Câu này thích nghiă hai bàn tay ta khi khum úp lại, không
những đă biểu-đạt cả ba khoa Cổ-thiên-văn Cái-thiên, Tuyên-dạ và
Hồn-thiên, mà c̣n chất chứa Bát-quái Tiên-thiên trong ḷng bàn tay,
tả-tuyền, hữu-chuyển theo lực Coriolis để tạo nên 8 quẻ thuận-nghịch. 56
biệt-quái c̣n lại nằm gọn lỏn "Nghé Họ" (boustrophedon, do tiếng Hy-lạp
bous = con ḅ và strephein = quay lại) và xuôi ngược trên 28 lóng ngón tay
theo đúng tŕnh-tự Tạp-quái-truyện mà Khổng-Tử đă đề ra. Đấy là chưa kể
đến Quán nằm theo chu-vi ḷng bàn tay hoặc 4 Viên-đồ Biệt-quái đặt trên
hai mặt hai bàn tay. Hơn nữa, con người quả là kỳ-công tạo-hoá, trong đó
nhiều hiện-tượng sinh-hoá, di-truyền, điện-tử, điện-toán v.v. đều có thể
xẩy ra như trong thiên-nhiên vậy.
Nếu ta ngắm nghía bàn tay, ta sẽ nghiệm ra rằng: bắp thịt
ngón cái có dạng ellipsoid; mỗi móng tay mang theo 2 paraboloid dẹt khác
mầu; tế-bào da có dạng h́nh trụ; chỉ tay những người thân lập thân tức thị
sinh giờ tư giờ ngọ và có lá số tử-vi Thân Mệnh đồng cung, có dạng 2 nhánh
hyperbol. C̣n 2 bàn tay tôi lại có đường trí là 2 đoạn thẳng v.v.
Câu kết "Âm-phù-kinh" là:
陰
陽
相
勝
之
術﹐昭
昭
乎
進
乎
象
矣。(Âm
dương tương-thắng chi thuật, chiêu chiêu hồ tấn hồ tượng hỹ) (Đạo
"âm-dương tương-thắng" sáng rỡ tiến vào Tượng vậy). Vô-tích Hoàng Nguyên
Bính giải-nghĩa như sau:
Đạo Trời Đất tương-xâm nên Âm-dương tương-thắng. Phải
dùng đại-tượng tiên-thiên để thích-nghĩa (H́nh 37, tr. 114). Từ Phục qua
Di, qua Truân, qua Ích, qua Chấn, cho đến Quyết, Quyết đến Kiền, dương dần
tăng mà âm dần tiêu. Từ Cấu qua Đại-quá, qua Đỉnh, cho đến Khôn, âm dần
tăng mà dương dần tiêu. Đó là một điều. Lại lấy bất kỳ quẻ nào trong 64
quẻ như quẻ Phục, chẳng hạn, biến hào sơ được Khôn kể làm toàn-tượng và
coi là lưỡng-nghi. Biến hào nhị thành Lâm, lấy toàn-tượng coi làm
tứ-tượng. Hào tam biến ra Minh-di, lấy toàn-tượng coi là bát-quái. Hào tứ
biến ra Chấn, xem toàn-tượng như là thập-lục-sự. Hào Ngũ biến ra Truân,
lấy toàn-tượng xem là 32 Á-quái. Hào thượng biến ra Di, lấy toàn-tượng xem
là 64. Đó là toàn-số của biệt-quái. Hợp cả lại thành Thái-cực. Quẻ Phục
cũng là Thái-cực vậy. Quái-số xâm-trưởng, tượng-số xâm-tiêu. Tượng-số
xâm-trưởng, quái-số lại xâm-tiêu. Bất kỳ quẻ nào cũng đều là Thái-cực,
Lưỡng-nghi, Tứ-tượng, Bát-quái cho chí 64 biệt-quái. Đó là hai điều. Lấy
quẻ Kiền mà biến, Hào 1 biến Độn số 16, tượng là 4. Hào 2 biến Cấu mang số
32 và tượng là 2. Hào 3 biến Bĩ, số là 8, tượng cũng là 8. Hào 4 biến
Quan số là 4, tượng là 16. Hào 5 biến Bác, số là 2, tượng là 32. Hào 6
biến Khôn, số là 1 và tượng lại là Thái-cực. Tức thị đủ 64 quẻ. (Tựu
trung, Thái-cực là đại-số-trường (field) với 2 toán-tử đẳng-thặng 2 là
⊕
và
⊗).
