|
Ảnh Hưởng Đạo PHẬT
Trong
ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH
Dương
Anh
Sơn
|
PHẦN
BA
NHỮNG NHẬN ĐỊNH
VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO PHẬT QUA
NGUYỄN DU VÀ TRONG
ĐOẠN TRƯỜNG TÂN
THANH
Trong những phần trên, ta đă lần lượt khảo sát về tiểu sử
Nguyễn Du, về ảnh hưởng đạo Phật trong các tác phẩm của
tiên sinh, về nguồn gốc của Truyện Kiều, về vị trí tư
tưởng đạo Phật trong Đoạn Trường Tân Thanh đối chiếu với
tư tưởng Nho gia và Đạo gia. Qua những điều nhận xét như
thế, ta thấy đạo Phật ít nhiều đă đóng góp và chiếm một
vai tṛ đặc biệt trong việc xây dựng và h́nh thành tư
tưởng Nguyễn Du. Vậy tư tưởng Nguyễn Du là ǵ, liên hệ thế
nào đối với Đạo Phật và có những ảnh hưởng nào trong Đoạn
Trường Tân Thanh? Những vấn đề đó sẽ được nhận định lại
một lần nữa hầu có một cái nh́n chung ở những phần sau.
CHƯƠNG I
VỀ TƯ TƯỞNG NGUYỄN DU
Trước hết, như lời nhiều người đă nhận định, các tác
phẩm của Nguyễn Du và nhất là Đoạn Trường Tân Thanh cho
thấy tiên sinh đă tổng hợp cùng lúc ba nguồn tư tưởng
Nho, Lăo, Phật. Tinh thần “tam giáo đồng qui” hơn bất cứ
một tác phẩm văn chương nào của nước ta từ trước đến nay
đă thể hiện trọn vẹn trong những bài thơ chữ Hán và
trong các tác phẩm chữ Nôm của Tố Như tử.
Phong thái của một Nguyễn Du trong các bài thơ Hán văn
đă dàn trải những t́nh cảm, những quan niệm của một nghệ
sĩ trước cuộc đời, trước vũ trụ ngoại giới đối diện với
chính ḿnh (Độ Long Vĩ Giang, Đề Nhị Thanh Động, Đạo ư,
Dạ Hành, Mạn Hứng ...). Có thể nói, mỗi bài thơ là một
lần để tiên sinh nh́n lại cuộc đời ḿnh, mỗi bóng trăng
nằm trong những ư từ là một cuộc thử nghiệm với chân lư
tầm cầu sự thật. H́nh ảnh của Tố Như dàn trải trong các
trang thơ là h́nh ảnh của một người khách lên đường t́m
về cố hương, t́m lại bóng dáng thật sự của ḿnh bằng tất
cả nỗi đau thương, những khổ năo, sầu bệnh (Điếu Long
Thành Ca Giả, My Trung Mạn Hứng, Ngọa Bệnh, Độc Tiểu
Thanh Kư, Long Thành Cầm Giả Ca, Tự Thán ...) mà ông đă
sống, đă chứng kiến. Tâm thức của một con người biến
chuyển và ghi khắc trong mỗi chặng hành tŕnh (Thanh
Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc Hành Thi Tập) là
tâm thức của một kẻ thường xuyên băn khoăn về những đổi
thay, vô thường nơi ḍng đời quanh quất và cố
gắng định hướng, an trụ ḷng ḿnh trước bao cảnh
tang thương biến đổi đó.
Cho nên, tư tưởng của tiên sinh mang một tính
chất đặc biệt, nó không thuần túy trong tư thế
của Nho gia, không mang khuôn thước của nhà Phật, nhưng
cũng không hoàn toàn mang phong vị của Đạo gia. Thao
thức một đời của Tố Như là thao thức với nhiều khát khao
một con đường có thể dung ḥa được giữa lựa chọn xuất
thế và lựa chọn nhập thế, giữ sự dấn thân vào cuộc phong
trần và việc gác bỏ sự đời để được “nằm nghe tiếng tùng
reo nửa chừng mây” (Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân
- Tự Thán II).
