
THÚ ĐỌC SÁCH:
Thơ Đọc Chữ NGUYỄN DU
NỖI BUỒN CỦA NGUYỄN DU
Đúng
như giới nghiên cúu Truyện Kiều đă viết: thơ Việt Âm Nguyễn
Du đa số là thơ buồn. Những nhà nghiên cứu lớp đầu vào
khoảng thập niên 20 thế kỷ XX, như
Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim
chủ trương nguyên do mối buồn của Nguyên Du là bởi ḷng ông c̣n tưởng nhớ
nhà Lê. Tới cuối thập niên thứ 8 thế kỷ XX, Đào Duy Anh
,
cũng giữ nguyên một lập luận ấy. Trưóc đó khoảng vài chục năm có Hoài
Thanh, Trương Chính, rồi tới lớp gần đây, vào những năm cuối thế kỷ XX,
nhóm Mai Quốc Liên, bác bỏ lập luận này, nhưng không có ai đề ra được một
lập luận khác đầy đủ khả năng thuyết phục.
Đi t́m một ư nghĩa giải
thích nỗi buồn của Nguyễn Du là chủ đích của những trang kế tiếp.
Để đạt tới mục đích đó,
người đọc thơ Nguyễn Du trở lại quan điểm của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim:
“Thơ Nguyễn Du mang đậm nét buồn.”
Chữ buồn này, như đă
bàn trong phần Mở Lời, không những là chủ đề của ba tác phẩm chính của văn
học cổ điển Việt Nam: Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm và Đoạn Trường
Tân Thanh mà c̣n là chủ đề của những bài ca dao trong dân gian, than van
nỗi khổ phải đi lính xa nhà, cũng như mối nhớ thương của những lứa đôi
trắc trở t́nh yêu.
Chữ buồn này hiểu là
chữ mélancolie trong tiếng Pháp, người đọc sẽ gặp Georges Minois,
tác giả cuốn Histoire du Mal de Vivre, de la mélancolie à la dépression
,
và thấy là chữ buồn của Nguyễn Du là nỗi buồn của con người, đặc biệt là
con người nghệ sĩ, trải dài từ thượng cổ tới ngày nay, của khắp mọi sắc
dân.
Trong địa hạt văn học
nghệ thuật, nỗi buồn của con người giữ một vai tṛ quan trọng. Nhà hiền
triết Hy Lạp Aristote (445-386 tcn) đă nói:
Presque tous les hommes
talentueux et sages ont été mélancoliques.
Đến cuối thế kỷ thứ
XIX, Dostroievski cũng viết tương tự
Les vrais grands hommes
doivent éprouver une immense tristesse sur terre.
Sau Aristote cả hai
ngàn năm, Robert Burton (1577-1640) là một một mục sư kiêm văn sĩ, người
Anh Quốc, đă được giới nghiên cứu coi là tiêu biểu cho những văn nhân mang
nặng nỗi buồn. Ông có một nếp sống trầm lặng đơn độc, sống bằng một lợi
tức đạm bạc. Nhưng ông lấy làm măn nguyện và nói: “Tôi chẳng giầu mà cũng
chẳng nghèo, tôi chẳng có ǵ nhiều trong tay, mà cũng chẳng uớc ao ǵ
khác. Tất cả sở hữu của tôi là một chồng sách nát. Thú đọc sách là một nét
điển h́nh của ngựi mang nặng mối đa sầu. Robert Burton tự xét ḿnh rất
khe khắt, ông nghi ngờ chính cái hiểu biết của ông, ông nói: “Tu ne peux
pas avoir une pire idée de moi que celle que j’ai de moi-même
. Càng buồn ông càng dấn thân vào việc sáng tác. Cuốn sách ông hoàn tất có
trên dưói hai ngàn trang. Nội dung cuốn sách bàn tới nhiều trạng thái của
nỗi buồn của con người. Ông mô tả đặc điểm của con người giẩu sầu cảm
:
“cùng cục đam mê, [...] luôn luôn lo lắng, đa nghi, thận trọng, có lúc rất
hào phóng nhưng nhiều khi rất dè xẻn, thường thường bất măn ngay với chính
ḿnh và với người chung quanh hay với cả những truyện không liên quan tới
bản thân, [...] nói ít, chẳng bao giờ khen ai và cũng không thích người
khác khen ḿnh; dường như thường xuyên ch́m đắm trong ṿng suy tư [...] ưa
cưộc sống đơn độc, đi dạo một ḿnh, nằm dài suy nghĩ suốt ngày, để trí
tuởng tượng bay bổng khắp đó đây, và nh́n đời như xem một tấn tuồng trên
sân khấu.”
Nội dung, cuốn Anatomie
de la mélancolie của Robert Burton không chỉ bàn riêng về mối sầu cảm của
con người, mà thật ra là bàn về thân phận con người với những g̣ bó chật
hẹp, ty tiện và hoang tưởng, vắn tắt là bàn về nỗi khổ làm ngựi,
le mal de vivre.
Sang thế kỷ XVIII,
Emmanuel Kant (1724-1804), triết gia ngựi Đức từng được coi là triết gia
lớn nhất trong thế kỷ đó, đă đề cao mối buồn của văn nhân mở đầu cho ḍng
văn học lăng mạn tại Âu Châu. Theo ông, mối sầu cảm này đă giúp cho các
nhà thơ nhà văn cũng như các nghệ sĩ khác đạt tới mức tuyệt đỉnh của nghệ
thuật. Người nghệ sĩ đặt tới tuyệt đỉnh, nhưng vẫn mang nặng nỗi buồn,
chán sống, v́ tiềm thức nhậy cảm sắc bén của họ không cho phép họ chấp
nhận những lề thói nhỏ nhen giới hạn thân phận con người. Emmanuel Kant
viết
:
Celui que ses émotions
portent à la mélancolie n’est pas appelé mélancolique [...]. Cet être, en
particulier, a un sentiment du sublime. Toutes les sensations du sublime
possèdent pour lui une fascination plus grande que les charmes passagers
du beau [...]. L’individu de disposition mélancolique se soucie peu de
l’opinion des autres [...] C’est pourquoi il ne dépend que de son propre
jugement [...], sa constance se transforme parfois en obstination [...]
L’amitié est sublime [...] La vérité est sublime, et il hait le mensonge
et la tromperie. [...] La soumission abjecte lui est intolérable; il aime,
en revanche, inspirer l’air de la liberté dans sa noble poitrine. Toutes
les chaines, depuis les chaines dorées du courtisan jusqu’aux lourdes
chaines du galérien, lui sont odieuses. Il est, pour lui-même et pour les
autres, un juge sévère; et il n’est pas rare qu’il éprouve une immense
lassitude de lui-même et du monde.
Cũng trong thế kỷ thứ
XVI và XVII, mối buồn của người nghệ sĩ biến thái thành nỗi khổ làm ngựi.
Người nghệ sĩ tự hỏi ư nghĩa của đời sống, một câu hỏi không bao giờ có
giải đáp thỏa đáng. Câu hỏi này đưa con nguời tới chỗ đối mặt với cái
chết.
Bá tuớc Holbach
(1723-1789) viết
:
“Il est bon d’établir
quelques principes propres à diminuer notre attachement pour la vie, et
par conséquent à nous faire regarder la mort avec indifférence”.
Denise Diderot
(1767-1837) xác định:
“Il n’y a qu’une
vertue: la justice; qu’un devoir: de se rendre heureux; qu’un corollaire,
de ne pas se surfaire la vie, et de ne pas craindre la mort.”
Cũng trong thế kỷ
XVIII, chứng sầu cảm của văn nghệ sĩ trở thành một cái dịch tự sát, đổi
cái khổ làm người lấy cái chết mà không một ai rơ chết rồi sẽ ra sao.
Đến giữa thế kỷ XX,
Réné Le Senne
xuất bản cuốn Traité de la Caractérologie. Theo Le Senne, cả hai loại
người, hoặc giầu sầu cảm hoặc dễ xúc động đều cùng nặng mang một mối buồn.
Điển h́nh cho loại người dễ xúc động là những tên tuổi lừng lẫy trong văn
học như Byron, Chateaubriand, Stendhal, Baudelaire, Verlaine, Rimbaud,
Musset, Poe, Dostroevski ... Với loại ngựi này mối buồn thựng chỉ thoảng
qua, v́ lẽ họ sẵn sàng tự t́m cách trút bỏ. Mối buồn của loại người giầu
sầu cảm thụng xâu đậm hơn, kéo dài suốt đời, ảnh hưỏng tới đời sống tinh
thần, điển h́nh là Rousseau, Vigny, Kierkegaard, v.v...