Đó là ba điều. Phục đệ-biến
遞
變
(queue), Kiền điệp-biến
疊
變
(stack), mọi biến khác đều suy ra từ 2 biến này : điệp-biến là hậu-thiên
biến trong tiên-thiên; điệp-biến là tiên-thiên tự-biến. Một âm đối một
dương mà chưa thường là âm-dương, hỗ-bổ mà hồn-đồng. Đó là cái mà Trang-tử
gọi là : "Cốt đạo khởi bên trong ṿng tṛn, để ứng-đối với vô-cùng. Phải
cũng là một lẽ vô-cùng, trái cũng là một lẽ vô-cùng." (
齊
物
論
Tề-vật-luận) (樞
始
得
其
環
中,以
應
無
窮,是
亦
一
無
窮,非
亦
一
無
窮
也。Khu
thủy đắc kỳ hoàn trung, dĩ ứng vô-cùng, thị diệc nhất vô-cùng, phi diệc
nhất vô-cùng dă). Quái-tượng hay Thi-Quy (bói ruà và bói cỏ thi) cũng chỉ
là khí-cụ cuả đạo “Âm Dương tương-thắng” dùng để khiết-tịnh. “Âm-phù-kinh”
dạy cho ta “Đạo chí tĩnh” mà luật-lịch không thể rửa sạch được. Nhờ kỳ-khí
này ta mới có vạn-tượng, bát-quái, hoa-giáp, thần-cơ, quỷ-tàng. Đạo
Trung-dung tương-chuẩn với đệ-biến (và lập thành một lớp tương-đương).
Theo tôi, thánh-nhân tức đạo, đạo ngụ nơi khí-cụ. Đọc đến đây xin độc-giả
dừng lại một chút để đọc đoạn Dịch-truyện nói về Thánh-nhân (tr. III) và
đoạn nói về “Laws of form”, tr. 89-90.
Thế mới biết vạn-vật sinh, vạn-hoá an, vạn-niệm, vạn-thù,
vạn-tượng, vạn-số, vạn-thức, vạn-lư, vạn-đồ, vạn vân vân đều ẩn sẵn trong
Kinh, trong tâm-năo, trong bàn tay và trong lồng ngực ta và vạn-duyên giai
hoá
萬
緣
皆
化,
vạn-thiện đồng-quy
萬
善
同
歸.
Với phương-châm "Cử nhất phản tam
舉
一
反
三"
cuả Đức Vạn-thế Sư-biểu, xin quư-độc-giả cùng tôi tắm mát sông Nghi, hóng
gió Nền Vũ-vu, rồi ca hát mà về. Ca rằng:
Tượng, Số, Lư, Tâm cùng đưa đón.
Hiểu trăng rồi quên ngón tay đi.
Quát, hoàn, sáo-quản (telescopic) vân-vi,
Tóm thâu Dịch-toán cũng v́ Thánh-nhân.
Nhân nói đến trăng, tôi sực nhớ đến chữ nguyệt
月
cũng có nghĩa là tháng, là tuần trăng. Lịch ta là "Âm-dương Hợp-lịch
陰
陽
合
歷".
Bên trên chỉ mới nói đến phần dương, phần mặt trời, nghĩa là tương-quan
giữa biệt-quái với tuế
歲
tức năm tiết-khí. Bây giờ, xin nói qua phần âm, phần mặt trăng. Thiên
Nghiêu-điển trong Kinh Thư nói:
“以
閏
四
時
成
歲。Dĩ
nhuận tứ-thời thành tuế.” (Nhuận bốn mùa để thành năm tiết-khí).
“Thích-danh” nói: “月
缺
也。滿
則
缺
也。Nguyệt
khuyết dă, măn tắc khuyết dă." (Trăng là khuyết vậy. Tṛn ắt khuyết vậy).
