trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |                 www.ninh-hoa.com

Dương Anh Sơn

 Giáo Sư Triết học
 Trung học Ninh Ḥa
 Niên khóa 1973-1976
 Chỉ đạo lớp 12C, 74-75

 Sở thích viết và
chuyển dịch Thơ.

Đă xuất bản:

"Ảnh hưởng đạo Phật trong Đoạn Trường Tân Thanh" (2006) và

"Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trải" (dịch và chú giải 2009)

 


 
Hiện cư ngụ tại Việt Nam

 

 

 

 

 

 


Ảnh Hưởng Đạo PHẬT
Trong

ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH

Dương Anh Sơn
 

   

  

 

 

PHẦN BA 

 

NHỮNG NHẬN ĐỊNH

VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO PHẬT QUA

NGUYỄN DU VÀ TRONG

ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH

 

Trong những phần trên, ta đă lần lượt khảo sát về tiểu sử Nguyễn Du, về ảnh hưởng đạo Phật trong các tác phẩm của tiên sinh, về nguồn gốc của Truyện Kiều, về vị trí tư tưởng đạo Phật trong Đoạn Trường Tân Thanh đối chiếu với tư tưởng Nho gia và Đạo gia. Qua những điều nhận xét như thế, ta thấy đạo Phật ít nhiều đă đóng góp và chiếm một vai tṛ đặc biệt trong việc xây dựng và h́nh thành tư tưởng Nguyễn Du. Vậy tư tưởng Nguyễn Du là ǵ, liên hệ thế nào đối với Đạo Phật và có những ảnh hưởng nào trong Đoạn Trường Tân Thanh? Những vấn đề đó sẽ được nhận định lại một lần nữa hầu có một cái nh́n chung ở những phần sau.
 

CHƯƠNG I

 

  

 VỀ TƯ TƯỞNG NGUYỄN DU
 

Trước hết, như lời nhiều người đă nhận định, các tác phẩm của Nguyễn Du và nhất là Đoạn Trường Tân Thanh cho thấy tiên sinh đă tổng hợp cùng lúc ba nguồn tư tưởng Nho, Lăo, Phật. Tinh thần “tam giáo đồng qui” hơn bất cứ một tác phẩm văn chương nào của nước ta từ trước đến nay đă thể hiện trọn vẹn trong những bài thơ chữ Hán và trong các tác phẩm chữ Nôm của Tố Như tử.  

Phong thái của một Nguyễn Du trong các bài thơ Hán văn đă dàn trải những t́nh cảm, những quan niệm của một nghệ sĩ trước cuộc đời, trước vũ trụ ngoại giới đối diện với chính ḿnh (Độ Long Vĩ Giang, Đề Nhị Thanh Động, Đạo ư, Dạ Hành, Mạn Hứng ...). Có thể nói, mỗi bài thơ là một lần để tiên sinh nh́n lại cuộc đời ḿnh, mỗi bóng trăng nằm trong những ư từ là một  cuộc thử nghiệm với chân lư tầm cầu sự thật. H́nh ảnh của Tố  Như dàn trải trong các trang thơ là h́nh ảnh của một người khách lên đường t́m về cố hương, t́m lại bóng dáng thật sự của ḿnh bằng tất cả nỗi đau thương, những khổ năo, sầu bệnh (Điếu Long Thành Ca Giả, My Trung Mạn Hứng, Ngọa Bệnh, Độc Tiểu Thanh Kư, Long Thành Cầm Giả Ca, Tự Thán ...) mà ông đă sống, đă chứng kiến. Tâm thức của một con người biến chuyển và ghi khắc trong mỗi chặng hành tŕnh (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc Hành Thi Tập) là tâm thức của một kẻ thường xuyên băn khoăn về những đổi thay, vô thường nơi ḍng đời quanh quất và cố gắng định hướng, an trụ ḷng ḿnh trước bao cảnh tang thương biến đổi đó.