Làm thế nào để dung ḥa được những lựa chọn ấy? Làm thế
nào để vẫn sống giữa ḍng đời nhưng vẫn giữ vẹn được tấm
ḷng của ḿnh hoặc thả hồn trí theo đám mây chiều, ánh
trăng khuya? (La Phù Giang Thủy, Các Độc Tọa, Thôn Dạ,
Quỳnh Hải Nguyên Tiêu, Hoàng Hạc Lâu, Mạn Hứng ...), đó
là những khắc khoải, xao xuyến vây bọc lấy tiên sinh bao
lần và đă là đầu mối của nguồn tư tưởng mà ta có thể
mệnh danh là “Tư tưởng Nguyễn Du” .
Mục 2
TÀI TRI VÔ TỰ THỊ CHÂN KINH
Thế rồi, việc ǵ phải đến sẽ
đến, tư tưởng của tiên sinh giờ đây đă quay đầu lại nh́n
vào thực tế và mong t́m nơi chính thực tế một sự giải
thoát chắc chắn hơn là mộng tưởng như cái vẻ tiêu dao
nửa vời của kẻ đă trót để “Thân thế trăm năm vào chốn
gió bụi. Hết ăn nhờ ở bờ sông lại đến bờ biển, đă lâu
lúc cao hứng không c̣n nghĩ đến mộng gác vàng, thế mà hư
danh vẫn chưa buông tha người đầu bạc”
.
(Bách niên thân thế ủy phong trần; lữ thực giang tân hựu
hải tân; cao hứng cửa vô hoàng các mộng; hư danh vị
phóng bạch đầu nhân - Mạn Hứng I). Từ đấy, tiên sinh đă
nhận thức rơ cái lư của vô thường, biến đổi nơi ḍng đời
phù hợp với quan niệm nhà Phật:
“Táp tải phù sinh hoạn hữu
thân” (Mạn Hứng, I)
卅 戴 浮 生
患 有 身
(漫興
一)
(cuộc sống nổi trôi ba mươi năm có
thân nên lo sợ)
hoặc:
“Lục xích phù sinh thiên
địa trung” (Mạn Hứng, II)
六
尺 浮 生 天 地 中
(漫興
二)
(Tấm thân sáu thước sống nổi trôi
giữa trời đất)
hoặc:
“Phù sinh lao lục kỷ thời hưu”
(Đồng Lung Giang)
浮
生 勞 碌 幾 時 休
(同籠江)
(cảnh khổ nhọc của
cuộc sống nổi trôi không biết bao giờ chấm dứt)
Rơ ràng nhất
là nơi hai bài thơ viết về thành Thăng Long (Thăng Long I và
II) sau bao năm xa vắng trở về, tiên sinh thấy bao nhiêu biến
đổi, ch́m nổi nên ḷng “Nghĩ ngợi thâu đêm khổ tâm không ngủ
được” (Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy - Thăng Long I). Song rồi
nhận ra được cái lư vô thường của cuộc đời vẫn chưa phải là
viên thuốc để điều ḥa những khát khao giữa thú an nhàn và sự
ràng buộc của hư danh, giữa sách vở và cuộc đời. V́ thế, tiên
sinh đă t́m đến với đạo Phật, nhưng đạo Phật với những kinh
điển, với những ngôn từ vẫn chưa thể giải đáp bao mối trầm tư
của tiên sinh. Nhưng cũng chính kinh điển đạo Phật đối
chiếu với cuộc đời đă trợ duyên cho tiên sinh có cơ hội
chứng đắc được chân lư của đời sống. Một cách tổng
quát, ta có thể phân chia tiến tŕnh tư tưởng đạo Phật
của tiên sinh làm ba thời kỳ:
1. Trước hết, trong
thời kỳ thứ nhất, của những tháng năm ở núi Hồng Lĩnh, tiên
sinh đă nhiều lần suy nghĩ mà có những cảm nhận về thiền:
U cư sầu cực hết tri
hoan
Đạt nhân tâm kính
quang như nguyệt
(Tạp Ngâm, 2)
幽 居 愁 極 忽 知 歡
達 人 心 境 光 如 月
“... Quá buồn ở ẩn chốc đà hân
hoan
“Đạt nhân ḷng sáng như trăng
...”
(Tạp Ngâm, 2)
Ở nơi vắng vẻ, buồn đến cùng
bỗng thấy vui, kẻ đạt nhân gương ḷng sáng như trăng”. Thuật
ngữ “tâm kính” là danh từ được dùng rất thường trong Thiền
tông Trung Hoa, khởi đầu bằng bài kệ của Thần Tú:
Thân thị bồ đề thọ,
身 是 菩 提 樹
Tâm như minh kính đài.