Một năm tiết-khí là 12 tháng; môt tháng tức từ ngày sóc (trăng non) đến
ngày hối đổ đồng lấy tṛn là 29.5 ngày. Năm thường gồm 12 tháng = 12 x
29.5 = 254 ngày. Nếu ta cho mỗi hào quản một ngày, 59 quẻ, từ quẻ Kiền (số
1) đến quẻ Hoán (số 59), tức 6 x 59 = 254 hào sẽ quản một năm thường; 5
quẻ c̣n lại (Tiết, Trung-phu, Tiểu-quá, Kí-tế, Vị-tế) sẽ quản tháng nhuận.
Mỗi chương tức chu-tŕnh Méton (19 năm) sẽ dùng 7 lần 5 quẻ này.
Ta biết rằng "Nhật Nguyệt hội
日
月
會"
(conjunction) định sơ-tiết, c̣n "Nhật Nguyệt Đẩu hội
日
月
斗
會"
định trung-khí. Năm nào nhuận, tức là tuế tương-ứng, từ Đông-chí này đến
Đông-chí kế-tiếp, có đủ 13 tháng, tháng nhuận sẽ là tháng không có "Nhật
Nguyệt Đẩu hội".
Về phương-diện ngoạn Dịch, người đời Hạ chuộng Trung
忠,
người đời Thương chuộng Kính
敬,
người đời Chu chuộng Văn
文,
người đời xưa chuộng Tượng-số, Nghiă-lư hoặc Hà Lạc, người đời nay chuộng
Toán-Khoa-Kỹ và triết-lư toàn-sinh, duy-biến sở thích.
Cổ Dịch thời Xuân Thu chỉ là sách bói toán. Sau nhờ
Dịch-truyện thời Chiến-quốc mới xiển-phát thành triết-lư. Giữa thời Hán,
Mạnh-Hỉ, dựa vào thuyết tai-dị cuả các đời trước, mới sáng lập ra phái
tượng-số. Đời Tam-quốc, Vương-Bật đă thẳng tay tảo-tượng mà đề cao
nghiă-lư cuả Thập-dực và được tôn-sùng qua các đời Lục-triều, Tùy, Đường,
Ngũ-đại. Sang các đời Tống, Nguyên, các dịch-thuyết Hà-đồ/Lạc-thư, Tiên,
Trung, Hậu-thiên dần dần phát-triển và hưng-thịnh cho đến cuối đời Minh.
Nhưng sang đời Thanh, đa-số các học-giả lại bài-xích các thuyết Hà-Lạc,
Tiên, Hậu-thiên, Nghiă-lư mà trở về với Tượng-số cuả thời Hán.
Tóm lại ba ḍng Tượng-số, Nghiă-lư, Hà-Lạc cuả Dịch phân
rồi lại hợp, hợp rồi lại phân. Duy có toán-học, ngôn-ngữ duy-lư cuả
hiện-đại, mới có cơ keo sơn mà nhất quán Dịch Đạo. Đức Khổng-tử nói: Sâm
ơi! Đạo cuả ta chỉ có một lẽ mà thông suốt tất cả (LN IV/15) (
子
曰:
參
乎!吾
道
一
以
貫
之。(Tử
viết: Sâm hồ! Ngô Đạo nhất dĩ quán chi). Hẳn Ngài muốn nói đến DỊCH-ĐẠO.
Khổng-tử bắt đầu Chương VII, Hệ-Hạ, bằng câu: "Đạo
Dịch dấy lên ở thời Trung-cổ ư? Tác-giả Dịch có lo lắng ư?" (易
之
興
也。其
於
中
古
乎。作
易
者。其有
憂
患
乎。(Dịch
chi vi thư dă, kỳ ư trung-cổ hồ? Tác Dịch giả, kỳ hữu ưu-hoạn hồ?). Rồi
Ngài tiếp-tục trần-t́nh ba lần chín quẻ: Lư, Khiêm, Phục, Hằng, Tổn, Ích,
Khổn, Tỉnh, Tốn, để đề cao cung cách tác-giả Kinh Dịch xử-trí mối ưu-hoạn
cho bách-tính.
