Mục 4
GIẢI CẤU LÀ DUYÊN
Tiếp đến, chúng ta lại có thể sử dụng nhăn quan Đạo gia và
đạo Phật để giải thích phần nào mối dây ràng buộc giữa Thúy
Kiều với Đạm Tiên, Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải.
Với Đạo gia, sự gặp gỡ giữa Đạm Tiên với Thúy Kiều được xem là sự
hội ngộ của những cung bậc đồng điệu, cộng hưởng với nhau mà trong
Dịch Kinh gọi là:
“Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”
同 聲 相 應,同 氣 相 求。
(đồng một thanh th́ hợp nhau, đồng khí th́
t́m nhau)
Bởi thế, khi mới thấy “sè sè nắm đất bên đường”, được nghe em kể
lại thân phận Đạm Tiên, Kiều đă cảm thấy một sự gần gũi thân thiết
nào đó với ḿnh, với cuộc đời ḿnh:
“Dễ hay t́nh lại gặp t́nh”
(c. 117)
Và ngay cảm nhận “t́nh lại gặp t́nh”, bóng dáng Đạm Tiên biểu
tượng của “những đấng tài hoa” và của Kiều đă xuất hiện để đáp lại
kẻ đồng thanh khí với ḿnh:
“Hữu t́nh ta lại gặp ta”
(c. 127)
“Ta gặp ta”, phải chăng Kiều đă gặp lại h́nh ảnh của cuộc đời nàng
tương hợp với cuộc đời của Đạm Tiên?
Rồi sau đó, bóng ma Đạm Tiên lại nhiều lần xuất hiện trong những
lúc tâm hồn Kiều xao động bất an, chính Đạm Tiên đă cho thấy điều
đó:
“Thưa rằng” Thanh khí xưa nay”
(c. 193 )
Và:
“Cũng người một hội, một thuyền đâu xa”
(c. 202)
Sự gặp gỡ giao cảm với Đạm Tiên nếu do sự đồng thanh khí với Đạm
Tiên th́ bản chất của Kiều, một người con gái “hữu t́nh”, đa t́nh
nên cũng dễ dàng đồng cung điệu với Thúc Sinh:
“Lạ ǵ thanh khí lẽ hằng”
(c. 1287)
Nhưng mối giao t́nh ấy không sâu đậm như với Đạm Tiên, Kim Trọng,
hoặc Từ Hải về sau, v́ rằng:
“Lâm chung chút nghĩa đèo bồng”
(c. 1785)
Đă là “chút nghĩa đèo bồng”, tuy đồng thanh khí nhưng không kết
hợp một cách chặt chẽ sâu bền được.
Tuy vậy, dưới nhăn quan Đạo Phật, mọi sự tương phùng, hội ngộ dưới
bất cứ h́nh thức nào, bằng “t́nh” hay với “nghĩa” đều được giải
thích bằng nguyên lư Duyên Khởi, Nhân Duyên, nghĩa là do cái Duyên
của những kẻ đồng thanh khí từ kiếp quá khứ ngẫu nhĩ nào đó.