 

Cho nên, tư tưởng của tiên sinh mang một tính chất đặc biệt, nó không thuần túy trong tư thế của Nho gia, không mang khuôn thước của nhà Phật, nhưng cũng không hoàn toàn mang phong vị của Đạo gia. Thao thức một đời của Tố Như là thao thức với nhiều khát khao một con đường có thể dung ḥa được giữa lựa chọn xuất thế và lựa chọn nhập thế, giữ sự dấn thân vào cuộc phong trần và việc gác bỏ sự đời để được “nằm nghe tiếng tùng reo nửa chừng mây” (Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân - Tự Thán II).

 

Làm thế nào để dung ḥa được những lựa chọn ấy? Làm thế nào để vẫn sống giữa ḍng đời nhưng vẫn giữ vẹn được tấm ḷng của ḿnh hoặc thả hồn trí theo đám mây chiều, ánh trăng khuya? (La Phù Giang Thủy, Các Độc Tọa, Thôn Dạ, Quỳnh Hải Nguyên Tiêu, Hoàng Hạc Lâu, Mạn Hứng ...), đó là những khắc khoải, xao xuyến vây bọc lấy tiên sinh bao lần và đă là đầu mối của nguồn tư tưởng mà ta có thể mệnh danh là “Tư tưởng Nguyễn Du” .

 

  


Mục 2
 

TÀI TRI VÔ TỰ THỊ CHÂN KINH

 

Thế rồi, việc ǵ phải đến sẽ đến, tư tưởng của tiên sinh giờ đây đă quay đầu lại nh́n vào thực tế và mong t́m nơi chính thực tế một sự giải thoát chắc chắn hơn là mộng tưởng như cái vẻ tiêu dao nửa vời của kẻ đă trót để “Thân thế trăm năm vào chốn gió bụi. Hết ăn nhờ ở bờ sông lại đến bờ biển, đă lâu lúc cao hứng không c̣n nghĩ đến mộng gác vàng, thế mà hư danh vẫn chưa buông tha người đầu bạc” [1]. (Bách niên thân thế ủy phong trần; lữ thực giang tân hựu hải tân; cao hứng cửa vô hoàng các mộng; hư danh vị phóng bạch đầu nhân - Mạn Hứng I). Từ đấy, tiên sinh đă nhận thức rơ cái lư của vô thường, biến đổi nơi ḍng đời phù hợp với quan niệm nhà Phật:   

 

“Táp tải phù sinh hoạn hữu thân”  (Mạn Hứng, I)

  卅 戴 浮 生 患 有 身                   (漫興 一)

(cuộc sống nổi trôi ba mươi năm có thân nên lo sợ)

hoặc:  

“Lục xích phù sinh thiên địa trung” (Mạn Hứng, II) 

 六 尺 浮 生 天 地 中             (漫興)

(Tấm thân sáu thước sống nổi trôi giữa trời đất)

hoặc:  

“Phù sinh lao lục kỷ thời hưu” (Đồng Lung Giang)

 浮 生 勞 碌 幾 時 休              (同籠江)

(cảnh khổ nhọc của cuộc sống nổi trôi không biết bao giờ chấm dứt)

Rơ ràng nhất là nơi hai bài thơ viết về thành Thăng Long (Thăng Long I và II) sau bao năm xa vắng trở về, tiên sinh thấy bao nhiêu biến đổi, ch́m nổi nên ḷng “Nghĩ ngợi thâu đêm khổ tâm không ngủ được” (Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy - Thăng Long I). Song rồi nhận ra được cái lư vô thường của cuộc đời vẫn chưa phải là viên thuốc để điều ḥa những khát  khao giữa thú an nhàn và sự ràng buộc của hư danh, giữa sách vở và cuộc đời. V́ thế, tiên sinh đă t́m đến với đạo Phật, nhưng đạo Phật với những kinh điển, với những ngôn từ vẫn chưa thể giải đáp bao mối trầm tư của tiên sinh. Nhưng cũng chính kinh điển đạo Phật đối chiếu với cuộc đời đă trợ duyên cho tiên sinh có cơ hội chứng đắc được chân lư của đời sống. Một cách tổng quát, ta có thể phân chia tiến tŕnh tư tưởng đạo Phật của tiên sinh làm ba thời kỳ:  