Trong lời kết bài kư "Nhạc-dương-lâu Kư
岳
陽
樓
記",
Văn-chính Công Phạm-Trọng Yêm
文
正
公
范
仲
淹
(989-1052) cũng viết:
“先
天
下
之
憂
而
憂,
後
天
下
之
樂
而
樂
歟!
噫﹗微
斯
人﹐吾
誰
與
歸﹗Tiên
thiên-hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên-hạ chi lạc nhi lạc dư! Y! vi tư nhân,
ngô thuỳ dữ quy!" (Lo trước cái lo cuả thiên-hạ, vui sau cái vui cuả
thiên-hạ ru! Ôi thôi! Nếu không có người nhân-đức đó, ta về với ai !) .
Phỏng theo lời Thiệu-tử: “Vật không ǵ lớn
bằng trời đất, trời đất sinh ra từ Thái-cực. Thái-cực tức thị tâm ta,
Thái-cực sinh ra vạn-hóa vạn-sự, tức là vạn-hóa vạn-sự của tâm ta vậy.” (物
莫
大
于
天
地,天
地
生
于
太
極。太
極
即
是
吾
心,太
極
所生
之
萬
化
萬
事
即
吾
心
之
萬
化
萬
事
也。Vật
mạc đại vu Thiên Địa, Thiên Địa sinh vu Thái-cực. Thái-cực tức thị ngô
tâm, Thái-cực sở sinh chi vạn-hoá, vạn-sự tức ngô tâm chi vạn-hoá, vạn-sự
dă.), hay lời của Lục Tượng-Sơn: “Vũ-trụ chính là tâm ta, tâm ta tức là
vũ-trụ”. (宇
宙
便
是
吾
心,吾
心
即
是
宇。
Vũ-trụ tiện thị ngô tâm, ngô tâm tiện thị vũ-trụ), hay hèn
lẽ cũng xin thưa:
Trời Đất là Tâm Ta,
Tâm Ta là Trời Đất.
Chu Dịch cực nguy-nga,
Duy-biến và duy-nhất.
Trong “Kích-nhưỡng-tập
擊
壤
集”,
Thiệu-tử đă minh-họa Thiên-tâm bằng quẻ Phục
X,
, một cách tài-t́nh :
更
此
太
玄
萬
一
天
冬
請
言
音
酒
物
陽
心
至
問
如
聲
味
未
初
无
子
包
不
正
方
生
動
改
之
羲
信
希
淡
時
處
移
半
Phiên-âm:
Đông-chí tư chi bán,
Thiên-tâm vô cải-di.
Nhất dương sơ-động xứ,
Vạn-vật vị khai th́.
Huyền-tửu vị phương đạm;
Thái-âm thanh chính hi.
Thử ngôn như bất tín,
Cánh thỉnh vấn Bào-hi.
Chuyển-ngữ-ư:
Đông-chí giữa giờ tư,
Thiên-tâm vốn bất-di.
Một dương vừa máy động,
Vạn-vật dợm sinh-kỳ.
Huyền-tửu vị c̣n nhạt;
Thái-âm thanh vi ti.
Như chẳng tin lời đó,
Xin hỏi thẳng Bào-hi.
Cuối lời Thoán quẻ Phục, Chu Hi có chú-giải: “Quẻ Phục
thấy ḷng cuả trời đất vậy” (
復
其
見
天
地
之
心
乎。Phục
kỳ kiến thiên-điạ chi tâm hồ).
Hào-từ sơ cửu nói: “Chẳng xa ǵ. Không hối tiếc ǵ. Cả
lành” (不
遠
復,
無
祗
悔。
元
吉。(Bất
viễn Phục, vô chỉ hối. Nguyên cát).
Tiểu-tượng nói: “Chưa đi xa mấy mà đă trở lại, là để
tu-thân vậy” (不
遠
之
復,
以
修
身
也。Bất
viễn chi Phục, dĩ tu thân dă).
Sau rốt, Hệ-từ Hạ-truyện VI/2&3&4 Đức Trọng Ni, ba lần trần
thuyết chín quẻ, có nói: “Phục là gốc cuả đức ... Phục tuy nhỏ mà
biện-biệt nơi vật ... Phục là để tự biết ḿnh” (復
德
之
本
也。復
小
而
辨
于
物。復
以
自
知
。Phục
đức chi bản dă. Phục tiểu nhi biện vu vật. Phục dĩ tự tri).
