ nữ
Việt Nam xưa luôn gắn liền với mái tóc vấn gọn gàng và đường ngôi rẽ ở
chính giữa. Qua nhiều thăng trầm của lịch sử, ảnh hưởng của phong cách
Âu hóa, mái tóc cũng dần được thay đổi tạo cho phái đẹp kiểu dáng
phong phú và hiện đại hơn.
Người Việt từ xa xưa
rất coi trọng hàm răng và mái tóc. Đó là cái nhìn đầu tiên để đánh giá
một người đẹp. Câu thành ngữ trên đã nói lên điều đó.
Thuở xưa, khi còn bé,
con gái để tóc trái đào, nhưng đến tuổi trưởng thành thì không bao giờ
cắt tóc nữa mà cứ để cho dài mãi. Có được một mái tóc dài và bóng mượt
là niềm kiêu hãnh của người con gái. Xưa kia muốn giữ được một mái tóc
đẹp thì phải năng gội bằng nước bồ kết cho sạch, gội xong phải xả lại
bằng nước chanh cho mềm tóc. Muốn tóc thơm thì cho lá hương nhu hay lá
sả, hạt mùi, đun cùng nước gội đầu. Đứng cạnh người đàn bà mới gội, ta
ngửi thấy mùi hương thoảng thoảng của đồng nội, của cỏ cây lá ngàn, và
có biết bao chàng trai chỉ vì những mùi hương ấy mà phải một thời say
đắm không dứt ra được. Ở miền Nam trồng nhiều dừa, người ta còn bôi
nhẹ một lượt dầu dừa lên mái tóc để lấy mùi thơm và làm bóng tóc. Ngày
nay, những mùi hương đó có chăng chỉ còn lại trong hoài niệm của những
người lớn tuổi.
Đến nay ta chỉ có
những tấm ảnh chụp phụ nữ Việt Nam cuối thế kỷ 19, còn trước đó thì
chỉ có những mô tả mơ hồ của các nhà du hành. Đầu thế kỷ 17, linh mục
người Ý Chistophorro Borri (1583-1632) đã đến Bình Định, lúc đó thuộc
lãnh thổ Đàng Trong dưới sự cai trị của các chúa Nguyễn. Viết về cách
để tóc của phụ nữ Việt, ông nói: “Họ để tóc xõa và bồng bềnh trên hai
vai, tóc dài đến mức chấm đất, và tóc càng dài, người ta càng cho là
đẹp. Trên đầu họ đội một thứ mũ rộng vành, rộng đến mức che lấp cả
mặt, khiến cho mắt nhìn chỉ thấy được có ba bốn bước phía trước, và
cái mũ đó được tết bằng lụa hay vàng tùy theo thứ bậc của người đội.
Sau đấy, các phu nhân để chào hỏi một cách lễ độ, phải ngả mũ ra để
người ta có thể nhìn thấy trước mặt.” Đoạn văn trên chỉ cho ta những
thông tin mơ hồ về cách để tóc của người Việt ở miền Trung. Riêng cái
mũ rộng vành thì có lẽ tác giả lầm cái nón chóp nhọn mà phụ nữ phía
nam quen đội.
Hơn ba thế kỷ sau,
bác sĩ quân y Charles-Édouard Hocquard theo quân viễn chinh Pháp đến
Bắc Kỳ từ tháng 2-1884 đã ghi lại những trang về người phụ nữ mà ông
đã gặp trong những ngày đầu đến Hà Nội: “Điều khiến tôi ngạc nhiên khi
đến xứ sở kỳ lạ này, là khó khăn trong thời gian đầu để phân biệt đàn
ông và đàn bà từ cái nhìn đầu tiên. Cả hai đều để tóc như nhau. Quần
áo cũng gần như nhau. Đàn bà cũng quấn khăn như đàn ông […]” Tuy quan
sát nhầm lẫn như vậy, nhưng Hocquard đã để lại cho chúng ta nhiều ảnh
để có thể thấy cách để tóc của những đàn bà miền Bắc hồi đó.