H́nh ảnh con người giầu
sầu cảm theo Réné Le Senne tương đồng với h́nh ảnh con người sầu cảm theo
Robert Burton. Con người giầu sầu cảm thường nhậy cảm với thay đổi thời
tiết; đi t́m niềm yên tĩnh, thích suy tư; thường viết nhật kư sâu kín,
journal intime, không chỉ dành riêng cho ḿnh, mà c̣n ghi lại không nhũng
chỉ là sự việc gợi lên mối suy tư của tác giả, mà cả những cảm nghĩ riêng
của tác giả về những sự việc đó. Người giầu sầu cảm thường có khuynh hưóng
tự trách ḿnh; người đó không than thân trách phận cho riêng ḿnh mà than
thở cho thân phận con người. Bản tính nhút nhát, lánh đời, nên ngoài xă
hội người giầu sầu cảm thựng ít nói, nhưng đôi khi mở miệng th́ tỏ ra
rất đam mê, nói không ngừng. Thiếu thực tiễn, người giầu sầu cảm thường
t́m cho ḿnh một công việc làm ăn chắc chắn, không cần có lương cao bổng
hậu, miễn đủ sống: thường thường là một cuộc sống công chức. H́nh ảnh tiêu
biểu cho loại người này là nhà thơ Stéphane Mallarmé (1842-1898), dầu
không muốn dậy học, nhưng suốt đời làm nghề thầy giáo.
Bản tính thụ động,
người giầu sầu cảm thựng tránh đương đầu với mọi hoạt động đ̣i hỏi một
chút cố gắng chủ động. Luôn luôn t́m cách ra khỏi nỗi nhàm chán, nhưng
luôn luôn tụ đặt câu hỏi: ‘để làm ǵ?’ trước khi khởi đầu mọi hành
động, khiến người giầu sầu cảm như sợ hăi tương lai, sợ hăi nỗi nhàm chán
để ch́m trong nhàm chán.
Người đọc thơ Nguyễn Du
không khỏi thoáng thấy Nguyễn Du, qua ba tập thơ Việt Âm, có những nét
tiêu biểu của ngựi giầu sầu cảm mô tả trên đây, kể từ Aristote, qua
Robert Burton, Emmanuel Kant, và Réné Le Senne.
Thế nên, trở lại với
Nguyễn Du, qua ba tập thơ Việt Âm của ông, người đọc thấy đó là những
trang nhật kư sâu kín, journal intime. Ông viết cho riêng ông, như
để tự nhắc nhở nên sống ra sao để t́m thấy niềm an lạc trong cơi người
ta này. Giới nghiên cứu về nỗi khổ của cuộc sống, mal de
vivre
,
cho rằng, nhu cầu viết cho riêng ḿnh, là triệu chứng của sự bất ổn,
biểu thị nỗi buồn [...] và uớc vọng đi t́m niềm an lạc. Nhật kư
sâu kín khác với tự truyện. Tự truyện thường là những câu truyện chủ quan
bày tỏ ư kiến riêng của tác giả về một vấn đề cộng đồng, và tác giả thựng
khéo dùng bút thuật để nhắm đi tới một mục đích đă chọn sẵn, dầu đôi khi
phải bóp méo sự thật. Nhật kư sâu kín đa số thành thực hơn tự truyện: tác
giả thựng rút tỉa kinh nghiệm hay ghi lại một quyết định, đứng trước một
sự việc đă xẩy đến với ông ta.
Hơn nữa, người đọc ba
cuốn thơ Việt Âm như đọc ba cuốn nhật kư sâu kín của tác giả c̣n thấy là
Nguyễn Du, khác với số đông các tác tác giả viết về nỗi khổ làm người, bởi
lẽ Nguyễn Du không chỉ dăi bày cái khổ làm người của riêng ông, mà người
đọc dường như cảm thấy là ông c̣n ghi lại những kinh nghiệm sống, những
kinh nghiệm sống đă giúp ông vượt ra ngoài cái khổ làm người, đạt được một
cuộc sống thân tâm an lạc.
Nhưng ba cuốn thơ Việt
Âm của Nguyễn Du không phải là ba cuốn sách chở Đạo. Ba cuốn thơ đó
chỉ là ba cuốn nhật kư sâu kín ghi lại phản ứng của Nguyễn Du suốt hai
chục năm đối mặt với nỗi khổ làm ngựi. Phản ứng đó là phản ứng của một
con ngựi sầu cảm thấm nhuần tư tường Tam Giáo Đồng Tôn, trên đường đi t́m
kiếm và đă đạt được niềm an lạc, ataraxie, cho thân và tâm, đối mặt với
nỗi khổ làm người.
Giải pháp của Nguyễn
Du, đi t́m an lạc cho thân tâm là tương nhượng và thỏa hiệp, trước tiên,
với chính ông như một nhà nho uyên thâm, đồng thời thoả hiệp được với một
nếp sống của một người hiểu biết sâu rộng về Phật pháp cũng như kinh sách
Lăo Trang .
T́m ra những thành quả
mà Nguyễn Du đă đạt được trên đường tiến tới an lạc thân tâm mà ông ghi
lại trong ba cuốn thơ Việt Âm là chủ đề của nhưng đoạn sau.
Khởi đầu là niên biểu
vắn tắt của Nguyễn Du. Giới nghiên cứu cho biết Nguyễn Du ra đời trong một
gia đ́nh đại quư tộc, tại phường Bích Câu, Thăng Long. Năm ông mười tuổi
th́ cha ông, Nguyễn Nghiễm mất, Chúa Trịnh phong tưóc Huân Dụ Đô Hiến
ĐạiVương, thượng đẳng Phúc Thần. Năm ông mười ba tuổi th́ mẹ ông qua đời,
ông sống trong sự đùm bục của ông anh cả khác mẹ, Nguyễn Khản, lúc dó đă
làm thượng thư bộ lại trong phủ chúa Trịnh . Ông đi thi hương năm mười tám
tuổi, đậu tú tài, và lấy vợ là con gái của Đoàn Nguyên Thục. Tập ấm làm
Chánh Thủ Hiệu Hiệu Quân Hùng Hậu, một chức quan vơ ở vùng trung nguyên
Bắc Bộ.
Năm ông hai mươi mốt
tuổi, Nguyễn Huệ ra Bắc diệt chúa Trịnh, Nguyễn Khản mất ở Thăng Long. Ba
năm sau Nguyễn Huệ phá quân Thanh. Nguyễn Du tản cư về Quỳnh Côi, quê vợ,
sống nhờ Đoàn Nguyên Tuấn, anh vợ ông, lúc đó làm thị lang bộ lại cho nhà
Tây Sơn, suốt sáu năm.
Năm ông hai mươi sáu
tuổi, anh ông là Nguyễn Quưnh dấy quân chống nhà Tây Sơn, bị bắt và bị
giết. Quân Tây Sơn triệt hạ dinh cơ họ Nguyễn Tiên Điền.
Năm ba mươi mốt tuổi,
ông toan vào Gia Định, theo nhà Nguyễn, viêc không thành, ông bị bắt nhưng
chỉ bị giam ba tháng rồi tha.
Sáu năm sau, vua Gia
Long diệt Tây Sơn, Nguyễn Du ra làm quan với nhà Nguyễn. Năm ba mươi chín
tuổi ông được cử đi tiếp sứ nhà Thanh sang phong vương cho vua Gia Long.
Cùng năm đó ông xin từ quan. Triều d́nh thăng chức cho ông và đổi ông vào
kinh đô Phú Xuân. Năm ông bốn mươi ba tuổi lại xin về hưu lần thứ hai,
triều đ́nh lại thăng quan cho ông và bổ làm Cai Bạ tỉnh Quảng B́nh. Bốn
năm sau ông lại được thăng Cần Chánh Điện Học Sĩ và cử làm chánh sứ sang
triều đ́nh nhà Thanh. Năm sau ông đi sứ về, thăng Hữu Tham Tri bộ lễ. Ông
hoàn tất Bắc Hành Tạp Lục và Đoạn Trường Tân Thanh.
Bốn năm sau ông mất,
thọ năm mươi lăm tuổi.
Dọc theo thời gian cuộc
sống của tác giả, Thanh Hiên Thi Tập ghi lại cho người đọc thấy những
kinh nghiệm sống của Nguyễn Du trong những năm tháng lưu lạc tản cư cùng
những ngày tháng đầu tiên ông ra làm quan với triều Nguyễn. Tập thứ hai,
Nam Trung Tạp Ngâm ghi lại kinh nghiệm sống của ông trong những năm tháng
ông làm quan tại kinh thành Huế, và tại tỉnh Quảng B́nh. Tập thứ ba ghi
lại những cảm nghĩ của ông trong chuyến ông đi sứ sang triều đ́nh nhà
Thanh.
