SÔNG
DINH QUA THI
CA

(kỳ 4)
PHẦN 2: NƯỚC TRÔI RA BỂ LẠI QUAY VỀ NGUỒN
Một nhà phê bình văn học có mặt trong đêm ra mắt tập thơ của Phạm Dạ Thủy
đã nói: - Người Ninh Hòa có nhiều khả năng trong lãnh vực sáng tác thơ văn...,
một nhà thơ lão thành nổi tiếng khác, viết lời bạt cho một tập thơ của
người Ninh Hòa cũng nói: - ...Ninh Hòa là một trong những địa phương có
truyền thống thơ ca... Tôi cảm thấy thích thú và ngạc nhiên khi nghe những
điều này.
Các nhà phê bình đưa ra nhận xét ấy cũng có thể là để lấy lòng người Ninh
Hòa. Nhưng ta thử xem xét mặt tích cực của vấn đề. Nếu khách quan và để ý
một chút chúng ta sẽ thấy ngay điều này khi mở trang web ninh-hoa.com,
chương thơ văn chiếm phần lớn, với số lượng người tham gia và số lượng bài
thơ văn không nhỏ. Già, trẻ, bé, lớn đều có mặt. Đó chỉ mới trong một tỷ
lệ nhỏ của những người Ninh Hòa có khả năng tham gia trang web vì tiếp cận
được phương tiện truyền thông hiện đại. Khi tôi đóng sổ ninh-hoa.com và
nắm trong tay “bộ sưu tập” những bài thơ, văn viết về sông Dinh, tôi đã
hớn hở, thỏa mãn vì thấy quá đủ dữ liệu để có thể tràng giang, đại hải,
nói không thiếu một thứ gì của sông Dinh. Nhưng cứ mỗi tuần lại thấy bài
viết về sông Dinh xuất hiện trên ninh-hoa.com, tôi lại thấy mình hớ hênh,
xót xa cả ruột gan, không cam lòng mà bỏ qua. Mặc dù chiếc ghe sông Dinh
đã chuyển tải rất nặng, rất đầy nhưng tôi không sợ chìm, cứ viết và cứ cập
nhật, cứ kéo vào, chèo chống để lội sang bờ. Bên cạnh ấy, chẳng biết có
phải do duyên nợ thế nào, tôi được các thi sĩ Ninh Hòa gởi tặng các tập
thơ: Lời ru gửi gió (Tường Hoài - xuất bản 8/2003), Sông tạnh (Điềm Ca –
xuất bản 3/2001), Mưa nguồn, trầm tích, chim và rêu (Điềm Ca, Hồ Tịnh Vinh
Điềm, TP Hoàng Điềm cùng in chung – xuất bản 8/2003) và mới nhất cũng là
tập thơ tôi mong đợi - Lời ru sông Dinh (nhiều tác giả - xuất bản 12/2003)
thì tôi mới biết sợ và cảnh báo rằng con thuyền mình đang đi sắp gặp giông
bão.
Chỉ cần nghe tựa các tập thơ đã thấy chới với. Tính đến cuối năm 2003 tôi
đã có trong tay hơn 70 bài thơ, văn, biên khảo nói về sông Dinh, một số
lượng đáng nể! Chưa chắc gì những con sông lớn khác trên đất nước Việt Nam
có số bài thơ, văn nhắc đến nhiều như vậy. Rất may tôi chỉ chọn chủ đề hạn
chế là viết về sông Dinh, chứ tham lam viết rộng hơn về vùng đất Ninh Hòa
thì rõ là xem trời bằng vung và chắc sẽ sớm toi mạng vì quá gắng sức hoặc
bội thực.!
Vì lẽ gì người Ninh Hòa lại có thiên hướng về văn chương như thế thì đó là
điều cần suy ngẫm và tìm hiểu. Người xưa có nói - địa linh sinh nhân kiệt,
hoặc nói một kiểu nôm na khác - nơi nào có núi cao, sông sâu thì sinh
người tài giỏi. Với quan niệm đó, nếu đúng thì xứ Ninh Hòa đã và sẽ không
có nhân vật xuất chúng, nổi tiếng nào ghi trong lịch sử văn học nghệ thuật
hoặc lịch sử dựng nước, giữ nước như một số tỉnh bắc trung bộ hoặc miền
bắc nước ta. Vì Ninh Hòa không có sông sâu, núi cao.