1. Trước hết, trong thời kỳ thứ nhất, của những tháng năm ở núi Hồng Lĩnh, tiên sinh đă nhiều lần suy nghĩ mà có những cảm nhận về thiền:  

U cư sầu cực hết tri hoan

Đạt nhân tâm kính quang như nguyệt [2]          (Tạp Ngâm, 2)  

 

幽 居 愁 極 忽 知 歡

達 人 心 境 光 如 月

 “... Quá buồn ở ẩn chốc đà hân hoan 

“Đạt nhân ḷng sáng như trăng ...”                 (Tạp Ngâm, 2)  

Ở nơi vắng vẻ, buồn đến cùng bỗng thấy vui, kẻ đạt nhân gương ḷng sáng như trăng”. Thuật ngữ “tâm kính” là danh từ được dùng rất thường trong Thiền tông Trung Hoa, khởi đầu bằng bài kệ của Thần Tú:  

Thân thị bồ đề thọ,                              身 是 菩 提 樹

Tâm như minh kính đài.                      心 如 明 鏡 臺

Thời thời thường phất thức,               時 時 常 拂 拭

Mạc khiển hữu trần ai [3]                       莫 遣 有 塵 埃          (神秀)

và bài của Huệ Năng:  

Bồ đề bổn vô thọ,                               菩 提 無 樹

Minh kính diệc phi đài.                       明 鏡 亦 非 臺

Bổn lai vô nhất vật                              本 來 無 一 物

Hà xứ phất trần ai. [4]                            何 處 拂 塵 埃       (惠能)

Hai câu thơ của Nguyễn Du ở thời kỳ này có vẻ chịu ảnh hưởng của lối thiền Thần Tú nhiều hơn. Thần Tú là một thiền sư nổi tiếng với chủ trương tu tiệm, nghĩa là có tu th́ có chứng do sự huân tập dần dần cái tâm của ḿnh. Quan niệm của Thần Tú c̣n trong chiều hướng của Tịnh Đô tông, lấy việc học hiểu dần dần kinh điển và niệm Phật để đạt đến giải thoát. Chỗ khác của Thần Tú là tuy chủ trương tu tiệm nhưng vẫn lấy cái tâm làm chủ, “tu tâm tức là thấy được tánh”. Và Tố Như tiên sinh đồng quan điểm với Thần Tú ở thời kỳ này trên con đường t́m kiếm cái tâm của ḿnh. Cái tâm của Thần Tú hoặc Nguyễn Du ở đây vẫn trong ṿng chấp vào h́nh tướng, nghĩa là vẫn chấp vào có một cái tâm để được “Sáng như trăng” hoặc để “Ngày ngày năng lau chùi”, có chấp tướng tâm tức là vẫn chưa thấy rơ được áo nghĩa của thiền, hiểu thiền là Ngộ, là thấu rơ cội nguồn của tâm. Cũng trong Thanh Hiên Tiền Hậu Tập, một lần nữa tiên sinh đă cho thấy quan niệm về thiền, về đạo Phật với quan niệm có một cái tâm (nhất phiến tâm) để an trụ mỗi khi giao tiếp va chạm với đời sống:

   Đạo ư                                                  道意

Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh               明月照古井

Tỉnh thủy vô ba đào                        井水無波濤

Bất dị nhân khiên xả                        不被人牽扯

Thử tâm chung bất dao                    此心终不摇

Túng bị nhân khiên xả                     縱被人牽扯

Nhất dao hoàn phục chỉ                   一摇還复止

Trạm trạm nhất phiến tâm               湛湛一片心

Minh nguyệt cổ tỉnh thủy                明月古井水

 

Nói ư ḿnh 

 

Trăng sáng chiếu giếng xưa,

Nước giếng không sóng xao,

Nếu bị người buộc dắt

Ḷng này không xao động,

Dù bị người khuấy động

Dao động một lúc rồi yên lặng lại,

Sâu xa một tấm ḷng,

Trăng sáng chiếu giếng xưa.

