

Y
HỌC 37:
Hiện
nay trước t́nh trạng bệnh nan y đang lan tràn trên thế giới, các khoa
học gia đă nghiên cứu đủ mọi phương pháp để pḥng chống kể cả áp dụng
phương pháp dưỡng sinh, y thuật Đông Phương và dược thảo. Trong quá
tŕnh nghiên cứu, các khoa học gia đă để ư tới hai nước Trung Hoa và
Nhật Bản.
Phần đông dân chúng trong hai quốc gia này có thói quen tiêu thụ đậu
nành và những sản phẩm của đậu nành trong các bữa ăn thường nhật. Nên tỷ
số những người mắc bệnh nan y rất thấp so với các nước Tây Phương và Hoa
Kỳ.
V́ thế họ đổ xô nhau đi nghiên cứu về đặc tính của đậu nành để xem có
thể ứng dụng vào y dược để điều trị một số bệnh tật hay không.
Tháng 9 năm 1996, hội nghị quốc tế lần thứ hai nhằm tổng kết các thành
quả nghiên cứu của khoa học gia về công dụng của đậu nành trong lănh vực
y học đă được diễn ra trong 5 ngày liền tại Brussels . Hơn 80 khoa học
gia đến từ khắp nơi trên thế giới đă lần lượt thuyết tŕnh về những kết
quả sưu tầm mới nhất mà họ đă thu đạt được trong lănh vực y khoa trị
liệu. Sau đây chúng tôi xin tóm tắt những thành quả đó và coi như là
những tin vui để cống hiến quư vị độc giả.
1. Đậu Nành Có Khả Năng Chữa Được Bệnh Tim Mạch
Hiện nay nhiều bằng chứng cụ thể cho thấy đậu nành có khả năng làm giảm
lượng cholesterol của những người bị bệnh cao mỡ. Những bệnh nhân này
nếu để lâu sẽ dẫn đến bệnh tim trầm trọng và có nguy cơ bị chết bất đắc
kỳ tử v́ mạch máu bị nghẽn hay tim bị kích ngất. Thực ra chất Protein
trong đậu nành có khả năng làm hạ mức độ hai độc tố LDL Cholesterol và
Triglyceride, tác nhân gây ra bệnh cao mỡ. Kết quả này rất khả quan và
công hiệu hơn hẳn việc trị liệu bằng phương pháp ăn uống theo qui thức
do các chuyên gia y tế ấn định, kể cả việc chữa được các chứng bệnh cao
mỡ trầm trọng và bệnh cao mỡ ở trẻ con.
Thêm vào đó, đậu nành c̣n có khả năng làm tăng lượng HDL cholesterol,
một chất hữu ích trong cơ thể có tác dụng đề kháng lại hai chất LDL
Cholesterol và Triglyceride độc hại kể trên. Ngoài ra đậu nành cũng c̣n
có công hiệu ngăn chận sự oxưt hóa của chất LDL Cholesterol, không cho
chúng có cơ hội chuyển hóa thành những nguyên tố độc hại khác, và pḥng
ngừa được chứng nghẽn các mao huyết quản.
Isoflavones là một hợp chất thiên nhiên hàm chứa trong đậu nành có cấu
trúc hóa học tương tợ như kích thích tố nữ oestrogen. Hiện thời người ta
chưa chứng minh được chính protein trong đậu nành hay chỉ riêng chất
Isoflavones trong protein của đậu nành là có công hiệu chữa các chứng
bệnh trên. Tuynhiên các khoa học gia đều đồng quan điểm rằng đậu nành
nói chung có khả năng trị được bệnh tim mạch, đặc biệt là chứng cao
Cholesterol trong máu.
2. Đậu Nành Chữa Được Bệnh Của Xương
Xưa nay các chuyên gia y tế đều công nhận calcium có khả năng pḥng ngừa
được bệnh xương xốp (osteoporosis), thường xảy ra trong giới phụ nữ
trọng tuổi.Bệnh này cũng có xảy ra cho nam giới nhưng với một tỷ lệ thấp
hơn.
Ngoài ra sự ăn uống theo quy thức cũng có khả năng làm cho xương được
rắn chắc. Tuy nhiên các nghiên cứu gần đây cho thấy những người thường
ăn đậu nành như dân chúng Nhật Bản cũng ít khi mắc phải bệnh xương xốp.
Người ta thí nghiệm trên loài chuột bằng cách cho chúng ăn toàn đậu nành
không những ngăn chận được chứng thoái hóa calcium của xương mà c̣n làm
cho xương được rắn chắc. Isoflavones trong đậu nành là một chất có tính
năng động có tác dụng giống như oestrogen ngăn ngừa được chất men
tyrosin kinase làm cho xương bị xốp và dễ găy.Nó cũng c̣n trợ giúp cho
tế bào xương h́nh thành vững vàng.