Trong sách “Discours de la Méthode” (1637), René Descartes
tức Renatius Cartesius (11.03.1596-11.2.1650) viết: Cogito, ergo sum (Tôi
suy nghĩ, vậy tôi hiện-tồn). Ông cũng đặt ra 4 quy-luật cho mọi cuộc
điều-tra khoa-học: 1) Không bao giờ chấp-nhận bất cứ điều ǵ chưa thấy
phân-minh; 2) Phân chia vấn-đềø ra thành nhiều tiểu-vấn-đề; 3) Giải-quyết
vấn-đề nào giản-dị nhất trước, sau đó mới lư đến các vấn-đề khó hơn. 4)
Duyệt lại mọi kết-luận để biết chắc là không sơ suất ǵ. Măi đến năm
1980, khoa-học-gia Đức mới khám-phá ra là ông bị đầu độâc bằng arsenic.
Cho đến bây giờ, di-thể và sọ cuả ông vẫn c̣n bị ḍng sông Seine
phân-cách. Thật là bất-hạnh.
Tôi lại nghĩ khác: Sum, ergo cogito. Huống hồ trong sách
"Descartes'Error: Emotion, Reason, and the Human Brain" giáo-sư
Thần-kinh-học Antonio Damasio đă chứng-minh hùng-hồn rằng vạn-cảm chẳng
qua là biểu-lộ cuả cái mà từ mấy ngh́n năm nay loài người mô-tả là
tâm-linh. Giữa Descartes của diễn-dịch và Pascal của quy-nạp việc lựa chọn
quá dễ. Sang đến thế-kỷ 21, Pascal vẫn “con người” hơn.
Mặt khác, thể-tích tỷ-lệ với tam-thừa độ dài; diện-tích
tỷ-lệ với b́nh-phương độ dài. Đối với con người đầu tṛn trán vuông, một
thùng 8 lít dung-lượng phải lớn hơn 8 lần thùng 1 lít. Nhưng theo thuyết
Tương-đối cuả nhà bác-học Einstein, tiêu-tức cuả một hắc-uyên (black hole)
tỷ-lệ thuận với diện-tích chân trời sự-kiện (event horizon), nên chỉ gấp 4
lần tin tức cuả một hắc-uyên 8 lần nhỏ hơn. Khoa-học bảo đó là giới-hạn
toàn-tức (holographic limit). Thảo nào trong Hoàng-cực Kinh-thế
43 = 64
biệt-quái mới thu về
42 = 16
sự và bát-quái dọn về tứ-tượng. Tương-tự, huyền-lực cuả
Thái-huyền-kinh không nằm trong
93 = 729
tán mà nằm trong
92 = 81
thủ. Thế mới biết "Vạn-vật đồng-quy nhi thù-đồ
萬
物
同
歸
而
殊
塗"
(Muôn vật về cùng một nơi nhưng khác lối) (Hệ-hạ V/1).
Chú ư:
VŨ-TRỤ TAM-GIÁC
Vũ-trụ của Dịch h́nh tam-giác v́ đề cao tam-tài THIÊN ĐỊA
NHÂN.
Thử tưởng-tượng một phong-cảnh chỉ chứa những vi-cấu-trúc
tam-giác luôn luôn tự-động tái-phối-trí thành những mô-thức mới. Nh́n từ
xa phong-cảnh này có vẻ điều ḥa, nhưng tiến lại gần ta sẽ phát giác đó là
ḷ cừ điều chế ra những h́nh-học quái-dị. Đây chính là mô-h́nh giản-dị của
một lư-thuyết mới được mệnh danh là “Causal Dynamical Triangulation”
(CDT), đặt ra cốt để hội-nhập luật vain-vật hấp-dẫn (Gravity) với Cơ-học
Nguyên-lượng (Quantum), công việc mà “Thuyết Dây” đă thử từ 20 năm nay.