Sông
Dinh không sâu thì dễ biết, độ sâu trung bình của sông Dinh không quá 2
thước, nhưng núi Ninh Hòa không cao thì ta phải so sánh. Chẳng cần phải so
sánh với những ngọn núi ở đâu xa, ta chỉ thử lấy 3 ngọn cao nhất của các
địa phương chung quanh Ninh Hòa sẽ thấy núi của Ninh Hòa xếp vào hạng thế
nào: Vạn Ninh có hòn Chảo (1564m), hòn Chát (1519m), hòn Đại Đa Đa
(1709m). Diên Khánh có hòn Giao (2010m), hòn Gia Lo (1812m), hòn Ka Doung
(1783m). Cam Ranh có MaRai (2356m), Bakoum (1403m), Ta Lô (1304m). Và Ninh
Hòa có hòn Bà ( 1361m), hòn Long (1339m), hòn Giong hay Dung ( 1290m). Như
vậy núi Ninh Hòa về độ cao được xếp ở cuối bảng, nên lại không lạc quan
lắm cho tiền đồ, tương lai con cháu chúng ta.?!
Thế nhưng như anh Hồ Văn Thinh có nói và phân tích kỹ những đặc điểm địa
lý Ninh Hòa trong ninh-hoa.com và kết luận rằng: ”Tất cả những điều nói
trên có lẽ đã đủ để chúng ta tin rằng Ninh Hòa là một địa linh.” Thôi thì
cứ nói như kiểu Hình Phước Liên là “bình thường, bình thường thôi...” chứ
mãi tìm cách chứng minh cho Ninh Hòa là xứ sở địa linh sẽ sản sinh ra
những anh hùng hào kiệt hoặc những nhân tài xuất chúng thì quá khứ đã mỏi
mắt, còn tương lai thì mờ mịt lắm ?!
Thế thì địa linh của Ninh Hòa ảnh hưởng tới người Ninh Hòa ở lĩnh vực nào?.
Chắc chắn phải có cơ sở để dẫn dắt ta vào hệ luận đó. Rõ ràng là môi
trường khí hậu, vị trí địa lý, địa chất..v.v. và nhiều yếu tố thiên nhiên
khác đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sinh hoạt, tâm tư, tình cảm
của con người sống trong môi trường đó. Có những tác động thấy rõ ảnh
hưởng, nhưng cũng có những tác động sâu xa, nhẹ nhàng và trừu tượng không
phải ai cũng có thể hiểu và lý giải được. Tôi thấy rằng: - Ninh Hòa là
vùng đất có nhiều núi xanh bao bọc chung quanh và chính giữa là đồng bằng,
trong đó tâm điểm của đồng bằng là nơi hội tụ của ba nguồn sông Dinh. Từ
đó nguồn nước chi phối và ảnh hưởng rất đều khắp, nó như quả tim của Ninh
Hòa.
Hầu hết những vùng có đồng ruộng và cuộc sống trù phú của đồng bằng Ninh
Hòa đều có các nhánh sông Dinh chảy qua: - Đầu nguồn nhánh Đá Bàn thì có
Ninh Trung , Ninh Đông. Nhánh kế thì có Ninh Thượng, Ninh Thân, Ninh Phụng.
Nhánh sông Cái thì có Ninh Sim, Ninh Xuân, Ninh Bình và khi hợp thành sông
Dinh thì chảy qua Ninh Hiệp, Ninh Đa, Ninh Giang, Ninh Phú. Nhờ có hệ
thống thủy lợi thì nước sông Dinh đã vươn xa hơn như Ninh Quang, Ninh Lộc,
Ninh Hà, Ninh Hưng. Như vậy nước sông Dinh mang phù sa đến hầu hết các
thôn làng Ninh Hòa, đã nuôi sống ruộng vườn, làm màu mỡ đất đai, tạo sự no
ấm cho người dân. Mặc dù đồng bằng Ninh Hòa không rộng lớn nhưng sản lượng
thóc lúa, hoa màu vẫn đủ để Ninh Hòa tự túc, kể cả cung cấp cho một số
vùng phi nông nghiệp như Ninh Diêm, Ninh Thủy, Ninh Hải…v.v.