Thanh Hiên Thi Tập gồm
nhưng bài thơ Nguyễn Du làm khi ở tuổi ba mươi. Theo sách Luận Ngữ
đó là tuổi:
三 十 而 立
tam thập nhi lập
nghĩa là:
ba mươi tuổi biết tự
lập
chữ lập ở trong
câu trên đây, theo những nhà chú giải Luận Ngữ là giữ đưọc đạo lư, tự lập
về đạo đức. Trong thực tế tuổi ba mươi là tuổi lập công danh sự nghiệp.
Riêng Nguyễn Du, như
ông khắt khe tự phê phán trong bài Tự Thán II:
書 劍 無 成 生 計 促
Thư kiếm vô thành sinh
kế xúc
Nghĩa là:
văn vơ đều không thành,
sinh kế bức bách
Văn ông mới trúng tam
trường, vơ ông tập ấm với chức Chánh Thủ Hiệu Hiệu Quân Hùng Hậu của ông
cha nuôi ở vùng Thái Nguyên, quả thật là cả hai đường đều chưa thành, và
sinh kế bức bách trong cảnh tản cư, ở đậu bên quê vợ.
Nhưng tới trang cuối,
người đọc cảm thấy Nguyễn Du vững chắc vào tuổi:
四 十 而 不 惑
tứ thập nhi bất hoặc
nghĩa là:
bốn mươi tuổi chẳng
nghi hoặc
Không c̣n điều ǵ nghi
ngờ, qua thơ Việt Âm của Nguyễn Du là ông không c̣n ǵ nghi hoặc về con
đường ông đă chọn để sống suốt đời ông. Ông đă chọn con đường ra làm quan
với Triều Nguyễn, như ông ghi lại trong Nam Trung Tạp Ngâm, và ông ra làm
quan với phong cách của riêng ông.
Sang tuổi năm mươi:
五 十 知 天 命
ngũ thập tri thiên mệnh
Biết được mệnh trời,
theo các nhà b́nh giải sách Luận Ngữ, là không c̣n cần tới sự “chẳng nghi
ngờ” nữa. Đó là những bài thơ Nguyên Du ghi trong Bắc Hành Tạp Ngâm. Đó
chính là những bài thơ của những ngựi đă khéo sống để khéo chọn cái chết
cho ḿnh.
Suốt ngoài hai chục năm
đó, Nguyễn Du đă đi t́m và đă đạt được an lạc cho thân tâm, và ông cũng đă
an lạc ra khỏi cơi ngựi ta. Đó là những ǵ Nguyễn Du ghi lại
trong ba tập thơ Việt Âm, để lại cho hậu thế.
Việc làm này đ̣i hỏi ở
Nguyễn Du một hành động can đảm vượt ra ngoài sách Luận Ngữ
:
士 而 懷 居 不 足 以 為 士 矣
Sĩ nhi hoài cư bất túc
dĩ vi sĩ hỹ
nghĩa là:
“kẻ sĩ mà nghĩ đến việc
ở cho thanh nhàn, chưa đủ làm kẻ sĩ vậy.”
Lời Khổng tử dậy trên
đây ứng dụng cho những ngựi tự nhận thiên chức làm kẻ sĩ, sống chết v́
hai chữ kẻ sĩ, theo đúng ư Khổng Tử:
朝 聞 道 夕 死 可 矣
Triêu văn đạo tịch tử
khả hỹ
nghĩa là:
Sáng nghe đạo, tối chết
cũng được
Nguyễn Du không thuộc
loại người này. Ông suốt đời tương nhượng và thỏa hiệp với nếp sống Khổng
Giáo để t́m an lạc cho thân tâm. Ông ghi lại những kinh nghiệm sống này
trong ba tập thơ Việt Âm. T́m hiểu những kinh nghiệm nói trên của Nguyễn
Du là chủ đích của những trang sau.
Thanh Hiên Thi Tập mở
đầu bằng bài Quỳnh Hải Nguyên Tiêu. Bài này dường như lời tựa của tập thơ.
Nguyễn Du ngắm trăng rằm tháng giêng, không có rượu trong tay như Lư Bạch,
nhưng vui cùng trăng tṛn như gặp lại ngựi quen biết từ ba chục năm qua,
trong cảnh anh em ông ly tán v́ loạn lạc, bạn bè tri kỷ không có một ai ở
gần, tóc trên đầu ông đă bạc, và năm tháng vội vă trôi qua. Bài thơ không
chỉ ghi lại nỗi buồn của Nguyễn Du, mà c̣n cho ngựi đọc thấy nỗi cô độc
của tác giả cùng ḷng yêu thiên nhiên của ông. Nỗi buồn của Nguyễn Du là
nỗi buồn của một con người nghệ sĩ, thấy được cái đẹp, mặc dầu đang ở
trong cảnh khó khăn của cuộc sống. Đúng như ḷi Julia Kristeva
:
[...] la mélancholie,
équilibrée par le génie, est coextensive à l’inquiétude de l’homme dans
l’Être.
Thế th́, phải chăng nỗi
buồn của Nguyễn Du là nỗi buồn cho thân phận con người, nhất là
con người trong giới sáng tác thơ văn, nhiều tư duy, như nhận xét của
Aristote:
Tous les hommes qui
furent exceptionnels en philosophie, en politique, en poésie ou dans les
arts etaient [...] manifestement mélancoliques
Hai bài Tự Thán I, là
lời ông tự giới thiệu trong hiện cảnh. Ông than cho ông thân đă suy tóc đă
bạc, danh vẫn chưa thành. Nhưng cảnh khó khăn này dường như tại tính trời
sinh, có cố gắng lắm th́ cũng như cắt ngắn chân hạc, kéo dài chân vịt, như
lời Trang Tử: chỉ hại cho tính trời, mà vô ích. Chi bằng để mặc cho đại
hóa xoay vần. Sang bài thứ hai, ông than rằng bởi thông minh mà tổn hại
đến thiên chân, sự nghiệp văn chương chưa có nên sao nói được rằng trời
đất ghen. Tài văn vơ của ông không có đất dùng, âu là vào rừng xuống tóc
sống với thiên nhiên nh́n mây bay nghe thông reo. Lời tự giói thiệu cho
thấy ông dường như chưa định hướng được cuộc sống: chưa quyết tâm xuất hay
xử.
Trong bài Vị Hoàng
Doanh, Nguyễn Du dùng h́nh ảnh con ngụa uống nuớc dưới chân thành của Lăo
Tử để tả cảnh chiến trận đă tàn, và h́nh ảnh ánh lửa đom đóm là h́nh ảnh
chính sự lúc đó chưa rơ rệt. Ông đưa ra một nhận xét xác đáng là xưa nay
không có triều đại nào vững bền được ngàn năm. Cảnh sông núi trước mắt
ông, ngọn đèo Ba Dọi núi xanh rờn ngăn đường vào xứ Thanh, cho thấy cái
khó khăn ông đang phải đương đầu. Cảnh phù du của danh lợi là điều Nguyễn
Du nh́n thấy tận mắt trong gia đ́nh của ông. Cảm xúc của ông khi ra chơi
giang đ́nh, gần làng ông là cảnh ngày năm 1771, khi ông mới sáu tuổi, cha
ông, Nguyễn Nghiễm, thăng chức Đại Tư Đồ, về hưu, được chúa Trịnh cho ba
chiếc thuyền hải mă đưa về làng, như ông ghi lại trong bài Giang Đ́nh Hữu
Cảm. Mới đó mà biết bao nhiêu sự thay đổi ở kinh đô, làm buồn ḷng nhà
thơ. Đó là lần độc nhất ông nói tới gia đ́nh ông trong cả ba tập thơ Việt
Âm. Trong suốt cả ba tập thơ Việt Âm đó, đây là lần đầu tiên, Nguyễn Du
lần nhắc đến tính vô thường của các triều đại, và sau đó c̣n nhắc đến điều
này trong nhiều bài khác, dường như để lấy đó làm một trong những lư do
khiến ông không hăng hái lao hết ḿnh vào ṿng công danh.
Trở về với thực tế, qua
bài Bất Mỵ, ông cho thấy cảnh thiếu đói đe dọa gia đ́nh ông: cóc vào ở
trong nhà bếp, nền nhà đất ẩm giun đùn chui lên. Ông không có kế nào hơn
là ngâm chương Vấn Thiên của Khuất Nguyên để hỏi trời cao.