 

Tạm chuyển lục bát:

 

Giếng xưa trăng sáng soi vào

Nước không sóng gợn lao xao giếng này

Chẳng ai ràng buộc dắt bày

Không làm lay động ḷng này xôn xao

Dẫu ai dẫn dắt đi nào

Lao xao rồi lại trở vào lắng trong

Sâu xa, dày một tấm ḷng

Giếng xưa vằng vặc sáng vầng trăng soi

(Nói ư ḿnh)

“Trăng sáng” tượng trưng cho chân lư, “giếng xưa” tượng trưng cho “bản lai diện mục”, nhưng chân lư mà Tố Như cảm nghiệm được vẫn c̣n loay hoay trong ṿng tục đế. Dầu sao, thời kỳ này được xem rất cần thiết hầu chuẩn bị cho những tỏ ngộ mở rộng hơn về sau và phù hợp với tinh thần Thiền của Huệ Năng hơn.  

2. Tiếp đến, trong thời kỳ rời chốn núi Hồng sông Lam để làm quen với triều Nguyễn, thấy bao nhiêu cảnh trái ngang của ṿng danh lợi, cũng như chứng kiến bao cảnh đổi thay đă đưa tiên sinh lại gần với đạo Phật hơn. Nhưng thời kỳ này vẫn chỉ là thời kỳ chuyển tiếp với những chứng nghiệm về lẽ vô thường, với những thắc mắc về cuộc đời, trầm tư về thân thế   của ḿnh như là các tố tính của một tâm thức đang trên đường kiếm t́m chân lư:

Du du vân ảnh biến thần tịch

Cổn cổn lăng hoa phù cổ kim

Trần thế bách niên khai nhăn mộng

 

(La Phù Giang Thủy Các Độc Tọa)

            悠 悠 雲 影 變 晨 夕

            滾 滾 浪 花 浮 古 今

            塵 世 百 年 開 眼 夢

                            (羅浮江水閣獨坐)

(ṿi vọi bóng mây thay đổi sớm chiều,

cuồn cuộn hoa sóng trôi nổi xưa nay,

trăm năm thân thế chỉ là giấc mộng khi mở mắt) [5]

Tạm chuyển lục bát:  

Mây xa sớm tối đổi dần

Xưa nay cuồn cuộn sóng vần bọt trôi

Trăm năm mắt mở mộng đời ...  

Nói khác đi, tiên sinh đă thấy cảnh vật thiên nhiên rồi ngẫm lại cuộc đời không biết bao nhiêu sự dời đổi như một giấc mộng, đă “khai nhăn” (mở mắt) để thấy được lẽ biến hóa của ḍng sinh mệnh. Song cái thấy của tiên sinh vẫn chỉ là thị kiến thường t́nh mà nhiều thi sĩ có thể cảm nhận được từ ngoại giới và ngay đời ḿnh. Gọi là thường t́nh cũng chỉ là cách gọi tạm thời, và dĩ nhiên, nếu không có một sự trầm tư sâu xa, không có một mối giao cảm vô biên của các nhà thơ sẽ khó ḷng có được những thị kiến chân thành như vậy. Những thắc mắc, những băn khoăn hoặc thị kiến như thế hầu như là  mối lo nghĩ luôn luôn đè nặng lên tâm tư tiên sinh. Và cứ mỗi chặng hành tŕnh, cứ mỗi gặp gỡ, đều gợi cho tiên sinh không biết bao nhiêu câu hỏi tra vấn mà sách vở hoặc kinh điển không thể nào giải quyết trọn vẹn. Thời kỳ làm quan ở Bắc Hà (1802- 1804) , những câu hỏi ấy lại được gợi lên lần nữa khi tiên sinh ghé ngang Lạng Sơn thăm các hang động danh tiếng ở đây :  

Măn cảnh giai không hà hữu tướng?