心 如 明 鏡 臺
Thời thời thường phất thức,
時 時 常 拂 拭
Mạc khiển hữu trần ai
莫 遣 有 塵 埃
(神秀)
và bài của
Huệ Năng:
Bồ đề bổn vô thọ,
菩 提
本
無 樹
Minh kính diệc phi đài.
明 鏡 亦 非 臺
Bổn lai vô nhất vật
本 來 無 一 物
Hà xứ phất trần ai.
何 處 拂 塵 埃
(惠能)
Hai câu thơ của Nguyễn Du ở
thời kỳ này có vẻ chịu ảnh hưởng của lối thiền Thần Tú nhiều
hơn. Thần Tú là một thiền sư nổi tiếng với chủ trương tu tiệm,
nghĩa là có tu th́ có chứng do sự huân tập dần dần cái tâm của
ḿnh. Quan niệm của Thần Tú c̣n trong chiều hướng của Tịnh Đô
tông, lấy việc học hiểu dần dần kinh điển và niệm Phật để đạt
đến giải thoát. Chỗ khác của Thần Tú là tuy chủ trương tu tiệm
nhưng vẫn lấy cái tâm làm chủ, “tu tâm tức là thấy được tánh”.
Và Tố Như tiên sinh đồng quan điểm với Thần Tú ở thời kỳ này
trên con đường t́m kiếm cái tâm của ḿnh. Cái tâm của Thần Tú
hoặc Nguyễn Du ở đây vẫn trong ṿng chấp vào h́nh tướng, nghĩa
là vẫn chấp vào có một cái tâm để được “Sáng như trăng” hoặc
để “Ngày ngày năng lau chùi”, có chấp tướng tâm tức là vẫn
chưa thấy rơ được áo nghĩa của thiền, hiểu thiền là Ngộ, là
thấu rơ cội nguồn của tâm. Cũng trong Thanh Hiên Tiền Hậu Tập,
một lần nữa tiên sinh đă cho thấy quan niệm về thiền, về đạo
Phật với quan niệm có một cái tâm (nhất phiến tâm) để an trụ
mỗi khi giao tiếp va chạm với đời sống:
Đạo ư
道意
Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh
明月照古井
Tỉnh thủy vô ba đào
井水無波濤
Bất dị nhân khiên
xả
不被人牽扯
Thử tâm chung bất
dao
此心终不摇
Túng bị nhân khiên
xả
縱被人牽扯
Nhất dao hoàn phục
chỉ
一摇還复止
Trạm trạm nhất phiến
tâm
湛湛一片心
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy
明月古井水
Nói ư
ḿnh
Trăng sáng
chiếu giếng xưa,
Nước giếng
không sóng xao,
Nếu bị
người buộc dắt
Ḷng này
không xao động,
Dù bị
người khuấy động
Dao động
một lúc rồi yên lặng lại,
Sâu xa một
tấm ḷng,
Trăng sáng
chiếu giếng xưa.
Tạm chuyển lục bát:
Giếng xưa
trăng sáng soi vào
Nước không
sóng gợn lao xao giếng này
Chẳng ai
ràng buộc dắt bày
Không làm
lay động ḷng này xôn xao
Dẫu ai dẫn
dắt đi nào
Lao xao
rồi lại trở vào lắng trong
Sâu xa,
dày một tấm ḷng
Giếng xưa
vằng vặc sáng vầng trăng soi
(Nói ư ḿnh)
“Trăng sáng” tượng trưng cho
chân lư, “giếng xưa” tượng trưng cho “bản lai diện mục”, nhưng
chân lư mà Tố Như cảm nghiệm được vẫn c̣n loay hoay trong ṿng
tục đế. Dầu sao, thời kỳ này được xem rất cần thiết hầu chuẩn
bị cho những tỏ ngộ mở rộng hơn về sau và phù hợp với tinh
thần Thiền của Huệ Năng hơn.
2. Tiếp đến, trong thời kỳ rời
chốn núi Hồng sông Lam để làm quen với triều Nguyễn, thấy bao
nhiêu cảnh trái ngang của ṿng danh lợi, cũng như chứng kiến
bao cảnh đổi thay đă đưa tiên sinh lại gần với đạo Phật hơn.