Tuy nhiên nhiều lư-thuyết chỉ-trích là thuyết này đă áp đặt “dây” vào một
bối cảnh cố-định thay v́ phải tạo ra các vi-tử, các lực cũng như thời
không xung quanh. Trong hai thập niên 1980 và 1990 các lư-thuyết-gia này
đă tạo ra khoa “Loop Quantum Gravity” trong đó không gian là một mạng
những khối có kích-thước khoảng
10-33
cm. Tuy lư-thuyết này đă thành-công phần nào như tiên-đoán
được tính-chất của Black holes, nhưng vẫn c̣n lung túng trong việc chứng
tỏ là các không-gian vi-ty cục-bộ phải hợp lại để lập thành không gian bốn
chiều quen thuộc.
Mới chưa tṛn 10 tuổi, CDT đă vượt khỏi trở ngại hợp nhất
này và là công-tŕnh của ba lư-thuyết-gia Âu-châu là Renate Loll của
Đại-học Utrecht (Ḥa-lan),
Jan AmbjØrn
của Đại-học Copenhagen (Na-uy) và Jerzy Jurkiewicz của
Đại-học Jagiellony (Ba-lan). CDT xây doing h́nh học của không-gian từ
những cấu-trúc tam-giác giống như Buckminster Fuller đă tạo ra các ṿm
đoản-cực-tuyến từ những mặt tam-giác. Đơn-vị cấu-trúc là những 4-simplex
(tứ-kư) của không-gian 4 chiều, tương-đương với tứ-diện của không-gian 3
chiều. Trong khi tứ-diện có 4 mặt tam-giác th́ tứ-kư bị giới-hạn bởi 5
tứ-diện. Tuy mọi simplex đều bẹt, chúng có thể dính với nhau theo vo-số
mô-thức để tạo thành không-gian cong. Bởi v́ Lư-thuyết Nguyên-lượng bó
buộc cấu-trúc thời-không ở cấp vi-ti phải biến đổi thường-trực, các
khảo-cứu-gia xác-định h́nh-học của thời-không bằng cách tính xác-suất của
tất cả các h́nh-trạng khả-hữu.
Trước đây sở dĩ mọi toan tính tam-giác-hóa thời-không đều
thất-bại là v́ chúng đều dẫn đến kết quả vô-nghĩa: thời không có vô-số
kích-thước hoặc chỉ có 2 chiều trong một H́nh-hoc cong lên (Rolled-up
Geometry). CDT thành-công ở chỗ loại bỏ mọi h́nh-trạng phi-nhân-quả, nghĩa
là mọi mô-thức cho phép quả đi trước nhân, sinh con rồi mới sinh cha, sinh
cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.
Năm 2004, ba nhà bác-học kể trên dùng mô-nghĩ điện-toán
(computer simulations) để chứng tỏ rằng mô-h́nh vũ-trụ dựng nên từ muôn
ngàn simplex có 4 chiều. Mới đây họ lại chứng-minh được vũ-trụ CDT lập
thành thỏa mọi tiên-đoán của lư-thuyết tiêu chuẩn của Vũ-trụ-học hiện-đại.
Thử thách lớn lao của CDT là hội-nhập vật-chất vào
không-gian lư-thuyết để xem có thể mô nghĩ được toàn thể các phương-tŕnh
của Thuyết Tương-đối Tổng-quát không? Theo Lee Smolin của Perimeter
Institute for Theoretical Physics ở Waterloo, Ontario, Canada, một trong
các nhà bác-học khai-sáng ra Loop Quantum Gravity, nghĩ rằng CDT có
triển-vọng đạt được các tiên-đoán có thể kiểm-nghiệm được, chẳng hạn như
vi-biến của vận-tốc các quang-tử có năng-lượng cao. Theo ông, sở dĩ các
Vật-lư-gia lư-thuyết không để ư mấy đến CDT là v́ họ xa lạ với mô-nghĩ
điện-toán. Điều đó cũng dễ hiểu.
(Bổ-túc hồi 20:02:07 giờ, ngày 20.02.2007)
Theo nhà bác-học Bekenstein, con người cơ hồ là một toàn-đồ
(hologram). Tôi trộm nghĩ con người chẳng qua là một chồng trập
nguyên-lượng giữa vật-lư và dịch-lư trong giới-hạn toàn-tức. Chung cục,
một tiếng cười sang sảng bằng cả vạn tam-đoạn-luận (A horse-laugh is worth
ten thousands syllogisms).