Thử tâm thường định bất ly thiền.

   (Đề Nhị Thanh Động)  

 

滿 境 皆 空 何 有 相

此 心 常 定 不 離 禪 

            

(題二青洞)

 

“Toàn cảnh đều là không, nào đâu có h́nh tướng, ḷng này thường định không rời thiền”. Câu hỏi và câu trả lời đó của tiên sinh nơi bài thơ trên chứng tỏ rằng tiên sinh cũng từng am hiểu tư tưởng về tánh không trên con đường tầm cầu mong hiểu được rốt ráo nghĩa của nó. Khi đặt câu hỏi “toàn cảnh đều là không, nào đâu có tướng?”, tư tưởng của tiên sinh không xa lạ ǵ đối với tư tưởng Bát Nhă. Trong một bài kệ của kinh Kim Cương Bát Nhă, đức Phật cũng từng dạy chúng sinh:  

“Nhất thế hữu vi pháp

Như mộng, huyền, bào, ảnh

Như lộ diệc, như điển ứng tác như thị quán”


Dịch nghĩa:

“Phải quán như thế này   

Tất cả pháp hữu vi 

Như mộng, huyễn, bọt, bóng

Như sương, như điển chớp” [6] 
 

Tiên sinh đă thấu hiểu các Pháp đều là không (Bát Nhă), nhưng ai ngờ chính không mới làm thành các pháp (măn cảnh). Và rồi chính tiên sinh nhắc nhở ḷng ḿnh trước cảnh giới đất trời, cuộc đời: “Ḷng này thường định không rời thiền”. Thiền cũng có nhiều con đường và câu trả lời của tiên sinh vẫn chỉ là một thứ “chân đế của tục đế”, nghĩa là chân lư c̣n ở cấp thấp, một h́nh thức thiền tuy lấy cái tâm để an trụ nhưng vẫn c̣n chấp vào nơi an trụ này. Với thiền, hiểu theo tinh thần Bát Nhă sẽ không có nơi nào để bám víu và cũng không có nơi nào để rời bỏ. Từ ngữ “bất ly thiền” (không rời thiền) mà tiên sinh dùng ở đây có lẽ phù hợp với quan niệm thiền của Thần Tú nhiều hơn v́ Thần Tú vẫn nghĩ là có một cái tâm để mà “ngày ngày thường lau chùi” (thời thời thường phất thức), nghĩa là vẫn chấp vào một tâm và c̣n đang ở ngoài hàng rào của thiền Bát Nhă. Tố Như tiên sinh ít nhiều đă chứng đắc được sự thật của đời sống, song tâm thái của tiên sinh qua các câu thơ trên c̣n đương ở tư thế xao xuyến hầu làm căn cứ cho những quyết đoán phô bày sự chứng ngộ thật sự về sau.  

3. Thời kỳ tiếp theo này được xem là thời kỳ quan trọng, đánh dấu tâm thức chứng đắc của tiên sinh. Trong thời gian rảnh rỗi sau khi hoàn tất nhiệm vụ sang tuế cống Trung Hoa, tiên sinh đă để nhiều ngày tháng viếng thăm các thắng tích nổi tiếng ở đất Bắc. Đây là cơ hội thuận tiện để tiên sinh hiểu rộng hơn về các tư tưởng thiền khác nhau ở Trung Hoa và cũng là dịp để tiên sinh thông ngộ được những áo nghĩa sâu kín mà sách vở, kinh điển không thể giúp tiên sinh đến nơi đến chốn. Măi khi đến Nam Kinh đi thăm viếng một thắng cảnh có tên là Phân Kinh Thạch Đài (đài Phân Kinh) do một Thái tử nhà Lương thiết lập để kỷ niệm việc ông này mang kinh điển nhà Phật ra phân loại, tiên sinh mới giải tỏa trọn vẹn những mối ưu tư chất chứa từ lâu:

“Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn,

Thuyết pháp độ nhân như hằng hà sa số.