Nhưng thời kỳ này vẫn chỉ là thời kỳ chuyển tiếp với những
chứng nghiệm về lẽ vô thường, với những thắc mắc về cuộc đời,
trầm tư về thân thế
của ḿnh
như là các tố tính của một tâm thức đang trên đường kiếm t́m
chân lư:
Du du vân
ảnh biến thần tịch
Cổn cổn
lăng hoa phù cổ kim
Trần thế
bách niên khai nhăn mộng
(La Phù Giang Thủy Các Độc Tọa)
悠 悠 雲 影 變 晨 夕
滾 滾 浪 花 浮 古 今
塵 世 百 年 開 眼 夢
(羅浮江水閣獨坐)
(ṿi vọi bóng mây thay đổi sớm
chiều,
cuồn cuộn hoa sóng trôi nổi xưa
nay,
trăm năm thân thế chỉ là giấc mộng
khi mở mắt)
Tạm chuyển lục bát:
Mây xa sớm
tối đổi dần
Xưa nay
cuồn cuộn sóng vần bọt trôi
Trăm năm
mắt mở mộng đời ...
Nói khác đi, tiên sinh đă thấy
cảnh vật thiên nhiên rồi ngẫm lại cuộc đời không biết bao
nhiêu sự dời đổi như một giấc mộng, đă “khai nhăn” (mở mắt) để
thấy được lẽ biến hóa của ḍng sinh mệnh. Song cái thấy của
tiên sinh vẫn chỉ là thị kiến thường t́nh mà nhiều thi sĩ có
thể cảm nhận được từ ngoại giới và ngay đời ḿnh. Gọi là
thường t́nh cũng chỉ là cách gọi tạm thời, và dĩ nhiên, nếu
không có một sự trầm tư sâu xa, không có một mối giao cảm vô
biên của các nhà thơ sẽ khó ḷng có được những thị kiến chân
thành như vậy. Những thắc mắc, những băn khoăn hoặc thị kiến
như thế hầu như là mối lo nghĩ luôn luôn đè nặng lên
tâm tư tiên sinh. Và cứ mỗi chặng hành tŕnh, cứ mỗi gặp gỡ,
đều gợi cho tiên sinh không biết bao nhiêu câu hỏi tra vấn mà
sách vở hoặc kinh điển không thể nào giải quyết trọn vẹn. Thời
kỳ làm quan ở Bắc Hà (1802- 1804) , những câu hỏi ấy lại được
gợi lên lần nữa khi tiên sinh ghé ngang Lạng Sơn thăm các hang
động danh tiếng ở đây :
Măn cảnh giai không hà hữu
tướng?
Thử tâm thường định bất ly
thiền.
(Đề Nhị Thanh Động)
滿 境 皆 空 何 有 相
此 心 常 定 不 離 禪
(題二青洞)
“Toàn cảnh đều là không, nào
đâu có h́nh tướng, ḷng này thường định không rời thiền”. Câu
hỏi và câu trả lời đó của tiên sinh nơi bài thơ trên chứng tỏ
rằng tiên sinh cũng từng am hiểu tư tưởng về tánh không trên
con đường tầm cầu mong hiểu được rốt ráo nghĩa của nó. Khi đặt
câu hỏi “toàn cảnh đều là không, nào đâu có tướng?”, tư tưởng
của tiên sinh không xa lạ ǵ đối với tư tưởng Bát Nhă. Trong
một bài kệ của kinh Kim Cương Bát Nhă, đức Phật cũng từng dạy
chúng sinh:
“Nhất thế hữu vi pháp
Như mộng, huyền, bào, ảnh
Như lộ diệc, như điển ứng tác như
thị quán”
Dịch nghĩa:
“Phải quán như thế này
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, bóng
Như sương, như điển chớp”
Tiên sinh đă thấu hiểu các
Pháp đều là không (Bát Nhă), nhưng ai ngờ chính không mới làm
thành các pháp (măn cảnh). Và rồi chính tiên sinh nhắc nhở
ḷng ḿnh trước cảnh giới đất trời, cuộc đời: “Ḷng này thường
định không rời thiền”. Thiền cũng có nhiều con đường và câu
trả lời của tiên sinh vẫn chỉ là một thứ “chân đế của tục đế”,
nghĩa là chân lư c̣n ở cấp thấp, một h́nh thức thiền tuy lấy
cái tâm để an trụ nhưng vẫn c̣n chấp vào nơi an trụ này. Với
thiền, hiểu theo tinh thần Bát Nhă sẽ không có nơi nào để bám
víu và cũng không có nơi nào để rời bỏ. Từ ngữ “bất ly thiền”
(không rời thiền) mà tiên sinh dùng ở đây có lẽ phù hợp với
quan niệm thiền của Thần Tú nhiều hơn v́ Thần Tú vẫn nghĩ là
có một cái tâm để mà “ngày ngày thường lau chùi” (thời thời
thường phất thức), nghĩa là vẫn chấp vào một tâm và c̣n đang ở
ngoài hàng rào của thiền Bát Nhă. Tố Như tiên sinh ít nhiều đă
chứng đắc được sự thật của đời sống, song tâm thái của tiên
sinh qua các câu thơ trên c̣n đương ở tư thế xao xuyến hầu làm
căn cứ cho những quyết đoán phô bày sự chứng ngộ thật sự về
sau.