Người phụ nữ đất Bắc
thường buộc tóc về phía bên thành cuộn dài, bọc bên ngoài bằng một cái
khăn hẹp mà dài rồi quấn quanh đầu từ phía trước ra phía sau. Đầu mối
còn thừa thì giắt vào dưới vành khăn, để xõa sang bên một túm tóc nhỏ
gọi là đuôi gà. Vì vậy mà câu
“Một thương tóc bỏ đuôi gà…”
không phải xa lạ với
các chàng trai xứ Bắc. Khi đi ra ngoài, để giữ cho tóc khỏi sổ người
ta thường trùm một cái khăn vuông, vừa là để che nắng vừa chống rét.
Người bình dân thường trùm khăn đen, phía trước trán gập nhọn giống
như mỏ con chim nên được gọi là “khăn mỏ quạ”. Ta thử nghe Nguyễn
Bính đã trách người yêu của mình đã quên bản chất chân quê mà học đòi
theo lối tỉnh thành:
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê dầu làng
Khăn nhung quần lĩnh
rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!
Nguyễn Bính muốn
người yêu của mình luôn giữ phong cách người dân quê mộc mạc bình dị:
Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang Xuân
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Trong khi đó ở miền
Nam có lẽ do ảnh hưởng của người Hoa nhập cư ồ ạt từ các thế kỷ 17-18,
nên phụ nữ lại bới tóc cao sau gáy rồi cài một cái trâm giữ cho tóc
khỏi sổ. Khi ra ngoài thì quấn quanh đầu một cái khăn rộng dệt ô đen
trắng giống như khăn của phụ nữ Khmer hay Mã Lai. Người ta gọi đó là
chiếc khăn rằn với nhiều công dụng như che nắng, lau mặt hay quàng lên
người... Vào buổi đầu, đàn bà Việt ở thành thị còn thua kém các thím
Khách, cho nên cách bới tóc của người Hoa được coi là mẫu mực, đã được
cụ Vương Hồng Sển mô tả như sau: “Các ỷ, các ý trong Chợ Lớn thì đầu
bới tóc thả bánh lái “ba vòng một ngọn”, ăn trầu tích toát, để móng
tay dài và mỗi lần xỉa thuốc thường vảnh ngón tay cho người ngoài thấy
mình có cà rá hột xoàn bự, hay bộ nhẫn vàng quấn kiểu “cửu khúc liên
hoàn”. Trên vai mấy ỷ thường giắt một cái khăn vằn Nam Vang dùng để
lau trầu, khác với mấy cô vợ Tây thì quấn chuỗi hột vàng gần gãy cổ,
tay đeo kiềng vàng chạm kiểu “nhứt thi nhứt họa”, thêm mặc áo mớ ba mớ
bảy, tóc xức dầu thơm chánh hiệu “Cô Ba”.
Dù để tóc bới, nhưng
người phụ nữ Huế không quên quấn một chiếc khăn gợi nhớ lại mái tóc
quấn của người xứ Bắc. Nhưng với phụ nữ quí tộc thì khi vào chốn cung
đình hay trong các dịp lễ Tết, bắt buộc phải quấn khăn vành dây, thân
phận càng cao quí thì cái khăn càng phải to và rộng. Chiếc khăn vành
tồn tại mãi cho đến ngày nay đối với phụ nữ khắp ba miền trong các
nghi thức đặc biệt và nhất là trong đám cưới.
Sang đầu thế kỷ 20,
khi cuộc sống đô thị phát triển, người phụ nữ bắt đầu tham gia công
việc xã hội, dần dần có mặt ở trường học, bệnh viện và nhiều nơi công
cộng khác, khiến họ phải tìm một kiểu tóc hợp lý hơn, thuận tiện trong
công việc. Ngoài Bắc kiểu quấn tóc bằng khăn vải, dù là khăn nhung.
Quả thế, một trong
những yếu tố đầu tiên thuộc hình thức con người gây sự chú ý cao trong
tiếp xúc, giao tiếp không thể không kể đến mái tóc. Mái tóc thể hiện
phong thái, tính cách, độ tuổi, giới tính, thậm chí cả văn hóa của mỗi
cá nhân.
Sự coi trọng của
người Việt đối với mái tóc còn thể hiện qua một loạt những tổ hợp từ
cố định để diễn tả về những mái tóc khác nhau trong đời sống hàng ngày
như: tóc xanh, tóc bạc, tóc sâu, tóc thề, tóc rễ tre, tóc tém, tóc
đuôi gà, tóc điểm sương, tóc muối tiêu, tóc hoa râm, tóc mây ...Và khi
đi vào nghệ thuật, mái tóc còn hiện lên với nhiều cung bậc nỗi niềm
hơn nữa khi được người nghệ sĩ thổi vào đó tư duy hình tượng. Bài viết
này, vì thế, xin được bàn về mái tóc trong thế giới thi ca.