Cho nên, nếu Đạo gia gọi là “Thanh Khí” th́ Phật gia lại gọi là
“Quả Kiếp Nhân Duyên” (câu 201) gồm nhiều nguyên lư cộng thông là
Nhân Quả, Luân Hồi, Duyên Khởi. Tố Như tiên sinh đă cho thấy tính
chất tương hợp này giữa Đạo gia và Phật gia, nhưng chỉ có đạo Phật
mới có thể giải thích đầy đủ và rơ ràng, lư do của sự gặp gỡ,
tương phùng của những kẻ “đồng thanh khí” mà thôi :
“Thưa rằng: “Thanh khí xưa nay
(c. 193-202)
……
Âu đành quả kiếp nhân duyên
Cũng người một hội một thuyền đâu xa”
Hai câu sau đă gián tiếp giải thích điều ở bên trên. Sự đồng thanh
khí chỉ là cái vẻ bề ngoài, nhưng “quả kiếp nhân duyên” mới chính
là nguyên nhân sâu xa bên trong đă tạo ra những mối tương phùng
vậy. Duy thức học của Phật gia quan niệm nơi mỗi cá thể đă ẩn tàng
những “Chủng tử” (bijas - cái mầm sống) nằm ở trong trạng thái A
Lại Gia Thức (Alaya) chờ đợi những cơ duyên thuận tiện để xuất
hiện. Kiều đă chứa sẵn trong tâm thức nàng những chủng tử này. Và
Đạm Tiên, Thúc Sinh, Từ Hải và Kim Trọng v.v... chỉ là những tổng
thể mà thôi. Thượng tọa Nhất Hạnh đă luận về trạng thái A Lại Gia
và chúng ta có thể qua đó xác định những điều mà Tố Như đă gọi là
“âu đành quả kiếp nhân duyên”:
“Tất cả những ǵ cá nhân đă làm trong suốt đời ḿnh, tất cả những
nghiệp nhân đă tạo, bây giờ đều hiện hữu trong A Lại Gia ở dạng
tiềm tàng. Tuy nằm trong h́nh thái chủng tử như vậy nhưng tất cả
những thứ đó đều tiếp tục biến chuyển, nghĩa là tiếp tục sinh hoạt
dưới định luật nghiệp báo: A Lại Gia là tổng thể (la somme) của
tất cả những thứ đó và ở đây, A Lại Gia được nhận định là bản thân
của nghiệp”
Thêm vào đó, Thành Duy Thức luận cũng giải nghĩa: “Tuy h́nh tướng
khác nhau, nhưng đồng một thời, đồng một chỗ, đồng cảnh sở duyên
và đồng một việc th́ gọi là “tương ứng”
.
Thành thử, Đạo gia và Phật gia đă “tương ứng”, ḥa hiệp với nhau
trong tư tưởng Nguyễn Du để kết cấu những mối tương phùng. Dĩ
nhiên, vai tṛ của đạo Phật đă được xây dựng, không những bổ túc
cho Đạo gia, mà c̣n thích nghĩa và xác định nguyên nhân của những
cơ duyên ấy nữa.
Ngoài ra, bóng dáng của Đạo gia và Phật gia cũng ḥa hợp trong
những cuộc gặp gỡ quan trọng đánh dấu những chặng đời của Thúy
Kiều cũng như với Kim Trọng và Từ Hải.
Giữa Kim Trọng và Kiều, mối lương duyên thúc đẩy hai người tương
ngộ không phải xảy ra một cách ngẫu nhiên. Cơ hội đi lễ tảo mộ,
chơi hội Đạp thanh trong tiết Thanh Minh chỉ là môi trường tốt để
những kẻ đồng thanh khí và cùng nhân duyên gặp gỡ nhau mà thôi.
Cho nên, Tố Như tiên sinh đă sắp đặt câu chuyện của đôi Kim Trọng,
Thúy Kiều:
“Trộm nghe thơm nức hương lân
(c. 155-l60)
Một nền Đồng tước khóa xuân hai Kiều
Nước non cách mấy buồng thêu
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc ṃng”
Và:
“May thay giải cấu tương phùng
Gặp tuần đố lá thỏa ḷng t́m hoa”.
“Vẫn nghe thơm nức hương lân”, là điều cho thấy Kim Trọng đă có
Duyên với hai Kiều từ lâu. V́ thế, khi những kẻ đồng thanh khí gặp
nhau, tất nhiên sẽ dễ dàng giao cảm với nhau:
“Người quốc sắc kẻ thiên tài
(c.163)
T́nh trong như đă mất ngoài c̣n e”
Đôi khi Kiều cũng tự hỏi ḷng ḿnh về cái duyên ngẫu nhĩ đó song ở
giai đoạn đầu khi mới quen biết Kim Trọng, nàng vẫn chưa ư thức rơ
về mối duyên tương phùng. Ư thức được, tức là thấy rơ cái nghiệp
của ḿnh mà duyên hội ngộ với chàng Kim Trọng chỉ là một trong
những tiến tŕnh của nghiệp quả mà thôi.