Nhân liễu thử tâm nhân tự độ.

Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu,  

Minh kính diệc phi đài,

Bồ đề bản vô thụ.

Ngă độc kim cương thiên biến linh,

Kỳ trung áo chỉ đa bất minh.

Cập đáo “Phân kinh thạch đài” hạ,

Tài tri vô tự thị chân kinh” [7],2

(Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài)  

 

吾聞世尊在靈山

説法渡人如恒河沙

人了此心人自渡

靈山只在汝心頭

明鏡亦非臺

菩提本無樹

我讀金剛千遍零

其中奥旨多不明

及到分經石臺下

纔知無字是眞經

(梁昭明太子分經石臺)

“Ta nghe Đức Thế Tôn ở Linh Sơn, Thuyết pháp độ được rất nhiều người. Người đă có tâm người tự cứu. Linh Sơn cũng chỉ ở ḷng ta. Đài gương cũng chẳng có. Cây bồ đề vốn không cây. Ta đọc kinh Kim Cương hơn ngàn lần. Nghĩa sâu kín bên trong phần nhiều không hiểu hết. Kịp đến Phân Kinh thạch đài này, mới hiểu rằng chân kinh vốn không có chữ”.

Tư tưởng của tiên sinh qua đoạn văn quan trọng trên biểu lộ rơ ràng ảnh hưởng của Thiền gia. Thực vậy, khi Tố Như viết “Minh kính diệc phi đài, Bồ đề bản vô thụ”, chắc chắn tiên sinh đă biết những quan niệm về thiền theo lối đốn ngộ của Huệ Năng. Ngài Huệ Năng, theo truyền thuyết, là người cũng lấy kinh Kim Cương làm căn bản cho việc tu tập tầm cầu chân lư Sau nhiều thời gian nghiền ngẫm, cuối cùng, ngài đă tỏ ngộ được áo nghĩa của kinh qua câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào)[8]. Thấu rơ được áo nghĩa (paramita) của tư tưởng Kim Cương Bát Nhă Ba la mật (Vajrachedika - Prajnăparamita – Sutra), nên sau này ngài Huệ Năng mới dễ dàng phát biểu quan niệm thiền của ḿnh vượt trội hẳn nghĩa lư đạo Phật mà Thần Tú am hiểu, khi cả hai tŕnh bày sự lănh hội của ḿnh cho Ngũ tổ Hoằng Nhẫn xem. Cũng vậy, Tố Như đă chịu ảnh hưởng của thiền Huệ Năng, song tiên sinh cũng thông ngộ ít nhiều tư tương tánh không (Sunyata) theo tinh thần Bát Nhă khi viết: “Tài tri vô tự thị chân kinh” (Mới hiểu kinh không có chữ mới là chân kinh). Dĩ nhiên, sự chứng đắc diệu lư thiền nơi tiên sinh không hoàn toàn có tính cách lư thuyết qua sách vở, qua con đường tri thức; tiên sinh đă bao lần day dứt về cuộc đời dời đổi, thấy rơ bao cảnh khổ đau của chính ḿnh, của thân thích, của người đời (Vọng Lam Giang, Sở Kiến Hành, Văn tế Thập Loại Chúng Sinh, ...). Và kinh điển nhà Phật v́ liên quan mật thiết với tâm thức tiên sinh cũng như phù hợp với sự thật ở đời nên giải tỏa phần nào những lo nghĩ, trầm tư của tiên sinh. Việc tiên sinh đọc kinh Kim Cương hơn ngàn lần mà vẫn chưa thấy rơ áo nghĩa bên trong v́ chưa thấy được ngọn nguồn của lẽ vô thường, tương tự việc t́m cầu của Huệ Năng khi ngài cũng đọc kinh này nhiều lần, và chỉ tỏ ngộ khi tâm trí đang dốc hết ḷng bỗng nhiên nghe được câu: “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của một nhà sư. Từ đây, có thể nói rằng tư tưởng của tiên sinh không phải chỉ là một mớ những lo nghĩ, hoặc những thị kiến của các thời kỳ bên trên nữa; tâm thức của tiên sinh đă mở rộng thực sự để nhận ra một bầu trời mới mẻ trong lành như “trăng sáng nước giếng xưa” (Đạo ư).  