Các thuyết Âm-dương, Ngũ-hành, Tam-tài, Tứ-tượng cũng như
các Dịch-thức, Dịch-đồ, Dịch-chế, Dịch-tượng, Dịch nhất thiết, lập thành
đa-giác chân đế cuả Kinh Dịch và đa-tướng-tập (manifold) cho Tân-Dịch-Học.
Chu Dịch luôn luôn tiến-hoá và nay đă thăng-hoa thành Tâm-Dịch xây dựng
bởi Trần Hi-di, Thiệu Khang-tiết, Chu Liêm-khê, Tŕnh Minh-đạo, Lục
Tượng-sơn và Vương Dương-minh. Các nhà trị Dịch khác quả đa-tài. Nhưng
nghĩ cho cùng kỳ lư, chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.
Tránh trời không khỏi nắng. Có chu-du dưới ṿm lục-hư cuả
Chu Dịch bao lâu chăng nữa, chung cục cũng trở về Tiên-thiên-học của
Thiệu-tử. Ngài nói:
“蓋
先
天
之
學,本
乎
伏
羲,而
備
于
文
王。“
(Nên cái học Tiên-thiên gốc ở Phục-hi mà hoàn-bị ở
Văn-vương) (“Hà-nam Thiệu-thị Văn-kiến Hậu-lục
河
南
邵
氏
聞
見
後
錄”,
Quyển V).
Như ta thấy, Thiệu-tử chủ-trương “Đạo là Thái-cực”, “Tâm là
Thái-cực” nên mới nói:
“天
由
道
而
生,地
由
道
而
成,物
由
道
而
形,人
由
道
而
行,天
地
人
物
則
異
矣,其
于
道
一
也。Thiên
do Đạo nhi sinh, Địa do Đạo nhi thành, Vật do Đạo nhi h́nh, Nhân do Đạo
nhi hành. Thiên, Địa, Nhân, Vật tắc dị hỹ, kỳ vu Đạo nhất dă. (Trời do Đạo
mà sinh, đất do Đạo mà thành, người do Đạo mà hành, Trời, Đất, Người, Vật
ắt khác nhau, nhưng đối với Đạo chỉ là một). Và cũng nói:
“語
其
本,則
天
分
而
為
地,地
分
而
為
萬
物,而
道
不
可
分
也。
其
終,則
萬
物
歸
地,地
歸
天,天
歸
道。”
(Ngữ kỳ bản, tắc thiên phân nhi vi địa, địa phân nhi vi
vạn-vật nhi Đạo bất khả phân dă.) (Nói về gốc, Trời phân ra mà thành Đất,
Đất phân ra mà thành Vạn-vật mà Đạo lại bất-khả-phân. Rốt cuộc, ắt
Vạn-vật quy về Đất, Đất quy về Trời, Trời quy về Đạo) (Hoàng-cực
Kinh-thế, Quan Vật Nội-thiên). Ngài cũng nói: "物
莫
大
于
天
地,天
地
生
于
太
極。太
極
即
是
吾
心,太
極
所
生
之
萬
化
萬
事,即
吾
心
之
萬
化
萬
事
也。(Vật
mạc đại vu Thiên-Địa, Thiên-Địa sinh vu Thái-cực. Thái-cực tức thị ngô
tâm, Thái-cực sở sinh chi vạn-hoá, vạn-sự, tức ngô tâm chi vạn-hoá, vạn-sự
dă.) (Vật không ǵ lớn hơn Trời Đất, Trời Đất sinh ra từ Thái-cực.
Thái-cực chính là tâm ta, vạn-hoá vạn-sự do Thái-cực sinh ra chính là
vạn-hoá vạn-sự của tâm ta vậy.”) (Tống Nguyên Học-án, Ngư-tiều Vấn-đáp
魚
樵
問
答).
Ngài viết trong "Kích-nhưỡng-tập
擊
壤
集",
bài "Vũ-trụ-ngâm
宇
宙
吟":