“Người đâu gặp gỡ làm chi
(c. 161)
Trăm năm biết có duyên ǵ hay không?”
Nhưng rồi khi đă thực sự quen nhau, đă trao nhau “của tín” để “làm
ghi”. Kim Trọng hay chứng nhân của đời Kiều đă định nghĩa rơ hơn
về sự gặp gỡ đó:
Sinh rằng: “Giải cấu là duyên”
(c. 419)
Kinh Thi, một trong những nguồn suối của Đạo gia đă viết:
Giải cấu tương ngộ thích ngă nguyện hề.
(T́nh cờ không hẹn mà gặp thực thỏa ḷng
mong ước của ta - Trần Trọng Kim dịch)
Và chữ Duyên trong câu này mang âm hưởng của lư Nhân Duyên của nhà
Phật. Nói khác đi, Tố Như tiên sinh đă tổng hợp trong câu trên
cùng một lúc thuật ngữ và ư nghĩa của Đạo gia và Phật gia. Tuy
nhiên, nếu xét kỹ càng, chúng ta có thể thấy tiên sinh mượn thuật
ngữ “Duyên” của nhà Phật để bổ nghĩa cho thuật ngữ “giải cấu” bằng
một liên từ là chữ là (giải cấu là duyên). Và nếu
bước thêm một bước nữa, Tố Như đă đưa ra con đường để hóa giải
những tâm sự ngổn ngang ám ảnh Kiều bởi lời “người tướng sĩ” đoán
vận mệnh nàng (duyên hiểu theo nghĩa rộng), đồng thời chọn biện
pháp làm thế nào để Kim Trọng có thể sống với mối duyên tương ngộ
đó (duyên hiểu theo nghĩa hẹp):
“Giải cấu là duyên
(c. 419)
Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”
Điều đó, cho thấy vai tṛ của đạo Phật ít nhiều đă giúp làm nổi
bật và rơ nghĩa những ǵ mà Đạo gia chỉ mới đưa ra nửa vời. Về
sau, cái được gọi là “nhân định” để “thắng thiên” chính là chữ tâm
mà Kiều đạt được. Kim Trọng, chứng nhân đời Kiều, đă nhận ra:
“Tẻ vui bởi tại ḷng này”
(c. 3209)
Mặt khác, nếu duyên hội ngộ giữa Thúy Kiều và Kim Trọng có tính
cách gắn bó “là nhiều vàng đá” th́ với Từ Hải, nàng đă lấy t́nh
tri kỷ để đối xử với nhau. Hai bên đă gặp gỡ và hiểu biết nhau,
không phải chỉ bởi “lạ ǵ quốc sắc, thiên tài phải duyên”, song
hai bên đă đồng thanh khí với nhau, có duyên với nhau:
“Hai bên ư hợp tâm đầu”
(c. 2205)
Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân”
Câu trên có âm hưởng Đạo gia thích ứng với những kẻ đồng thanh khí
như Kiều và Từ Hải. Câu dưới lại cho thấy ảnh hưởng của Phật gia
nơi cái Duyên Nghiệp giữa Từ và Thúy Kiều, ví rằng “chẳng lọ là
cầu mới thân” không cầu mong đợi chờ, nhưng khi duyên nợ đă đến
th́ không thân cũng thành thân t́nh. Nói khác hơn, một bên do “cá
nước” và một bên do “duyên ưa” (câu 2275 : Cá nước duyên ưa), một
bên là “anh hùng” mới có thể “biết anh hùng”, biết được những kẻ
đồng cung điệu và có nghiệp duyên với ḿnh vậy.
“Anh hùng mới biết anh hùng”
(c. 2277)
hoặc:
“Khen cho con mắt tinh đời
(c. 2201)
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
Một lời đă biết đến ta,
Muôn chung,
ngh́n tứ cũng là có nhau!”