Nói một cách tổng quát, Nguyễn Du tiên sinh đă tổng hợp được cùng lúc ba nguồn tư tưởng Nho, Lăo, Phật, nhưng chất keo để gắn liền và để cho các tư tưởng này “đồng qui” không phải là đạo Phật, theo lối hiểu phổ thông, mặc dù tư tưởng của đạo này được xem là phương sách giải quyết của tiên sinh. Chỉ có chất thiền mới đủ khả năng dung hợp cùng lúc ba nguồn tư tưởng cốt tủy của Trung Hoa xưa kia để nở hoa thành tư tưởng Thiền tông. Nó không phải là thứ đạo Phật ở tục đế, nhưng là đạo Phật ở chân đế có khả năng soi tỏ, quán chiếu bao tâm sự của những kẻ “kỳ khí” như Tố Như. Làm thế nào “chẳng tu mà cũng như tu mới là” (Đoạn Trường Tân Thanh, câu 3108)? Câu hỏi đó chỉ có thiền mới đủ sức trả lời giữa các mối mâu thuẫn về công danh và tiêu dao nơi tiên sinh. Thêm vào đó, tư tưởng của Nguyễn Du không phải chỉ là sự suy tư trên sách vở, lư thuyết, nhưng đă được hun đúc, thành h́nh từ kinh nghiệm đời sống. Có sống thật, có từng trải loại tư tưởng đó mới có giá trị đích thực trên bước đường soi sáng ư nghĩa đời sống. Nhưng tư tưởng dựa trên kinh nghiệm sống thật của bản thân, cũng chính là kinh nghiệm của thiền mà Tố Như tiên sinh đă trải qua trên bước đường trở về “gia hương”, trở về “xóm ngày xưa” (Mạn Hứng I, Ngẫu Đắc) để t́m thấy giếng nước vẫn c̣n nguyên vẹn như xưa . Giữa khung trời “cố hương” đó, đạo Phật cũng không, đạo Nho cũng không mà Đạo gia cũng không. Tất cả đều là không để ánh trăng soi tỏ mà thôi. 


 

[1] Quách Tấn, S.đ.d, tr. 45.

[2] Có sách viết là “Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt” (Quách Tấn, S.đ.d, tr. 60)

[3] Daisetz T. Suzuki, Thiền luận, quyển thượng, tr. 324 (Trúc Thiên dịch).

[4] S.d. trên, quyển trung. S.đ.d, tr.60 (Tuệ Sĩ dịch).

[5] Quách Tấn, S.đ.d, tr. 90, 91.

[6] Thích Thiện Hoa, Kim Cang và Tâm kinh dịch nghĩa lược giải, Sài G̣n, Hương Đạo XB, 1967, tr. 180.

[7] Đào Duy Anh, S.đ.d, tr. 215.

2 Nguyễn Đăng Thục, S.đ.d, tr. 349.

[8] Thích Thiện Hoa, S.đ.d, tr.71 và 72.

 

Đọc Kỳ 25

 

 

 



D
ương Anh Sơn
 Giáo Sư Triết học

Trung học Ninh Ḥa

 

 

 

trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |                 www.ninh-hoa.com