Một cuộc thí nghiệm khác được thực hiện bằng cách cắt bỏ noăn sào (buồng
trứng) của chuột cái để cho nó không sản xuất ra kích thích tố oestrogen
nữa, rồi cho chúng ăn toàn bằng đậu nành. Chất Isoflavones trong đậu
nành vẫn ngăn chận được sự thoái hóa của xương và làm cho xương luôn
luôn khỏe mạnh.
Những nghiên cứu gần đây cho biết những phụ nữ sau thời kỳ tắt kinh, mỗi
ngày dùng bột hay sữa đậu nành thường xuyên th́ mật độ khoáng chất trong
xương vẫn duy tŕ ở mức độ b́nh thường.Hiện nay tại Úc Châu xưởng bào
chế dược phẩm đă sản xuất ra thuốc bằng đậu nành để cho người phụ nữ
trong tuổi tắt kinh sử dụng hằng ngày rất tiện lợi.
3. Đậu Nành Có Thể Pḥng Chống Được Bệnh Ung Thư
Qua những nghiên cứu gần đây, các khoa học gia ghi nhận những người
thường dùng đậu nành hoặc các sản phẩm của đậu nành trong khẩu phần ăn
uống hằng ngày ít có nguy cơ bị bệnh ung thư nhũ hoa, tử cung, ruột già
và nhiếp hộ tuyến. Các nghiên cứu khác được thực hiện trên cơ thể súc
vật bằng cách gây cho chúng bị nhiễm bệnh ung thư rồi dùng chất
genistein hàm chứa trong đậu nành để chữa trị th́ thấy nó ngăn chận được
sự phát triển của bịnh ung thư ruột già, gan và vú.
Người ta c̣n nghiên cứu bằng cách giả tạo một sự sống như thể trạng thật
của một con người đang bị nhiễm bệnh ung thư và đặt trong ống nghiệm.
Sau đó họ trích các hợp chất từ đậu nành để chữa trị và đạt được kết quả
hữu hiệu. Những hợp chất này c̣n có khả năng ngăn chận sự cung cấp máu
để nuôidưỡng một loại tế bào đặc biệt có khuynh hướng h́nh thành các
bướu ung thư.
Hiện nay các thí nghiệm được thực hiện trên cơ thể của loài thú về khả
năng chống bệnh ung thư của đậu nành đă thành công một cách tốt đẹp. Tuy
nhiên đối với con người cần phải thực hiện thêm nhiều cuộc thí nghiệm
khác nữa để xác dịnh mức độ hữu hiệu và an toàn rồi mới công bố để sử
dụng.
Gần đây khoa học gia Yehudith Birk của trường Đại học Hebrew ở Jerusalem
đă thực hiện được một vài phương pháp đáng khích lệ, có thể chữa được
bệnh ung thư ở nhiều cấp độ trầm trọng và trong nhiều bộ phận cơ thể
khác nhau mà không cần biết bệnh đă phát sinh v́ nguyên do ǵ. Hiện nay
Cơ quan Quản Trị Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ đang cho phép áp dụng
phương pháp này để điều trị một số bệnh nhân t́nh nguyện trong bệnh viện
để thí nghiệm và kiểm chứng. Saponin và những hợp chất khác của đậu nành
cũng đang được nghiên cứu và áp dụng.
Mong rằng cuộc thí nghiệm này được sớm thành công và sẽ mang lại một tin
vui cho nhân loại trên toàn thế giới.
4. Đậu Nành Và Bệnh Thận
Trong lănh vực này, người ta nghiên cứu một cách lẻ tẻ và hiện chưa có
một kết quả thỏa đáng nào.Song vài thí nghiệm cho thấy đậu nành cũng có
ích lợi trong việc chữa trị bệnh thận. Các khoa học gia của Ấn Độ đă
chứng minh quy thức ăn uống bằng cách tiêu thụ rất ít chất béo và chất
protein rồiphối hợp thêm đậu nành trong khẩu phần hằng ngày có công hiệu
giảm được chất cholesterol trong máu.
Các cuộc thí nghiệm khác trên loài chuột chứng minh được chất Genistein
trong đậu nành có thể làm cho mạch máu được thư dăn và giảm chế được tốc
độ lọc máu của thận, nên tránh được bệnh tiểu đường. Người ta đă trích
hợp chất trong đậu nành để tiêm cho những con ḅ đă bị gây bệnh tiểu
đường th́ thấy tốc độ lọc máu của chúng trở lại mức độ b́nh thường.