Trong hai bài U Cư
Nguyễn Du ghi lại cảnh sống của ông trong nhưng ngày tản cư ở nhờ nơi quê
vợ ông. Ông buồn v́ thấy ḿnh cô độc nơi xứ lạ quê người. Đồng thời dường
như ông đi ẩn trốn, phải giả khờ dại, giữ ǵn lời ăn tiếng nói, pḥng
thân, tránh né, nghi kỵ mọi ngụi. Nhưng trong cảnh cùng cực đó, ông vẫn
thấy ḿnh thành tri kỷ với Vương Xán, thời cuối nhà Hán, người đất Lạc
Dương phiêu dạt sang đất Kinh Châu, tác giả bài Đăng Lâu Phú .
Hai bài Mạn Hứng là
những bài Nguyễn Du nói với chính ông, mà người đọc dường như thấy đó là
một bài ông tự cười chính ông, hay đúng hơn là ông nghiêm khắc tự xét
chính ông. Ông buồn v́ trong cảnh ăn nhờ nơi băi biển bờ sông, mà vẫn c̣n
vương vấn giấc mơ gác vàng, đầu đă bạc mà chưa thoát khỏi nghĩ đến công
danh, khiến ông thẹn với người hàng xóm vui với cảnh xe nhỏ ngựa gầy.
Trong bài thứ hai, ông cho hay là hiện đang sống trong cảnh chân không
bén rễ mà ông chỉ muốn vui vói văn nghiệp, nhưng cũng có đôi lúc nh́n
tóc trắng trên đầu, ông lại muốn đi t́m yên tĩnh trong lẽ Đạo.
Sang xuân, ông c̣n đang
bị bệnh, nh́n ánh trăng ông nhớ về xóm cũ bên sông Lam, nơi quê hương của
ông mà thấy ḷng ông băng giá. Đó là chủ đề của bài Xuân Dạ, một chủ đề
ông thựng nhắc tới trong suốt cả ba tập thơ.
Ư muốn về với Đạo, như
ông viết trong bài Sơn Thôn là được bước ra khỏi ṿng phù thế, để
sống tại một làng nhỏ miền núi, cách biệt hẳn với xă hội bên ngoài, xóm
nhỏ như mô tả trong áng thơ Đào Nguyên Kư của Đào Tiềm
mô tả một nhóm người trốn bạo chúa vào ẩn náu trong núi.
Ư muốn trở về với Đạo
dường như đến với Nguyễn Du sau khoảng mựi tuần ông bị quan quân nhà Tây
Sơn bắt giam trên đường ông vào nam tính truyện theo chúa Nguyễn rồi ông
được tha và phải quay về quê nhà. Bắt đầu là câu thứ sáu trong bài Thôn
Dạ:
障 消 時 覺 夙 心 空
Chướng tiêu thời giác
túc tâm không
nghĩa là khi nghiệm
chướng tiêu tan là lúc chữ tâm cũng là chữ không. Câu thơ đậm mầu thiền
này cho thấy Nguyễn Du từ lâu đă quay về đọc sách tôn giáo để t́m sự nâng
đỡ tinh thần. Trong câu thứ tám lần đầu tiên chữ
笑, tiếu, nghĩa
là cười xuất hiện trong thơ Nguyễn Du.
Mầu Thiền c̣n đậm nét
trong thơ Nguyên Du trong bài Đạo Ư. Ông dùng tới chữ tâm và
tĩnh tâm của thiền học làm thi liệu. Ông mô tả tâm ông yên tĩnh và
thấm nhuần Phật pháp như bóng trăng trong nước lặng ḷng giếng. Niềm tĩnh
lặng đó, dầu có bị bàn tay người khấy động rối chỉ chốc lát lại tĩnh lặng.
Giữ cho tâm tĩnh lặng chính là điều Nguyễn Du đeo đuổi suốt đời.
Dường như Nguyễn Du
không chỉ riêng đọc sách thiền, mà ông c̣n đọc cả sách Đạo Giáo. Câu thứ
tám bài bài Mộ Xuân Mạn Hứng ông viết:
何 如 及 早 學 神 仙
Hà như cập tảo học thần
tiên
nghĩa là sao chẳng cấp
thời học đạo thần tiên.
Bưóc đường đ́ t́m yên
tĩnh qua sách Thiền Lăo dường như, không hơn tác dụng của rượu, chỉ có thể
giúp cho Nguyễn Du khuây khỏa trong chốc lát, hoạ ra chỉ có thơ văn giúp
ông khây khỏa như ông viết trong bài Mạn Hứng.
三 蘭 囪 下 吟 聲 絕
Tam lan song hạ ngâm
thanh tuyệt
點 點 精 神 遊 太 初
Điểm điểm tinh thần du
thái sơ
nghĩa là ba gị lan bên
song cửa, tiếng ngâm dứt, tinh thần bay bổng tới cơi thái sơ.
Dường như t́nh bạn mang
lại cho Nguyễn Du nhiều an ủi hơn là t́m về với tôn giáo. Trong mùa xuân
đó, Nguyễn Du giă biệt với một người bạn mà ông ghi lại trong bài Lưu Biệt
Nguyễn Đại Lang. Điểm đáng ghi nhận trong bài là câu thứ ba:
亂
世
男
兒
羞
對
劍
Loạn thế nam nhi tu đối
kiếm
dịch là:
Ngắm gươm thời loạn
thẹn ḿnh
dường như thanh gươm
nhắc tới thời gian ngắn ngủi Nguyễn Du tập ấm chức quan vơ, mà nay ông
nh́n thấy thanh gươm không khỏi tự thẹn vói ḿnh. Đây là lần thứ nhất ông
nói tới thanh gươm của ông. Vắng bạn tri kỷ, Nguyễn Du trở về với mảnh
trăng ngà, người bạn tri kỷ trung thành, không bao giờ dời bỏ ông, như
ông đă viết trong bài Quỳnh Hải Nguyên Tiêu mở đầu Thanh Hiên Thi Tập.
Trong bài Tống Nguyễn
Hữu Sĩ Nam Quy, câu thứ hai có ba chữ khinh vơng la, nghĩa là coi
thường màng lưới. Giới nghiên cứu cho ba chữ đó là h́nh ảnh mô tả việc vua
Gia Long bắt đầu áp dụng chính sách chiêu dụ nhân sĩ Bắc Hà. Tiếp theo
là việc đất nuớc nay đổi chủ, ông dửng dưng đứng ngoài, đồng thời ông buồn
v́ cảm thấy ḿnh vô dụng. Ông khiếp sợ việc chui vào lồng công danh,
h́nh ảnh của con đường ra làm quan, và nghĩ đến truyện ẩn thân mà ông h́nh
dung bằng h́nh ảnh con rắn ḅ về hang. Ở trong cảnh đó ông nhàn tản với
gió mát trăng thanh nơi quê nhà.
Rồi trời nơi ông tản cư
vào thu. Ông ngao ngán ngồi đếm lại những ngày đẹp trời trong năm,
viết thành bài Thu Chí cho thấy là cảnh ăn nhờ ở đậu đă dài
nhiều năm, lá vàng rơi, gió heo may rung rèm cửa, tiếng ốc tàn đêm, mái
tóc sớm bạc, đó là cảnh u uất không lối thoát của ông. Cảnh thu c̣n là
hứng thơ của ông trong hai bài Thu Dạ, trong đó ông ghi lại cảnh ông nằm
bệnh bên bờ sông Tuế, và cảnh ông nghe tiếng chầy đập vải mà lo cho gia
đ́nh ông thiếu áo mặc rét.
Sang bài Tạp Ngâm,
Nguyễn Du tă rơ nỗi buồn của ông trong cảnh tản cư sống nhờ. Ông cố quên
đi mọi truyện thực tế nhỏ mọn mà ông gọi chung lả truyện ruồi xanh; cảnh
sống chật hẹp làm ông thấy như đang sống trong tổ mối. Lần thứ hai ông
nhắc tới thanh gươm của ông:
寥
落 壯
心 虛
短 劍
Liêu lạc tráng tâm hư
đoản kiếm
dịch là:
Tráng tâm cùn nhụt
thẹn gươm
Khác với lần thứ nhất,
ông thẹn với thanh gươm v́ thời loạn cầm thanh gươm trong tay mà vô phương
hành động, lần này ông thẹn với gươm v́ tráng tâm của ông dường đă lụi
tàn.