3. Thời kỳ tiếp theo này được
xem là thời kỳ quan trọng, đánh dấu tâm thức chứng đắc của
tiên sinh. Trong thời gian rảnh rỗi sau khi hoàn tất nhiệm vụ
sang tuế cống Trung Hoa, tiên sinh đă để nhiều ngày tháng
viếng thăm các thắng tích nổi tiếng ở đất Bắc. Đây là cơ hội
thuận tiện để tiên sinh hiểu rộng hơn về các tư tưởng thiền
khác nhau ở Trung Hoa và cũng là dịp để tiên sinh thông ngộ
được những áo nghĩa sâu kín mà sách vở, kinh điển không thể
giúp tiên sinh đến nơi đến chốn. Măi khi đến Nam Kinh đi thăm
viếng một thắng cảnh có tên là Phân Kinh Thạch Đài (đài Phân
Kinh) do một Thái tử nhà Lương thiết lập để kỷ niệm việc ông
này mang kinh điển nhà Phật ra phân loại, tiên sinh mới giải
tỏa trọn vẹn những mối ưu tư chất chứa từ lâu:
“Ngô văn
Thế Tôn tại Linh Sơn,
Thuyết
pháp độ nhân như hằng hà sa số.
Nhân liễu
thử tâm nhân tự độ.
Linh Sơn
chỉ tại nhữ tâm đầu,
Minh kính
diệc phi đài,
Bồ đề bản
vô thụ.
Ngă độc
kim cương thiên biến linh,
Kỳ trung
áo chỉ đa bất minh.
Cập đáo
“Phân kinh thạch đài” hạ,
Tài tri vô
tự thị chân kinh”
,2
(Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân
Kinh Thạch Đài)
吾聞世尊在靈山
説法渡人如恒河沙數
人了此心人自渡
靈山只在汝心頭
明鏡亦非臺
菩提本無樹
我讀金剛千遍零
其中奥旨多不明
及到分經石臺下
纔知無字是眞經
(梁昭明太子分經石臺)
“Ta nghe Đức Thế Tôn ở Linh
Sơn, Thuyết pháp độ được rất nhiều người. Người đă có tâm
người tự cứu. Linh Sơn cũng chỉ ở ḷng ta. Đài gương cũng
chẳng có. Cây bồ đề vốn không cây. Ta đọc kinh
Kim Cương hơn ngàn lần. Nghĩa sâu kín bên trong phần nhiều
không hiểu hết. Kịp đến Phân Kinh thạch đài này,
mới hiểu rằng chân kinh vốn
không có chữ”.
Tư tưởng của tiên sinh qua
đoạn văn quan trọng trên biểu lộ rơ ràng ảnh hưởng của Thiền
gia. Thực vậy, khi Tố Như viết “Minh kính diệc phi đài, Bồ đề
bản vô thụ”, chắc chắn tiên sinh đă biết những quan niệm về
thiền theo lối đốn ngộ của Huệ Năng. Ngài Huệ Năng, theo
truyền thuyết, là người cũng lấy kinh Kim Cương làm căn bản
cho việc tu tập tầm cầu chân lư Sau nhiều thời gian nghiền
ngẫm, cuối cùng, ngài đă tỏ ngộ được áo nghĩa của kinh qua câu
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (đừng khởi vọng tâm trụ chấp
một nơi nào).