Nói một cách khác, hầu như mọi người dân Ninh Hòa được sinh sống, nuôi
dưỡng, phát triển bằng hạt gạo lấy từ nước và phù sa của sông Dinh. Nhưng
điều đáng nói và liên quan đến nội dung của bài viết là dòng nước sông
Dinh đã gợi cảm, đã thấm sâu, đã vun bồi cái tâm thức của người Ninh Hòa
tạo thành những chất trữ tình, bởi sự ngọt ngào, hiền lành, êm thơ của
dòng nước, của đôi bờ rợp bóng, của bến sông dạt dào, của xóm làng yên vui
no ấm, bên cạnh núi xanh chập chùng là mây trời lãng đãng, là gió mát
trăng thanh, là mưa dầm gió bấc,.. cùng nhiều thứ khác kết tinh lại. Sông
Dinh nói riêng và sông ở miền trung nói chung có nhiều đặc điểm khác với
sông ngòi ở miền nam. Mặc dù sông ở miền đồng bằng Cửu Long rộng, sâu,
nhiều và chằng chịt nhưng lại không giàu tính “thơ”. Sông nước không có
núi non chẳng khác chi con mắt thiếu đi chân mày hoặc lông mi, trông rất
trơ trọi .Vì phương tiện giao thông chủ yếu bằng đường sông nên ghe, tàu,
và nhiều loại sinh hoạt khác rất nhộn nhịp, dòng sông không bao giờ êm đềm,
lắng dịu. Tiếng máy ghe tàu, xuồng dọc, đò ngang, sống vỗ ồn ào xôn xao
sông nước, tiếng người í ới bán buôn, vó lưới, giăng câu, các dụng cụ bắt
cá lô nhô bến bờ, thậm chí một số vùng có nhà cầu vệ sinh rải rác ven sông,
đứng ngồi thoải mái, nước sông không khi nào trong xanh và thường có mùi
sình vì con nước ảnh hưởng thủy triều khi ròng, khi lớn. Như vậy làm sao
mà nên thơ được.!!
Sự khác biệt đó phải chăng là địa linh của Ninh Hòa, đã sinh ra những
người giàu tưởng tượng, dễ xúc động, nhạy cảm và lãng mạn, thích vần điệu,
yêu thơ văn. Có phải mọi thứ đó bắt nguồn từ sông Dinh.? Những đặc điểm
trên cũng có thể có ở nhiều địa phương khác của Việt Nam nhưng Ninh Hòa
vượt trội hơn ở yếu tố nào đó. Tuy không sắc xảo, ồn ào để nổi đình, nổi
đám, để thành danh nhân nhưng người Ninh Hòa lại rất tình và điệu nghệ.
Nếu Ninh Hòa thực sự có một bản sắc văn hóa riêng thì tôi xin được gọi nó
là “văn hóa sông Dinh”.
Người Ninh Hòa không ai là không biết sông Dinh, nhưng biết tường tận về
sông Dinh không phải ai cũng dám khẳng định. Khi “địa lý sông Dinh” của
tôi xuất hiện trên ninh-hoa.com thì có ngay ý kiến của anh Vinh Hồ rằng -“
Sông Lốt là đoạn đầu nguồn của sông Dinh, có dòng nước trong quanh năm,
nên bảo rằng sông Lốt còn gọi là sông Đục là không đúng...” tôi không biết
trả lời sao.! mặc dù điều này được in thành sách đã lâu.