Việc ca ngợi mái tóc,
ban đầu hẳn gắn với người phụ nữ bởi Tạo hóa đã riêng tặng cho những
bông hoa biết nói ấy mái tóc dài tha thướt mà người Việt vẫn quen gọi
là tóc mây:
Bàn tay năm ngón em
vẫn kiêu sa,
Vẫn tóc mây bay mắt
môi nồng thắm.
(Giáng Ngọc – Ngô
Thụy Miên);
Trời mùa đông môi em
thắp nắng,
Tóc mây dài chân vui
đường vắng.
Rồi mùa xuân cây thay
áo mới,
Tóc mây vàng cho nắng
thêm tươi,
Rồi mùa thu xôn xao
lá úa
Tóc mây buồn phủ kín
tim tôi.
(Tóc mây – Phạm Thế
Mỹ)
Mái tóc dài của người
phụ nữ còn là cái cớ để người nam bày tỏ tình cảm của mình như trong
câu ca dao thuở xưa:
Tóc em dài sao em
không búi,
Để chi dài bối rối dạ
anh...
Mái tóc dài một thời
còn được xem là “tiêu chuẩn cứng” để các chàng trai chọn người yêu,
chọn bạn đời:
Một thương tóc xõa
ngang vai,
Hai thương đi đứng vẻ
ngoài có duyên.
Khi nhan sắc của
người phụ nữ tàn phai hoặc khi muốn diễn tả tâm trạng u buồn, một
trong những điểm nhìn đươc tập trung miêu tả cũng chính là mái tóc:
Xương mai một nắm hao
gầy,
Tóc mây một mái đã
đầy tuyết sương
(Thề non nước – Tản
Đà)
Mắt quầng
tóc rối tơ vương,
Em còn cho chị lược
gương làm gì.
(Lỡ bước sang ngang –
Nguyễn Bính).
Mái tóc dài của người
phụ nữ còn tiếp tục đi vào nhiều câu thơ hay khác của thời kỳ hiện
đại. Vẻ đẹp của mái tóc dường như che lấp và bao phủ hết cả không gian
và thời gian trong câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Hồng Thanh Quang:
Người đàn bà dấu đêm
vào trong tóc,
Còn điều chi em mải
miết đi tìm.
(Khúc mùa
thu).
Trong con mắt của một
nhà thơ thuộc thế hệ 8X, mái tóc dài lại hiện lên với những nét khác
biệt. Một chút hoang hoải si mê của thời trai trẻ, một chút cường điệu
pha lẫn nét cổ kính đầy bâng khuâng:
Em heo hút tóc dài mê
mệt gió,
Một lần đi vướng víu
cả kinh thành.
(Tám mắt – Trần
Trọng Dương).
Vẻ đẹp của mái tóc
còn có những lần được quy chiếu để miêu tả cả thiên nhiên, trung tâm
chuẩn mực của cái đẹp lúc này đã chuyển từ thiên nhiên sang con người:
Rặng liễu đìu hiu
đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống
lệ ngàn hang.
(Đây mùa thu tới –
Xuân Diệu).
Nếu như mái tóc của
người nữ xuất hiện trong thi ca thường gắn với tuổi trẻ thì mái tóc
của người nam khi xuất hiện trong thơ lại thường gắn với tuổi già, gắn
với những hoài niệm về bao năm tháng đã qua. Nguyễn Trãi ở thể kỷ XV
đã từng thốt lên:
Tiếc thiếu niên qua
lượt hẹn lành,
Hoa hoa nguyệt nguyệt
luống vô tình.
(Biên xanh nỡ phụ
cười đầu bạc,
Đầu bạc xưa này có
tuổi xanh).
Thậm chí trước Nguyễn
Trãi, mái tóc của tuổi già đã từng xuất hiện trong bài Cáo tật thị
chúng của Mãn Giác thiền sư đời Lý (thế kỷ XI):
Sự trục nhãn tiền
quá,
Lão tòng đầu thượng
lai.