Lần thứ ba Nguyễn Du
dùng h́nh ảnh thanh gươm của ông làm thi liệu là lần ông viết bài Ninh
Công Thành nhân một buổi đi qua bức thành cổ này. Thành Ông Ninh do trấn
thủ Nghệ An Trịnh Toàn, em của chúa Trịnh Tráng xây cất để chống quân chúa
Nguyễn. Ngày Nguyễn Du qua đó, cây cối mọc um tùn cả trên thành cả dưới
chân thành, tuy c̣n dấu vết nơi giếng bếp, chỗ trú quân, nhưng nay, thẩy
chỉ là cảnh phù du của cuộc sống. Trịnh Toàn sau đó bị cháu là Trịnh Tạc
lên nối ngôi chúa nghi ky, gọi về kinh hạ ngục và giết chết. Trước bi cảnh
đó, ông nh́n mây trắng vỗ gươm mà ca. Nguyễn Du không cho biết nội dung
bài thơ ông ngâm bên thành ông Ninh, nhưng đă có lần ông thẹn với thanh
gươm v́ nỗi tráng tâm đă lụi tàn, th́ người đọc khó có thể h́nh dung ra
lời thơ ông ngâm bên thành Ông Ninh là lời một bản hùng ca của người có
chí cầm gương lập công danh.
Lần thứ tư Nguyễn Du
dùng h́nh ảnh thanh gươm là lần ông viết câu thứ sáu bài Kư Hữu:
腰 間 長 劍 掛 秋 風
Yêu gian trường kiếm
quải thu phong
dịch là:
Gió thu lồng lộng bên
lưng kiếm dài
Thanh kiếm dài không
c̣n nằm trong tay Nguyễn Du mà chuyển biến thành thanh gươm giắt bên lưng
một người bạn c̣n đứng vững trước đầu gió.
Chuyển biến của h́nh
ảnh thanh gươm dùng làm thi liệu trong bốn bài thơ trên đây của Nguyễn Du,
xen lẫn với cái lo lắng thực tế về truyện cơm áo của gia đ́nh, phải chăng
là chuyển biến của ư muốn muốn cầm gươm đi lập công danh của ông: mỗi ngày
một thêm mờ nhạt?
Đằng khác ư muốn buông
bỏ công danh dường như mỗi ngày một rơ rệt hơn trong thơ của ông. Công
danh chỉ là đám mây nổi như ông kể lại ngày cha ông vể hưu với hai chiếc
thuyển hải mă đưa về giang đ́nh bên sông Lam, mà nay bên giang đ́nh chỉ
c̣n lau sậy trên băi hoang. Đó là h́nh ảnh đổ nát của bức thành ông Ninh
với cây cối gai góc mọc um tùm.
Người đọc ông không
khỏi nhớ tới một tác giả ngựi Pháp, Alfred de Musset, ngày mới mười sáu
tuổi, hằng say mê bộ quân phục đỏ thắm của chiến binh pháo thủ. Sau khi
đeo gù lên vai, chàng trai tự nhủ: “Ce n’est que celà!”, có thế thôi
à!, rồi từ đó Alfred de Musset nhắc lại những chữ này mỗi lần ông sắp
sửa thành tựu bất cứ một truyện ǵ. Lúc mọi người c̣n đang hăng say xây
mộng, Alfred de Musset đă biết đó chỉ là ảo tưởng, cũng như khi mọi người
chạy theo danh lợi, Nguyễn Du đă biết là danh lợi chỉ là cái lồng cầm nhốt
con người.
Cũng trong nhưng năm
tháng tản cư này, Nguyễn Du buồn khổ v́ nhớ quê huơng. Ông không nhớ tới
những ngày vàng son của gia đ́nh ông. Ông nhớ tới những h́nh ảnh rất thông
thuờng như một ánh trăng trong, một bến đ̣ đông ngày cuối năm như ông viết
lại trong bài Xuân Dạ, ông nhớ bạn xưa, nhớ anh em ông đă lâu chưa có thư.
Ḷng nhớ quê đeo đẳng ông suốt trong ba tập thơ: ngày ông vào kinh làm
quan tại triều, cũng như ngày ông vào Quảng B́nh làm quan tại trấn, hay
sau đó đi sứ sang Trung Quốc. Chỗ nào dường cũng như chỗ nào, tất cả đều
xa lạ vói ông, người đọc dường thấy như ông thiếu yên ổn tại mọi chốn khác
với quê hương của ông. H́nh ảnh quê hương mà Nguyễn Du đặc biệt nhớ tới,
trong lúc xa quê là thú đi săn. Ông lấy biệt hiệu là Hồng Sơn Liệp Hộ,
nghĩa là ngựi thợ săn Ngàn Hống. Với cái thú đi săn, như ông viết trong
bài Liệp, ông dành mũ áo cân đại cho người, ông t́m vui với lũ hươu nai
trong rặng Hồng Lĩnh, để khuây khỏa chứ không để kiếm lợi, ông ưa thích
mùi cỏ non, ông lắng nghe tiếng chó sủa bên kia núi. Ông vui với Đạo, xe
đưa lọng đón ông kệ người. H́nh ảnh Hồng Sơn Liệp Hộ đi săn trong bài
Liệp, gợi cho người đọc h́nh ảnh của người đàn ông đi câu mà Văn Vương gặp
ở đất Tang, ‘người đi câu, mà câu không phải là câu, không phải là kẻ
cầm cần câu mà có câu. Thường câu chơi mà thôi’
,
hay h́nh ảnh của Trang Tử ngồi câu bên bờ sông Bộc: ‘muốn sống để lê
đưôi trong bùn mà không muốn chết để được thờ phụng’ như con rùa thần
.
Trong mạch suy nghĩ
trên đây, Hồng Sơn Liệp Hộ có bài Hành Lạc Từ I. Trong bài này Nguyện Du
nói tới cái thú nhấp rượu với thịt chó. Nai quê có tiết thơm thịt béo,
rượu tăm uống cả trăm chén không màng truyện tỉnh say. Đó là cái thú ở cơi
đời này. Cái thú
Sống ở đời ăn miếng dồi
chó
Chết xuống âm phủ biết
có hay không.
Ông dẫn theo Nam Hoa
Kinh của Trang Tử là Bá Di, Thúc Tề chết đói trên núi Thái Dương v́ chữ
danh nào có hơn ǵ Đạo Chích và Trang Cược một tên cướp của, một tên cướp
nước của người, để cùng chết v́ lợi. Con người sống lâu nhất cũng chỉ
trong ngoài tám mươi tuổi, việc chi cần tính truyên đường dài lưu danh
muôn thủa. Bữa nay c̣n thịt cầy, c̣n be rượu, c̣n bữa say. Mất c̣n trước
mắt đó mà nào có ai hay. Việc danh lợi là việc ông chẳng màng tới.
Tiếp theo ư bài Hành
Lạc Từ I, Nguyễn Du nh́n thấy mọi sự quanh ông tất cả đều vô thường. Cuộc
sống mau tàn như cánh hoa đào, như ông viết trong bài Hành Lạc đệ nhị thủ.
Trước cảnh vô thường đó, Nguyễn Du mời mọi người, hay chính là tự cho phép
ḿnh t́m vui trong chén rượu, trong tiếng đàn tiếng ca của người kỹ nữ. Ư
đó không có ǵ mới lạ, v́ từ đời nhà Đường Lư Bạch cũng mời bạn chung vui
với chén ruợu tiếng ca. Nguyễn Du đưa ra lư do, một lư do mà ông suy nghĩ
rất nhiều đó là danh lợi có ích ǵ cho đời sống. Ông đưa thí dụ điển h́nh
là Vương Nhung, suốt một đời dùng đủ mọi cách lo làm giầu lúc chết bao
nhiêu của cải để lại trần gian đủ bấy nhiêu. Rồi tới Phùng Đạo người thời
Ngũ Đại, làm quan lớn suốt bốn triều Đường, Tấn, Hán, Chu, thờ mươi ông
vua, đỉnh chung nhất đời rồi không vẫn là không. Giầu sang âu cũng chỉ như
đám mây nổi. Ai ai rồi cũng sẽ phải chết. Xin mời bạn uống thêm chén rượu
này. Một ngày nữa đang tàn.
Trái với phần đông thi
nhân thường lấy rượu tiêu sầu, trong cả ba tập thơ Việt Âm, Nguyễn Du chỉ
có chừng năm sáu bài nói tới rượu. Dường như ông t́m khuây khỏa cùng với
những bạn tri kỷ của ông qua những bức thư ông viết gửi bạn, tỷ như hai
bài Kư Hữu .Trong bài thứ nhất, số 36 có câu:
一 天 明 月 交 情 在
Nhất thiên minh nguyệt
giao t́nh tại
nghĩa là t́nh bạn chúng
ta như trăng sáng đầy trời. Rồi trong bài Kư Hữu thứ hai, số 51, có câu
鴻 山 山 月 一 侖 明
Hồng Sơn sơn nguyệt
nhất luân minh
Nghĩa là Ngàn Hống có
một vừng trăng núi sáng tỏ. Người đọc thấy rơ ư thơ của tác giả lấy h́nh
ảnh vừng trăng sáng tiêu biểu mối giao t́nh của ông với bạn. Ư thơ này
nhắc người đọc nhớ tới một câu trong bài thơ Lư Bạch viết tiễn Vương Xương
Linh bị giáng chức đổi đi Long Tiêu:
我 寄 愁 心 與 明 月
Ngă kư sầu tâm dữ minh
nguyệt
nghĩa là:
Xin gửi theo ánh trăng
mối buồn của tôi
Người bạn trong bài Kư
Hữu I này hẳn không những là một tri kỷ với Nguyễn Du, mà c̣n là người
đồng chí với ông, coi việc đời như mây nổi, bên lưng người bạn này vẫn c̣n
đeo một thanh kiếm dài.
Người tri kỷ với Nguyên
Du trong bài Kư Hữu mang số 61 là một người ở kinh đô, . Giới nghiên cứu
cho rằng người đó ở Thăng Long, nhưng không biết đích xác là ai. Nhưng
hiểu như vậy dường không ổn, v́ câu thứ tư Nguyễn Du viết:
一 州 何 事 小 功 名
Nhất châu hà sự tiểu
công danh
nghĩa là đáng ǵ một
chút công danh nhỏ ở một châu, chứng tỏ là Nguyễn Du lúc đó đă ra làm quan
với triều nhà Nguyễn, và kinh đô lúc đó là ở Phú Xuân.
Điều đáng lưu ư là
Nguyễn Du nói rơ tâm sự của ông. Tự cho ḿnh không có cốt cách làm quan,
chưa chết th́ c̣n muốn làm bạn cùng hươu nai. Ông thèm được thảnh thơi nằm
bên song bắc, b́nh yên vô sự đề tâm thần vào đến cơi hư vô.
Cái thú làm bạn với
hươu nai của Nguyễn Du làm người đọc nhớ tới h́nh ảnh Jean Jacques
Rousseau (1712-1788) một văn nhân cũng giầu sầu cảm như Nguyễn Du, lấy
thiên nhiên làm nguồn an ủi suốt một đời đầy tư duy quanh cái khổ làm
người.
Người đọc thấy là
Nguyễn Du đi t́m tri kỷ trong sách vở, làm bạn với người đời trước, một
việc mà Mạnh Tử gọi là thượng hữu
.
Trong việc làm bạn với ngựi xưa này, ông đă ghi lại trong bài Độc Tiểu
Thanh Kư, mô tả cảm tưởng của ông khi đọc truyện và thương cảm người tài
cao mệnh mỏng. Bài thơ kết bằng hai câu:
不 知 三 百 餘 年 後
Bất tri tam bách dư
niên hậu
天 下 何 人 泣 素 如
Thiên hạ hà nhân khấp
Tố Như
Hai câu trích dẫn trên
đây, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, trong lời tựa quyển Truyện Kiều, cho hay đó
là lời Nguyễn Du khẩu chiếm khi sắp mất.
Toàn thể bài thơ đă là
đề tài cho nhiều bài tranh luận. Điểm tranh luận là câu hỏi Nguyễn Du sáng
tác bài thơ này trong thời điểm nào. Có phe nói là ông sáng tác trong
chuyến đi sứ lúc qua mộ Tiểu Thanh bên núi Cô Sơn. Nhưng trong bản chữ nho
Bắc Hành Tạp Lục không chép bài này. Có phe lại cho rằng Nguyễn Du nhân
đọc truyện Tiểu Thanh Kư mà viết nên bài thơ này. Có người lại vin vào
luật thơ, để thấy chữ tri, đứng thứ hai trong câu thứ 7, là một chữ
vần bằng không niêm với chữ vận, vần trắc, đứng thứ hai trong câu
thứ 6, và kết luận là bài thơ thất niêm, hai câu trích dẫn trên đây là do
có ngựi đă ghép vào sáu câu trên của bài thơ.
Bùi Kỷ và Trần Trọng
Kim lẩy câu Kiều số 106, trong lời Thuư Vân trách Thúy Kiều:
Khéo dư nước mắt khóc
người đời xưa
rồi viết tiếp sau hai
câu khẩu chiếm trích dẫn trên đây:
Vậy nay ta đọc Truyện
Kiều, mà có “khóc người đời xưa” th́ những người thức giả hẳn không ai cho
là “khéo dư nước mắt nữa”.
Trong mạch thơ của bài
Độc Tiểu Thanh Kư, Nguyễn Du đọc thơ Tiểu Thanh Kư, rớt nưóc mắt thương
nàng, như tiếc thương một người tri kỷ, rồi ông tự hỏi ba trăm năm nữa sẽ
có bao nhiêu người cũng khóc thương ông, như khóc thương ngựi tri kỷ, tựa
như lúc này ông khóc thương nàng Tiểu Thanh. Phải chăng đó cũng là một
nét điển h́nh của những người giầu sầu cảm, luôn luôn thiếu bạn, luôn
luôn đi t́m người tri kỷ?
Kể từ bài Kư Hữu mang
số 61, cho tới hết Thanh Hiên Thi Tập người đọc đếm được mười bảy bài thơ
Nguyễn Du viết sau khi ra làm quan với triều đ́nh nhà Nguyễn. Việc ra làm
quan này dường như ảnh hưởng nhiều tới ư thơ của Nguyễn Du: không c̣n mối
nghi ngờ nên xuất hay nên xử, không c̣n những lo lắng về cơm ăn áo mặc
hàng ngày cho gia đ́nh, trái lại ư thơ dường như mang phong thái của một
người đă tự vạch cho ḿnh một nếp sống phù hợp với ḿnh .
Theo niên biểu Nguyễn
Du ông nhận một chức vụ khiêm tốn: Tri Huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu,
trấn Sơn Nam. Trong bài Kư Hữu mang số 61, ông mô tả chức vụ này bằng câu:
一 州 何 事 小 功 名
Nhất châu hà sự tiểu
công danh
nghĩa là chút công danh
nhỏ ở một châu có đáng kể chi.
Nhưng thực tế chút công
danh nhỏ này chút bỏ gánh lo cho truyện sinh sống của gia đ́nh đè nặng
trên vai ông trong hơn mười năm tản cư hồi cư vừa qua. Đồng thời cũng cho
phép ông đi du ngoạn đề vịnh đó đây.
Thế nên, người đọc thơ
như thấy mừng cho Nguyễn Du và chợt nhớ tới một cảnh tương tự của nhà thơ
Đường Bạch Cư Dị ghi lại trong bài ngũ ngôn sau đây:
中 隱
Trung Ẩn
大 隱 住 朝 巿
Đại ẩn trụ triều thị
小 隱 入 丘 樊
Tiểu ẩn nhập khâu phàn
丘 樊 太 冷 落
Khâu phàn thái lănh lạc
朝 巿 太 囂 諠
Triều thị thái hiêu
huyên
不 如 作 中 隱
5
Bất như tác trung ẩn
隱 在 留 司 官
Ẩn tại lưu ty quan
似 出 復 似 處
Tự xuất phục tự xử
非 忙 亦 非 閑
Phi mang diệc phi nhàn
不 勞 心 與 力
Bất lao tâm dữ lục
又 免 飢 與 寒
10
Hựu miễn cơ dữ hàn
終 歲 無 公 事
Chung tuế vô công sự
隨 月 有 俸 錢
Tùy nguyệt hữu bổng
tiền
君 若 好 登 臨
Quân nhược hảo đăng lâm
城 南 有 秋 山
Thành nam hữu Thu San
君
若 愛
遊 蕩
15
Quân nhuọc ái du đăng
城
東 有
春 園
Thành đông hữu Xuân
Viên
君 若 欲 一 醉
Quân nhược dục nhất tuư
時 出 赴 賓 筵
Th́ xuất phó tân diên
洛 中 多 君 子
Lạc trung đa quân tử
可 以 恣 歡 言
20
Khả dĩ tứ hoan ngôn
君 若 欲 高 臥
Quân nhưọc dục cao ngọa
但 自 深 奄 關
Đăn tự thâm yểm quan
亦 無 車 馬 客
Diệc vô xa mă khách
造 次 到 門 前
Tạo thứ đáo môn tiền
人 生 處 一 世
25
Nhân sinh xử nhất thế
其 道 難 兩 全
Kỳ đạo nan lưỡng toàn
賤 即 若 涑 餒
Tiện tức nhược thúc nỗi
貴 則 多 憂 患
Quư tắc đa ưu hoạn
唯 此 中 隱 士
Duy thử trung ẩn sĩ
致 身 吉 且 安
30
Trí thân cát thả an
窮 通 與 豐 葯
Cùng thông dữ phong ước
正 在 四 者 間
Chính tại tứ giả gian.
dịch là:
Trung Ẩn
Đại ẩn ở triều đô
Tiểu ẩn vào non ngàn
Non ngàn quá hẻo lánh
Triều đô
quá náo huyên
5
Chẳng như làm trung ần
Ẩn náu tại ty quan
Vừa xuất lại vừa xử
Chẳng bận củng chẳng
nhàn
Chẳng lao tâm lao lực
10
Lại thoát cảnh cơ hàn
Suốt năm không công sự
Tháng tháng có bồng
tiền
Bằng hứng muốn trèo non
Thành
nam có Thu San
15Bằng
hứng muốn du ngoạn
Thành Đông có Xuân Viên
Bằng hứng say túy lúy
Chằng thiếu dịp cỗ bàn
Lạc
Đô nhiều quân tử
20Nói
năng khá phóng túng
Bằng hứng muốn nghỉ
ngơi
Cửa ngoài lỏng then cài
Ngựa xe khách liền văn
Ngừng trưóc cửa ghé
thăm
25Sống
trong cơi thế nhân
Đôi bề khó vẹn toàn
Sợ nghèo khổ đói rách
Lo giầu sang hoạn nạn
Duy có trung ần sĩ
30Được
an lạc thân tâm
Cùng thông và thiếu dư
Đứng chính giữa bốn
bên.
Bạch Cư Dị (772-846) tự
là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn Cư Sĩ, là một nhà thơ đời Đường, nổi tiếng
ở Việt Nam với áng thơ dài Tỳ Bà Hành đă được nhiều người dịch sang tiếng
Việt, và ông c̣n vang danh trên khắp thế giới với bài Trường Hận Ca. Ông
đậu Tiến Sĩ năm Trinh Nguyên (800) được bỗ giữ chức Tả Thập Di. Năm Nguyên
Ḥa thứ X (815) do vụ hạch tội việc tể tưóng Vũ Nguyên Hành bị hành thích
và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, ông bị nhóm quyền thần kết tội đầy ra làm
Tư Mă Giang Châu, sau đổi làm thứ sử Hàng Châu rồi thứ sử Tô Châu, cuối
cùng đươc triệu về kinh làm Thái Tử Thiếu Phó năm 829. Năm Hội Xương thứ
hai (842), ông về hưu với hàm thượng thư bộ H́nh, rồi mất tại Hương Sơn,
Lạc Dương.
Giới nghiên cứu cho
biết là Bạch Cư Di viết bài Trung Ẩn trên đây trong thời gian ông lănh
chúc Thái Tử Thái Phó, biệt phái về Lạc Dương. Thái Tử không hề tới Lạc
Dương, thế nên ông như sống trong cảnh ‘bán hưu trí’. Theo ông, làm quan
ở triều đ́nh là đại ẩn không tránh được cảnh huyên náo; vào non sâu
tu tiên là tiểu ẩn phải sống trong cảnh lạnh lẽo. Trung ẩn
là giữ một chúc quan nhỏ ở ngoài trấn, như vậy là vừa xuất lại
vùa xử, việc quan chẳng bận chẳng nhàn, chẳng phải lao tâm lao lực,
suốt năm không phải gánh vác việc nặng, tháng tháng vẫn có lương bổng đều
đều, dể bề đi tham quan nơi danh lam thắng cảnh; cỗ bàn có người mời mọc
say sưa; muốn nghỉ muốn làm tùy tiện; luôn luôn được sống trong cảnh tâm
thân an lạc; đứng giữa cùng thông dư thiếu.
Trong nếp sống trung ẩn
đó, Bạch Cư Dị đă để lại cho hậu thế truyền tụng cả hàng ngàn bài thơ. Chủ
trương xử trong khi xuất, xuất trong khi xử của ông đề cao
trong bài Trung Ẩn này là mẫu mực cho giới nhà nho toàn cơi Đông Á đi t́m
an lạc trông cuộc sống theo nề nếp nhà nho.
Nếp sống trung ẩn không
được người đời ca tụng như nếp sống của những vị anh hùng hào kiệt. Nhưng
một đời được mấy anh hùng? là câu tục ngữ quen biết. Sống cuộc sống
b́nh thường cho đáng sống cũng không phải là dễ. Cũng như sống đời trung
ẩn cũng không phải là dể. Muốn sống đời sống trung ẩn phải biết buông bỏ
danh, buông bỏ lợi, và buông bỏ quyền, tóm lại buông
bỏ tất cả những cái mà người đời đeo đuổi và gọi chung là công thành
danh toại. Nhưng con người chạy theo lợi, theo danh và theo quyền chỉ
v́ lo sợ thất bại, lo sợ nghèo khổ, lo sợ không được ai
biết đến ḿnh, ba mối lo sợ đó tạo nên nỗi khổ làm người. Muốn
đưọc sống nếp sống trung ẩn Nguyễn Du đă phải dầy công tự thuyết phục
ḿnh, như thấy rơ trong hai tập thơ Việt Âm kế tiếp.
Trở lại thơ Việt Âm
Nguyễn Du, từ ngày Nguyển Du ra làm quan với triều nhà Nguyễn, từ ngày ông
bắt đầu cuộc sống trung ẩn, mối buồn của ông có tên mới, đó là mối buồn
nhớ quê. Trong thơ ông không c̣n bị dao động trước đối việc xuất xử,
cũng như ông không c̣n nhắc tới cảnh đói khổ của gia đ́nh.
Vượt ḍng sông Lam ra
bắc làm quan với triều nhà Nguyễn, Nguyễn Du thiệt sự xa quê, thiệt sự dứt
bỏ với quá khứ. Đó là những mất mát của ông. Nỗi buồn xa quê dường như
mang mầu tang tóc, tuy không có người thân nào nằm xuống, tuy không có một
nấm mồ mới, nhưng có sự đứt đoạn với quê nhà với nếp sống quen thuộc.
Trong bài Kư Hữu mang
số 61, ông tự coi như ông đă đánh mất chữ phác,
璞, một chữ quan
trọng trong sách Đạo Đức Kinh của Lăo Tử. Ông vẫn c̣n tự hứa là chưa chết
th́ c̣n có ngày về Ngàn Hống vui với bầy hươu nai . Ngồi ở thuỷ các bên
sông La Phù mà ông vẫn mơ về Ngàn Hống, nh́n trăng non sông La Phù mới mọc
mà tưởng tới trăng núi Hồng. Trong những bài Ngẫu Hứng, ông không c̣n viết
về nhưng vọng tưởng tương lai mà chỉ vẫn nhớ tới bầy hươu nai cùng những
đàn chim nhạn Hồng Lĩnh. Buổi chiều xuân, ông tiếc một ngày xuân đă tàn,
mà thấy danh lợi như mây nổi, tiếc sao chẳng sớm học tu tiên. Cảnh chiều
bên bờ sông Thanh Quyết, xanh biếc mầu xuân, chỉ làm ông thêm nhớ nhà mà
lúc đó ông không biết quê ông ở phương nào. Đứng bên bờ sông Đồng Lung
trước cảnh tĩnh lặng ông ngao ngán không biết bao giờ cho hết cái khổ
làm người. Qua thăng cảnh Núi Thầy, ông nhớ ước vọng xưa, nh́n xuống
tấm áo lấm bụi đường ông buồn v́ đám vượn hạc bạn với ông trước kia giờ
củng khó nhận ra được ông. Cảnh bên đường Lạng Sơn có hang mây có suối
nước, có chốn ần cư của sơn tăng, nhắc ông thấy cái già đang đến với ông,
chưa biết đến bao giờ mới được nghỉ hưu, để thấy ông lăo đồng quê chưa hề
đọc sách là con người sung sướng.
Đi qua động Nhị Thanh,
có điện thờ Phật, ông dường chợt nhớ tới chữ vô thường mà
thương cho mọi truyện đổi thay đang tiếp diễn trước mắt ông.
Cũng v́ bước vào ṿng
trung ẩn, Nguyễn Du thêm một mối lo mới. Đó là mối tương quan với các bạn
đồng liêu. Nghỉ đêm tại một quán khách bên đường Lạng Sơn, sáng ngày nh́n
ra đồi hoa mai mà ông chán nản v́ ḷng bon chen ghen ghét v́ lợi danh. Ông
gọi hạng người này là Khổng Tước Vũ, tức con công múa hay, nhưng dấu mật
độc trong ḷng. Riêng ông,vốn mê sách hơn mê hoa, ông vẫn trước sau chỉ
muốn làm con bướm bỏ sác ép trong tập sách. Sự khác biệt giữa con bướm ép
sác trong sách với con công mang mật độc trong người là cái khác biệt giữa
Nguyễn Du tự tin vào nếp sống riêng của ḿnh và các bạn đồng liêu đang
mài miệt chạy đua trên đường làm quan..
