|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Bài 21:
TRỆ KHÁCH
滯客 Trệ khách yêm lưu Nam Hải
trung,
滯客淹留南海中
Dịch thơ:
NGƯỜI KHÁCH Ở LÂU Biển nam khách măi ở lâu, Đêm lành vắng vẻ ai nào cùng chung. Hồng về ai oán ḍng Ngân, Trống đồn đêm hạ gió vần lạnh sao. Cùng đường mộng đẹp có đâu! Trời xoay biển khổ giục vào dấu chân. Da xương giữa đám phong trần, Gối đầu đất khách rối bồng tóc mai.
Dịch nghĩa: Người khách ở lâu vẫn c̣n ngâm giữa vùng biển
phía nam. Đêm trong lành vắng vẻ biết cùng ai chia sẻ? Con chim
Hồng bay trở về, kêu ai oán rúng động ḍng sông Ngân. Tiếng
trống nơi đồn canh lính thú dần dần đưa lạnh lẽo vào ngọn gió
đêm mùa hè. Con người đến bước đường cùng chẳng có được giấc
mộng tốt đẹp. Ông trời đem biển khổ giục theo dấu chân trôi nổi.
Trong đám người phong trần gió bụi, ta chỉ c̣n giữ được da bọc
xương. Nằm gối đầu nơi đất khách, gió thổi vù vù làm rối bồng
hai mái tóc mai.
Bài 22:
ĐẠI NHÂN HƯ BÚT
代人戲筆
Thác lạc nhân gia Nhị Thuỷ tân,
錯落人家珥水新
Dịch thơ:
VIẾT ĐÙA THAY NGƯỜI Lô nhô băi Nhị nhà dân, Một thành riêng chiếm an nhàn cảnh xuân. Ngất trời cầu, gác tây đông, Chia riêng áo mũ, đất phân Hán, Hồ. Dàm vàng ngựa gặm cỏ thu, Ngày xuân lầu ngọc rượu bồ đào say. Phồn hoa hưởng cảnh tháng ngày, Bao lần chẳng kể bụi bày biển nam.
Lô nhô bên bờ sông Nhị là nhà cửa dân chúng đang sống an nhàn chiếm riêng cảnh mùa xuân của một thành. Phía đông và tây, cầu và lầu gác cao vút tận trời! Áo mũ đặc biệt và vùng đất đă phân chia rơ người Hán và người Hồ. Vào thu, ngựa có dàm vàng kiêu hănh ăn cỏ. Những ngày xuân trong lầu ngọc, người ta uống rượu bồ đào say mèm, chẳng kể chi biển Nam bao phen dấy bụi.
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|