(Việc trôi
qua trước mắt,
Trên đầu già đến
rồi).
Mái tóc đã trở thành
thước đo sự tàn phai của tuổi xuân, của đời người, của tháng năm dâu
bể. Nhà thơ đời Đường Hạ Tri Chương trong bài Hồi Hương Ngẫu Thư cũng
nhìn mái tóc mà không tránh khỏi nỗi ngậm ngùi:
Thiếu tiểu ly gia lão
đại hồi.
Thanh âm vô cải mấn
mao tồi.
(Khi đi trẻ
lúc về già
Giọng quê vẫn thế tóc
đà khác bao).
Thi thánh Đỗ Phủ
trong những tháng ngày khó khăn đau ốm cũng tự nhìn về mái tóc mà thấy
bi thương:
Gian nan khổ hận phồn
sương mấn.
Lạo đảo tân đình trọc
tửu bôi.
(Gian nan khổ hận đầu
thêm bạc
Quặt quẹo đành kiêng
chén giải buồn).
(Đăng Cao)
Nhưng có lẽ mái tóc
bạc với niềm xót xa ám ảnh tôi nhiều nhất là trong hai câu thơ của
Phan Khôi, thật ngắn mà thật sâu đọng:
Mối sầu như
tóc bạc.
Cứ cắt lại dài ra.
(Cắt tóc, 1952).
Trong một số trường
hợp, mái tóc bạc của người nam hiện lên với một sự hướng tới đầy thành
kính và biết ơn, ở đó có cả chút se lòng của những đôi mắt đang hướng
về mái tóc. Ấy là trường hợp những người học sinh nhìn về mái tóc
thầy:
Mùa hoa mưa rồi đến
mùa phượng cháy,
Trên trán thầy xin
tóc chớ bạc thêm.
(Chiếc lá
đầu tiên – Hoàng Nhuận Cầm),
Trong văn học thế
giới, mái tóc còn gắn với chuyện thu phục lòng người. Những người yêu
thích bộ tiểu thuyết lịch sử Tam quốc diễn nghĩa chắc hẳn chưa quên
câu chuyện Tào Tháo cắt tóc thay đầu. Tào Tháo vốn trước đó truyền
lệnh rằng: Ngựa ai dẫm vào lúa của dân thì phải chém. Không ngờ sau đó
chính ngựa của Tào thừa tướng xéo nát một vạt lúa. Tào Tháo muốn tự
vẫn, các quan tướng ra sức ngăn lại. Tháo mới bảo rằng: Tội chết tạm
tha mà tội sống khó thể dung. Vậy ta xin cắt tóc mà thay đầu. Nói rồi
khua kiếm chém đứt một lọn tóc. Quân sĩ từ trên xuống dưới thấy lệnh
nghiêm minh thảy đều tâm phục.
Trong Kinh Thánh, mái
tóc còn là biểu tượng cho sức mạnh lớn lao của con người được Chúa
Trời tiếp sức. Dũng sĩ Samson có được sức mạnh vô địch thắng nổi muôn
người chính là nhờ mái tóc dài. Đến lúc mái tóc bị cắt đi vì sa lưới
mỹ nhân kế của nàng Delilah thì sức mạnh cũng hết, Samson bị chọc mù
mắt và giam xuống ngục tối. Trước giờ bị hành hình, Samson cầu xin
Chúa lần cuối: Cho con được chết chung với kẻ thù rồi dùng hết sức lực
để lật đổ ngôi đền đá của người Philistine. Câu chuyện về chàng Samson
và nàng Delilah đã được chuyển thể thành phim năm 1949 dưới bàn tay
của đạo diễn tài ba Cecil B. DeMile và trở thành một trong những tác
phẩm điện ảnh kinh điển mọi thời đại.
&
Trong thơ văn, đã có
nhiều tác giả nói nhiều về mái tóc như ta đã thấy xuyên qua nhiều giai
đoạn của thời gian. Như vậy trong âm nhạc thì mái tóc được trình bày
như thế nào.
Trong nhạc Việt, mái
tóc đã trở thành hình tượng trung tâm cho biết bao ca khúc để đời của
những nhạc sĩ tài danh.