Khi tôi viết “ vì sông chảy qua trước dinh quan trấn thủ Bình Khang nên
người dân gọi là sông Dinh..” thì sau đó tôi tự hỏi - “vậy dinh trấn thủ
Bình Khang nằm chổ nào?” tôi lại chào thua!. Chịu khó suy luận cũng chỉ
suy được rằng – dinh trấn thủ nằm trên giao lộ của “con đường cái quan”
thời xưa ấy, con đường mà cha ông ta đi từ bắc vào nam mở cõi, với dòng
sông. Như vậy dinh trấn thủ lẩn quẩn chung quanh cầu Dinh trong phạm vi
một bán kính nào đó??!..nằm ở góc rạp Vĩnh Hiệp chăng? Hay vực đất đối
diện. Nằm ở chùa Hội Quán hoặc chùa Triều Châu.? hoặc xa hơn nữa là nằm ở
chợ Dinh.??! Và cũng chỉ tự nghi vấn vậy thôi. Sau đó tình cờ đọc bài của
anh Hồ Văn Thinh lại rất khẳng định trong sử lược Ninh Hòa rằng “dinh Bình
Khang nằm bên tả ngạn sông Dinh”. Nghe gợi ý như vậy, đầu tôi sáng lên
ngay, nó mở cho tôi một hướng suy luận tích cực - Vì trên đường đi chinh
phục ấy, đội quân của thái thú Hùng Lộc do Nguyễn Phúc Tần đề cử dư hiểu
tính chiến lược của con sông nên lấy làm phòng tuyến hoặc ranh giới và căn
cứ đồn trú chắc chắn phải nằm bên này sông, gần hậu phương miền bắc, để
khi rút binh hoặc được chi viện sẽ dễ dàng hơn nên dinh nằm bên tả ngạn là
có cơ sở để tin tưởng.
Nếu
phải quyết định chọn chính xác nơi nào thì tôi chọn dãi đất góc phần tư từ
rạp Vĩnh Hiệp qua phòng văn hoá (chi thông tin cũ), ngược về phía đường
Sắt Ninh Đông là nơi đặt dinh, thậm chí trại quân và các bộ máy cai trị
khác còn chiếm cứ một vùng kéo dài hơn nữa vì khu vực ấy phần lớn hiện tại
là đất công như bệnh viện Ninh Hòa, trường tiểu học Bình Hòa, chùa Hải
Nam, trường Pháp Việt (mặc dù trước đó hơn 200 năm, nhưng tính kế thừa về
sử dụng đất công vẫn có, tuy bất thành văn nhưng đất công thường chẳng ai
dám đụng tới). Vì nơi đó thế đất cao, rộng và bằng phẳng, hướng cửa, mặt
tiền của dinh Thái Khang và các công trình phụ trợ khác sẽ được quay mặt
về hai hướng tốt với thời tiết, khí hậu của phương nam là đông và nam. Và
tốt về quân sự vì hướng đông là con đường và nam là mặt sông, sẽ có tầm
quan sát tốt nhất và dễ kiểm soát. Còn một yếu tố nữa cũng rất có cơ sở,
cho ta xác định thêm tính đúng đắn của suy đoán trên là - con đường Trần
Quí Cáp - trục lộ xương sống qua thị trấn Ninh Hòa tương đối thẳng nhưng
không hiểu vì sao - từ chợ Ninh Hòa qua cầu Dinh vừa xuống dốc phải quẹo
phải một góc khá lớn rồi mới tiếp tục đi thẳng ,có phải chăng là vì dinh
trấn thủ án ngữ bên cạnh trái nên có một qui định (lệnh) của dinh trấn
hoặc nể sợ khu vực dinh nên người dân khi qua lại trước dinh phải né xa,
tạo một hướng đi khác như thế. Phải có một lý do mạnh mẽ nào đó mới bẻ
lệch nổi con đường cái quan như vậy?!. Qua đó chúng ta thấy rằng - lịch sử
hình thành sông Dinh nói riêng và vùng đất Ninh Hòa nói chung vẫn còn có
nhiều bí ẩn.
Việc phân tích, mổ xẻ sự kiện lịch sử trên nhằm lý giải chữ “Dinh” mà
người dân Ninh Hòa qua bao đời, đã được nghe từ khi mới lọt lòng cho đến
lúc lìa đời mà không có một cơ hội thắc mắc nào. Như vậy những yếu tố của
sông Dinh như các tên gọi, sự biến đổi dòng chảy, đổi thay của các lưu vực,
các chuyển biến nhân sinh chắc chắn đã không bất động qua thời gian. Rất
tiếc các bậc tiền nhân của Ninh Hòa ta đã không có điều kiện để ghi nhớ,
để lưu truyền cho đời sau cặn kẻ mà chúng ta chi biết một vài điểm chính
yếu và khái quát qua sử lược Việt Nam. Cũng may chữ “Dinh” có một tính gợi
hình và hàm ý rất cao để chúng ta còn dựa vào đó để truy nguyên, mà tìm ra
lý lẽ như trên.
(Còn tiếp)
Dương
Tấn
Long