5. Đậu Nành Và Ảnh Hưởng Sinh Lư Của Phụ Nữ
Aedin Cassidy và các khoa học gia của Anh Quốc đă ngiên cứu biết được
đậu nành điều ḥa chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ và kềm chế được sự phát
triển quá mức kích thích tố oestrogen của phụ nữ trẻ tuổi. V́ khi kích
thích tố này phát triển quá nhiều, người phụ nữ sẽ có sát suất dễ bị
bệnh ung thưnhũ hoa hơn.
Đối với những phụ nữ sau thời kỳ tắt kinh, dùng đến 40% đậu nành trong
khẩu phần ăn uống hàng ngày sẽ không cần phải uống thuốc hồi phục kích
thích tố mà vẫn có thể pḥng ngừa được bệnh xương xốp. Nếu cảm thấy ăn
uống bất tiện th́ có thể dùng oestrogen thiên nhiên được bào chế thành
thuốc viên từ đậu nành hiện có bày bán hợp pháp tại các tiệm dược phẩm.
6. Đậu Nành Và Sức Khỏe Của Trẻ Con
Tại New Zealand , người ta thí nghiệm bằng cách nuôi những con vẹt bằng
bột đậu nành theo công thức sữa nuôi trẻ con và báo cáo rằng không có
ảnh hưởng ǵ xấu đối với sự sinh sản và cơ quan sinh thực của chúng. Tuy
nhiên thí nghiệm ở loài vật có kết quả chưa hẳn sẽ trùng hợp với thí
nghiệm ở loài người.
Trong thập niên qua, ông Kenneth Setchel, chuyên gia nghiên cứu về đậu
nành đă báo cáo rằng trẻ con được nuôi dưỡng với sữa đậu nành có công
thức Isoflavones cao vẫn được an toàn. Trong nhiều năm nuôi dưỡng như
vậy cũng không có ảnh hưởng ǵ xấu cho đứa bé cả.
Khoa học gia Alercreutz bảo rằng người Á Châu thường ăn uống nhiều đậu
nành hơn không có ảnh ǵ bất lợi cho việc sinh sản của họ cả. Chất
Isoflavones tập trung trong thủy dịch bao bọc chung quanh bào thai tương
đồng với mức độ Isoflavones trong máu của một người mẹ b́nh thường.
Ở Nhật Bản, trẻ con khoảng 4 tháng tuổi là đă cho dứt sữa mẹ và được
thay thế bằng sữa đậu nành, được bảo đảm rằng nó sẽ có đầy đủ sức khỏe
trong tương lai vào thời kỳ khôn lớn. Lamartinière đă thí nghiệm bằng
cách cho chuột ăn chất Genistein của đậu nành sẽ tránh được bệnh ung thư
vú về sau.
Hiện thời người ta vẫn c̣n nghiên cứu để xác định rơ ràng vai tṛ của
đậu nành trong việc nuôi dưỡng trẻ con quan trọng như thế nào.
Tóm lại, qua sự tŕnh bày trên đây, chúng ta thấy quả thật đậu nành đă
có công hiệu đối với việc pḥng ngừa và chữa trị một số bệnh tật.Tuy
nhiên v́ bản thân nó xuất xứ từ một loại thảo mộc tầm thường nên trong
dân gian ít ai để ư tới.Tại Hoa Kỳ, người ta đang nghiên cứu dể nắm vững
các chứng minh cụ thể về công dụng của đậu nành rồi mới chính thức đưa
vào y khoa trị liệu.Tại Úc Châu tầm mức của đậu nành có khả năng y dược
chưa được đặt thành đề tài nghiên cứu quan trọng.Tuy nhiên trong thời
gian gần đây người ta đă bắt đầu sử dụng đậu nành để sản xuất chất
oestrogen nhân tạo và được bày bán trong các nhà thuốc tây một cách hợp
pháp để cho các phụ nữ trong tuổi tắt kinh sử dụng hàng ngày rất tiện
lợi.
Mong rằng trong tương lai, những công dụng khác của đậu nành trong lănh
vực y dược sẽ c̣n được quảng bá rộng răi hơn nữa và sẽ mang lại nhiều
hữu ích thiết thực trong việc bảo vệ sức khỏe của con người.
Người Á Châu ḿnh đă biết dùng đậu nành để chế biến nhiều loại thức ăn.
Tuy không nghiên cứu rơ ràng, nhưng may mắn ngẫu nhiên trùng hợp về giá
trị dinh dưỡng đặc biệt của nó.

Xuân
NHÂM DẦN 2022
Bs Lê Ánh

|