Việc ca ngợi mái tóc,
ban đầu hẳn gắn với người phụ nữ bởi tạo hoá đã riêng tặng cho những
bông hoa biết nói ấy mái tóc dài tha thướt mà người Việt vẫn quen gọi
là tóc mây:
Bàn tay năm ngón em vẫn kiêu sa
Vẫn tóc mây bay mắt môi nồng thắm.
(Giáng Ngọc - Ngô Thuỵ Miên)
Cũng với Tóc Mây,
nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã viết nên những dòng nhạc qua các mùa Đông,
Xuân, Thu như thế nào:
Trời mùa đông môi em
thắp nắng,
Tóc mây dài chân vui
đường vắng.
Rồi mùa xuân cây thay
áo mới,
Tóc mây vàng cho nắng
thêm tươi,
Rồi mùa thu xôn xao
lá úa
Tóc mây buồn phủ kín
tim tôi.
(Tóc Mây – Phạm Thế
Mỹ)
Cũng là mái tóc nhưng
người nhạc sĩ Thẩm Oánh đã thầm yêu mái tóc và đã sáng tác nên Suối
Huyền để tặng người ông yêu:
Suối huyền, lả buông làn tóc
Thướt tha, óng chuốt uốn lưng ong. . .
Với một tình cảm lãng
mạn, nhạc sĩ Văn Phụng cũng như Thẩm Oánh đều cùng thấy mái tóc óng
mượt chảy xuôi như dòng suối. Yêu mái tóc rồi yêu cả con người, nhạc
sĩ đã viết bài Suối Tóc để tặng cho người yêu. Mái tóc buông dài đến
tận lưng, màu nâu nhạt óng ả:
Tìm cho thấy liễu xanh xanh lả lơi
Hay đi tìm dòng suối tóc trên vai. . . .
Đã một thời, câu ca
dao đã được tạo nên tựa đề của bài hát Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài của
nhạc sĩ Phạm Duy đã truyền đạt hàng đêm trong những phòng trà tại thủ
đô miền Nam Việt Nam:
Thuở ấy em vừa thôi
kẹp tóc
Thuở ấy anh vừa thôi học xong
Yêu anh yêu anh em làm thơ
Yêu em yêu em anh soạn nhạc. . .
Nét nhạc bay bướm và
mềm mại của một nhạc sĩ khác trong Mái Tóc Dạ Hương, phổ thơ Đinh
Hùng. Tiếng nhạc trong sáng và ca khúc dễ hát dễ nghe. Nhạc sĩ
Nguyễn Hiền đã say mê suối tóc và đã viết lên nỗi lòng mình:
Từ giã hoàng hôn trong mắt em
Tôi đi tìm những phố không đèn
Gió mùa Thu sớm bao dư vị
Còn chút ân tình vương tóc quen. . .
Mái tóc mơ màng đã
cuốn hút nhạc sĩ phải say đắm vào đôi mắt xanh để rồi mộng mơ trước số
phận khuê các với bao thương nhớ:
Dĩ vãng nào xanh hơn
mắt em
Chao ôi! màu suối tóc
buông mềm
Nét buồn khuê các hoen sương phủ
Nhạt ánh sao mờ bên dáng xiêm. . . .
Mái tóc thề đã vương
vấn đâu đây đã gợi nên tình ý và người nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương đã sáng
tác nên những dòng nhạc trongTóc Em Chưa Úa Nắng Hè với điệu nhạc thật
êm đềm thánh thoát:
Em buông lơi tóc thề
Tình mình theo cơn lốc về
Em như mưa nắng hạ
Hôn bờ biển xanh sỏi đá. . .
Cũng vì mái tóc rất
đặc biệt của người yêu có nét đẹp Liêu Trai mà nhạc sĩ Hoài Linh say
mê đắm đuối nên đã sáng tác Về Đâu Mái Tóc Người Thương:
Hồn lỡ sa vào đôi mắt
em
Chiều nao xoả tóc ngồi bên rèm. . . .
Yêu mái tóc, nhớ mái
tóc rồi cảm thấy chơi vơi giữa phố xá thị thành, chàng tìm đến khuê
phòng cũng chẳng thấy người yêu. Cuối cùng nỗi nhớ nhung tột cùng
đành phải gọi tên người yêu để rồi được đáp trả qua hình ảnh lá rơi
bên thềm. Thật là vô vọng não nề: