

Trần Nhân
Tông - đức Vua, Phật hoàng, Thiền sư, Thi sĩ, có một hồn
thơ trong sáng, thanh cao. Hồn thơ Phật hoàng Trần Nhân
Tông luôn hướng về Chân, Thiện, Mỹ luôn hướng đến sự hoàn
thiện và tự hoàn thiện.
1. Đức Vua, Phật hoàng - Trần Nhân Tông:
Vua Trần Nhân Tông tên “Húy là Khâm, con trưởng của
Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu,
sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11, ngày
11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái
như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung
đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử. Trên vai bên trái
có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn, ở
ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51
tuổi, băng ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức
Lăng. Vua nhân từ ḥa nhă, cố kết ḷng dân, sự nghiệp
trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của
nhà Trần”.

V
 |
ua Trần Nhân Tông là một con người có thật trong lịch sử
bằng xương bằng thịt như bao con người bình thường
khác, sinh ra và lớn lên tại kinh đô Thăng Long, Hà Nội.
Năm 1284
được tin quân giặc tập trung ở Hồ Nam tới 50 vạn
tên, Vua Nhân Tông liền trao cho Trần Quốc Tuấn chức
Quốc công tiết chế tức là tổng chỉ huy các lực
lượng vũ trang để lo chống giặc.
Ngoài ra Trần Nhân Tông còn tổ chức triệu tập các
bô lão về họp ở điện Diên Hồng để hỏi ý kiến về
đường lối giữa lúc nước sôi lửa bỏng. Hội nghị
Diên Hồng là một đại hội đại biểu nhân dân thời
ấy, đã bày tỏ quyết tâm sắt đá của toàn dân đánh
giặc đến cùng, đem lại quyền sống, quyền mưu cầu hạnh
phúc cho muôn dân Đại Việt.
Sau khi chiến thắng giặc ngoại xâm Nguyên Mông, Vua
nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, từ bỏ ngai vàng,
vào Yên Tử tu hành rồi hiển Phật…- một Hoàng Đế minh quân
kỳ tài, góp phần tô thêm trang sử vàng chói lọi của dân
tộc thời nhà Trần, tạo lập đỉnh cao nền văn minh Đại Việt.
Ngài sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258, tức vào ngày 11 tháng 11
năm Mậu Ngọ và mất ngày 16 tháng 11 năm 1308 tức vào ngày
03 tháng 11 năm Mậu Thân. Thuở nhỏ, nhà vua thường theo
vua cha lên chơi núi Yên Tử, sớm bộc lộ chí xuất gia tu
hành.
Năm 16 tuổi, được vua cha lập làm Hoàng Thái tử, Ngài
hai lần cố xin nhường ngôi lại cho em là Đức Việp,
nhưng Vua Trần Thánh Tông không cho, vì thấy Ngài có
khả năng gánh vác việc lớn.
Năm 21 tuổi, Ngài được vua cha truyền ngôi báu (1297) và đă
làm vua suốt 14 năm. V́ là bậc minh quân có biệt tài kinh
bang tế thế, Ngài có công lớn trong việc lănh đạo toàn dân
hai lần kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, xây dựng
đất nước phồn vinh.
Tháng 7 năm 1299, Ngài cho xây dựng một am thiền trên
núi Yên Tử gọi là Ngự Dược Am và theo “Thánh Đăng
Lục” tháng 10 năm ấy Vua lên núi Yên Tử xuất gia tu
hành, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Mười lăm năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng, cũng là mười lăm năm
vua Nhân Tông tu hành.
"Thế tôn bỏ ngai vàng quư báu, nửa đêm vượt thành, bỏ áo rồng
cao sang, non xanh cắt tóc, mặc chim thước làm tổ trên
đỉnh đầu, mặc con nhện chăng tơ trên vai cánh, tu pháp
tịch diệt để tỏ đại chân như, dứt cơi trần duyên mà thành
bậc chính giác. Đức tổ ta là Điều Ngự Nhân Tông Hoàng đế
ra khỏi cơi trần, thoát ṿng tục lụy, bỏ chốn cung vua ra
giữa sơn môn…"
Có điều,
nhà vua không phải cứu đời theo cách của một vị Vua, mà
theo cách của bậc thánh nhân, bậc vĩ nhân. Bởi vì
làm vua chỉ chăn dân trăm họ, làm Phật cứu độ cả muôn
loài.

Tấm gương Phật hoàng tuy ẩn mà lại hiện, tuy mờ mà lại
sáng. Ngài vượt qua cái b́nh thường để trở thành cái phi
thường. Cho nên, hàng ngàn năm qua, bao triều đại thịnh
suy trị v́ đất nước, bao người đă làm vua. Song có ai được
mọi người ngưỡng vọng, tôn thờ và nhớ mãi như Phật
hoàng Trần Nhân Tông?
2. “Xuân cảnh” (Cảnh xuân)
là một bài thơ thất ngôn, tứ tuyệt (7 chữ 4 ḍng), chỉ có
28 chữ ngắn gọn, đă diễn tả được một nét đẹp ngoại cảnh,
của cuộc sống và sự an nhiên, tự tại của tâm hồn nhà thơ
Phật hoàng Trần Nhân Tông.
春
景
楊柳
花
深
鳥
語
遲,
畫
堂
簷
影
暮
雲
飛。
客
來
不
問
人
間
事,
共
倚
欄
杆
看
翠
微。
Xuân
cảnh
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ tŕ,
Hoạ đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thuư vi.
Gs Nguyễn
Huệ Chi dịch :
Cảnh xuân
Chim
nhẫn nha kêu, liễu trổ dày,
Thềm
hoa chiều rợp bóng mây bay.
Khách
vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng
tựa lan can nh́n núi mây.
Hải Hà dịch :
Cảnh xuân
Lặng
lẽ chim trời hót liễu xanh
Chiều
buông mây phủ vẽ thềm tranh
Chẳng
ai cùng khách bàn nhân thế
Măi
ngắm màn đêm đứng tựa thành.
Phan Thành Khương dịch :
Cảnh xuân
Đám
hoa liễu rậm, chim hót chậm;
Bên mái tranh vàng, mây chiều bay.
Khách đến chẳng hỏi chi chuyện thế,
Chỉ tựa lan can nh́n mê say.
Bài dịch theo Thi viện :
Cảnh xuân
Chim
kêu hoa liễu nở đầy
Họa
đường thềm rợp bóng mây may
Khách
vào chẳng bàn chuyện thế sự
Đứng
tựa lan can ngắm cảnh trời.
Bài thơ “Xuân cảnh" có lẽ Đức vua Trần Nhân
Tông viết khi đă nhường ngôi cho con là Trần Thuyên - Trần
Anh Tông (1293 - 1314) để lên núi Yên Tử tu Thiền và sáng
lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt
tả cảnh mùa xuân nơi am thanh chiều vắng, có hoa dương
liễu trổ dày, có tiếng chim kêu líu lo, nhẩn nha, chậm
răi; trên bầu trời th́ áng mây chiều đang lướt bay bồng
bềnh, nhẹ nhàng. Trong cảnh tịch tĩnh yên ắng ấy, có vị
khách đến thăm, chẳng hỏi chuyện nhân gian, thế sự, cũng
không tham vấn về Thiền mà chỉ đứng tựa lan can bên thềm
hoa cùng với Thiền sư nh́n ngắm màu xanh nhạt nḥa, mờ mịt
ở nơi chân trời xa. Cảnh hiện thực trong buổi tà dương đến
đây đă biến thành tâm cảnh. Chủ và khách cùng im lặng,
trong cảnh thiên nhiên vắng lặng... Cảnh vật và ḷng người
như ḥa làm một. Chủ cũng thế mà khách cũng thế. Cái vô
ngôn ở cuối bài thơ như thể hiện ư vị Thiền đạo, đạt đến
chỗ giải thoát.
Cuộc sống trôi qua thật nhẹ nhàng, êm đềm, thanh thoát: hoa
liễu nở tưng bừng, chi chít, chim hót chậm răi, líu lo,
mây chiều đang bay lang thang, nhẹ nhàng, lửng thửng … Và,
người khách đến chơi nhà “chẳng hỏi chi thế sự”,
chẳng hỏi chuyện đời, chuyện người, chuyện thế gian… Chẳng
hỏi không phải do thờ ơ, vô tâm, không phải mặc kệ, mà chỉ
v́ chẳng có điều ǵ phải hỏi, phải bận tâm.
Xă hội Đại Việt, đất nước Đại Việt dưới thời Vua Trần Nhân
Tông, sau hai lần quật ngă bọn xâm lược phương Bắc là một
xă hội, một đất nước thái b́nh, an lạc.
“Xuân cảnh” của Phật hoàng Trần Nhân Tông
không chỉ được gợi cảm hứng từ một sự giao mùa, từ đất
trời tự nhiên mà chủ yếu là được phát sinh từ một tâm hồn
xuân, từ một cơi ḷng xuân.
Đọc bài thơ “Xuân cảnh” của Phật hoàng Trần
Nhân Tông, chúng ta khát khao phục hưng mùa xuân thời
Trần, đất nước thanh b́nh, mùa xuân mà “khắp thôn cùng
xóm vắng, đâu đâu cũng không có tiếng hờn giận, oán sầu”
(Nguyễn Trăi)
Đúng, thơ là tiếng ḷng, là tiếng nói cảm xúc của thi nhân
trước hiện thực. Phan Phu Tiên trong lời tựa Việt âm
thi tập đă viết: “Tâm hữu sở chi, tất h́nh ư
ngôn. Cố thi dĩ ngôn chí dă.” (Trong ḷng có điều ǵ, tất
thể hiện ra lời nói. Cho nên, thơ là để nói cái chí vậy).
Chí ở đây cũng là tâm, là cảm xúc, là tấm ḷng. Cảm
hứng mùa xuân trong bài thơ “Xuân cảnh”
của đức Vua – Phật hoàng - Sơ tổ ḍng Thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử là như thế!
TRÍ
BỬU
Trước thềm Năm Mới Xuân Bính Thân -
2016

    


|