Thấu rơ được áo nghĩa (paramita) của tư tưởng Kim Cương Bát
Nhă Ba la mật (Vajrachedika - Prajnăparamita – Sutra), nên sau
này ngài Huệ Năng mới dễ dàng phát biểu quan niệm thiền của
ḿnh vượt trội hẳn nghĩa lư đạo Phật mà Thần Tú am hiểu, khi
cả hai tŕnh bày sự lănh hội của ḿnh cho Ngũ tổ Hoằng Nhẫn
xem. Cũng vậy, Tố Như đă chịu ảnh hưởng của thiền Huệ Năng,
song tiên sinh cũng thông ngộ ít nhiều tư tương tánh
không (Sunyata) theo tinh thần Bát Nhă khi viết: “Tài tri
vô tự thị chân kinh” (Mới hiểu kinh không có chữ mới là chân
kinh). Dĩ nhiên, sự chứng đắc diệu lư thiền nơi tiên sinh
không hoàn toàn có tính cách lư thuyết qua sách vở, qua con
đường tri thức; tiên sinh đă bao lần day dứt về cuộc đời
dời đổi, thấy rơ bao cảnh khổ đau của chính ḿnh, của thân
thích, của người đời (Vọng Lam Giang, Sở Kiến Hành, Văn tế
Thập Loại Chúng Sinh, ...). Và kinh điển nhà Phật v́
liên quan mật thiết với tâm thức tiên sinh cũng như phù hợp
với sự thật ở đời nên giải tỏa phần nào những lo nghĩ, trầm tư
của tiên sinh. Việc tiên sinh đọc kinh Kim Cương hơn ngàn lần
mà vẫn chưa thấy rơ áo nghĩa bên trong v́ chưa thấy được ngọn
nguồn của lẽ vô thường, tương tự việc t́m cầu của Huệ Năng khi
ngài cũng đọc kinh này nhiều lần, và chỉ tỏ ngộ khi tâm trí
đang dốc hết ḷng bỗng nhiên nghe được câu: “ưng vô sở trụ nhi
sanh kỳ tâm” của một nhà sư. Từ đây, có thể nói rằng tư tưởng
của tiên sinh không phải chỉ là một mớ những lo nghĩ, hoặc
những thị kiến của các thời kỳ bên trên nữa; tâm thức của tiên
sinh đă mở rộng thực sự để nhận ra một bầu trời mới mẻ trong
lành như “trăng sáng nước giếng xưa” (Đạo ư).
Nói một cách tổng quát, Nguyễn
Du tiên sinh đă tổng hợp được cùng lúc ba nguồn tư tưởng Nho,
Lăo, Phật, nhưng chất keo để gắn liền và để cho các tư tưởng
này “đồng qui” không phải là đạo Phật, theo lối hiểu phổ
thông, mặc dù tư tưởng của đạo này được xem là phương sách
giải quyết của tiên sinh. Chỉ có chất thiền mới đủ khả năng
dung hợp cùng lúc ba nguồn tư tưởng cốt tủy của Trung Hoa xưa
kia để nở hoa thành tư tưởng Thiền tông. Nó không phải là thứ
đạo Phật ở tục đế, nhưng là đạo Phật ở chân đế có khả năng soi
tỏ, quán chiếu bao tâm sự của những kẻ “kỳ khí” như Tố Như.
Làm thế nào “chẳng tu mà cũng như tu mới là” (Đoạn Trường Tân
Thanh, câu 3108)? Câu hỏi đó chỉ có thiền mới đủ sức trả lời
giữa các mối mâu thuẫn về công danh và tiêu dao nơi tiên sinh.
Thêm vào đó, tư tưởng của Nguyễn Du không phải chỉ là sự suy
tư trên sách vở, lư thuyết, nhưng đă được hun đúc, thành h́nh
từ kinh nghiệm đời sống. Có sống thật, có từng trải loại tư
tưởng đó mới có giá trị đích thực trên bước đường soi sáng ư
nghĩa đời sống. Nhưng tư tưởng dựa trên kinh nghiệm sống thật
của bản thân, cũng chính là kinh nghiệm của thiền mà Tố Như
tiên sinh đă trải qua trên bước đường trở về “gia hương”, trở
về “xóm ngày xưa” (Mạn Hứng I, Ngẫu Đắc) để t́m thấy giếng
nước vẫn c̣n nguyên vẹn như xưa . Giữa khung trời “cố
hương” đó, đạo Phật cũng không, đạo Nho cũng không mà Đạo
gia cũng không. Tất cả đều là không để ánh trăng soi tỏ mà
thôi.
Đọc Kỳ 25
Dương Anh Sơn
Giáo Sư Triết học
Trung học Ninh Ḥa
|