Nam Trung Tạp Ngâm bắt
đầu bằng bài Phượng Hoàng Lộ Thượng Tảo Hành. Trên đường vào kinh đô Phú
Xuân, Nguyễn Du buồn v́ sức yếu, nhưng được đền bù bằng một đêm gặp gỡ một
người thợ củi, trong một quán trọ. Dầu không được mọi điều đồng tâm nhưng
t́nh cảm giữa hai người như nồng ấm.
Vào tới kinh đô, cuộc
sống của Nguyễn Du như đổi khác: Ông phải chấm dứt nếp sống trung ẩn và
bắt đầu cuộc sống đại ẩn huyên náo ở kinh đô. Biến chuyển trong nếp sống
Nguyễn Du trong vụ thuyên chuyển từ một phủ lỵ Bắc Hà vào kinh thành Phú
Xuân làm người đọc nhớ tới vụ di chuyển chỗ ở từ bờ hồ Leman về Paris của
Jean Jacques Rousseau. Trong cuốn Les Confessions, livre X, Jean Jaques
Rousseau tư coi ḿnh như:
‘seul, isolé, sans
appui, sans famille, ne se tenant qu’à ses principes et à ses devoirs’
Ông viết thêm trong
cuốn Les Dialogues:
Pour un homme sensible,
sans ambition et sans vanité, il est moins cruel et moins difficile de
vivre seul dans un désert que seul parmi ses semblables.’
.
Trong ba bài Ngẫu Thư
Công Quán Bích Nguyễn Du viết và dán lên tường nhà Công Quán, ông cho biết
trong bài thứ nhất, bởi chức vụ c̣n nhỏ (hàm ngũ phẩm) lại không có gia
đ́nh đi theo nên ông chỉ được cấp phát một gian công quán; buổi sáng ông
chỉ ăn một lưng cơm, chiều tắm chỉ có một bồn nưóc nhỏ, khách khứa thăm
viếng không có ai, mỹ nhân th́ tường dầy vách cao ngăn cách, tiếng
cuốc vào hè làm ông thêm nhớ quê hương. Bài thứ hai cho biết là đêm dài
ông nằng nghe mưa rơi chăn đơn gối chiếc lạnh lùng, ông nhó tới hoa đào
ông nhớ tới cả d́ gió. Bài thứ ba cho hay trong cảnh nhớ quê
ông thấy vinh hoa chỉ là hăo huyền, công thành là kết quả của g̣ xương
trắng. Cái hẹn ḥ với gió trăng mới là cái duyên thắm thiết dầu uống suối
ở hang cũng chẳng từ. Giấc mộng xưa ngày nay chẳng c̣n, lại c̣n e sợ người
ta hỏi tới chuyện cánh lông mất c̣n.
Trong cảnh sống đại ẩn
huyên náo đó cũng có nhiều thú vui mới tới với Nguyễn Du như ông ghi lại
trong năm bài tứ tuyệt dưới cùng một đề mục: Mộng ĐắcThải Liên.
Trong văn học Trung
Hoa, Thải Liên Khúc là một ḍng thơ đặc biệt. Lư Bạch
cũng viết
採 蓮
曲, Thải Liên
Khúc và ghi chú như sau:
採
蓮
曲
起
於
梁
武
帝 [...]
父
子 ,
後
世
多
擬
作.
Thải Liên Khúc khởi ư
Lương Vũ Đế [...] phụ tử, hậu thề đa nghĩ tác.
nghĩa là: Thải Liên
Khúc, khởi từ đời cha con Lương Vũ Đế, đời sau nhiều người bắt chước sáng
tác. Nhà thơ này viết câu thứ năm bài Thải Liên Khúc như sau:
岸 上 誰 家 遊 冶 郎
Ngạn thượng thuỳ gia du
dă lang
chử du dă hay
dă du theo Tự Điển Thiều Chửu nghĩa là dắt con hát đi chơi. Thế nên,
đọc năm bài Đắc Mộng Thải Liên của Nguyễn Du, người đọc liên tưởng tới tập
Hát Phường Vải bằng chữ nôm của ông.
Phú Xuân vào thu, hứng
thơ bài Thu Chí của Nguyễn Du là mối buồn xa quê, cộng thêm mối buồn lo an
ninh cho bản thân, thương ḿnh ngày ngày phải uốn lưng khom gối, mà thêm
nhớ đàn âu trắng trên sông Lam. Bên cạnh nỗi bực bội đó c̣n thêm cảnh ông
phải thù tiếp những người chạy theo danh lợi đến không biết ngừng, mà ông
chẳng những không ưa mà c̣n coi thương như hạng chó săn, chết cũng chẳng
ai thương, đó là điều ông viết trong bài Điệu Khuyển. Cảnh bon chen ở tại
sân rồng lại là cảnh Nguyễn Du mang ra đối với bát canh ngó sen tượng
trưng cho cảnh nhàn nơi quê nhà lại là những thi liệu ông dùng trong bài
tiễn bạn được về chịu đại tang, và ông lại qua một đêm nữa nằm nghe mưa
Phú Xuân. Tiếng mưa Phú Xuân là tiếng thơ trong nhiều bài thơ Việt Âm của
Nguyễn Du. Tiếng mưa Phú Xuân đó gợi cho người đọc tiếng thơ của Paul
Verlaine
:
Il pleure sans raison
Dans ce coeur qui
s’écoeure.
Quoi! nulle trahision?
Ce deuil sans raison.
C’est bien la pire
peine
De ne savoir pas
pourquoi,
Sans amour et sans
haine,
Mon coeur a tant de
peine.
Trong năm bài tứ tuyệt
đặt dưói cùng đề tài Ngẫu Hứng, Nguyễn Du ghi lại năm tâm cảnh nhớ nhà.
Trong bài thứ nhất ông ôn lại thú vui săn bắn ờ Ngàn Hống nay dành riêng
cho ông bạn tiều phu. Bài thứ hai mô tả một đêm nhớ quê mất ngủ nằm chờ
trăng lên, nhưng trăng bị lá cây che khuất. Bài thứ ba thi liệu của ông là
mấy tầu lá chuối, và màn khói bụi làm thi cảnh mờ mịt như tâm cảnh của
ông, như mất cả phương hưóng, nh́n cỏ đoán hưóng gió th́ cỏ cũng chẳng
c̣n. Bài thứ tư cho hay ông c̣n nặng gánh gia đ́nh, v́ quê nhà bị hạn hán,
nhà c̣n cả mười miệng ăn, làm ông phải xét lại ư định xin vể hưu. Bài cuối
cùng là h́nh ảnh một người từ Thăng Long, hay đúng hơn từ Bắc Hà vào, lẻ
loi sợ hăi né tránh mọi người, khiến ngựi đọc như nh́n thấy h́nh ảnh của
Jean Jacques Rousseau ngày mới từ Leman về Paris.
Tiếp theo là bài Ngẫu
Đề, trong cảnh đêm thu, có tiếng chầy đạp vải, có tiếng gió lay động tầu
lá chuối đầu sân, nghe tin quê ngoài bị hạn hán, mười miệng thiếu ăn, thân
ông cững c̣n đang bệnh, nhưng ông vẫn tiếp tục giấc mơ. Ông không cho hay
nội dung giấc mơ mà chỉ tự hỏi là trong đời này có ai không mơ.
Ở Phú Xuân bốn năm,
Nguyễn Du đưọc thăng trật lên hàng tứ phẩm, và được bổ làm Cai Bạ ở Quảng
B́nh. Thế là ông thoát được cảnh đại ần huyên náo. Trên đường ra Quảng
B́nh nhậm chức, ông bị bệnh, t́nh cờ ông gặp một ngựi được vua vời vào
kinh, một năm sau đă được vua cho về quê ở ngoài bắc. Đó là một cái mừng
cho Nguyễn Du với hy vọng cũng sẽ được vua cho về nghỉ hưu. Uớc ao được về
hưu là thi tứ của bài Dạ Tọa, tiếp theo là bài Tạng nhân và bài TáiThứ
Nguyên Vận. Lời thơ bài Tái Thứ Nguyên Vận c̣n có nét Thiền và Lăo, nên
người đọc thấy như Nguyễn Du dường như muốn t́m về tôn giáo để làm điểm
tựa.
Đời sống trung ẩn ở
ngoài trấn dường như làm cho Nguyễn Du thoải mái hơn những ngày ở kinh đô
Phú Xuân. Ông có th́ giờ đi tản bộ đầu sông, và đó là lúc ông nhận định về
hoàn cảnh mới của ông. Bạn bè đồng liêu với ông, tựa như h́nh ảnh đàn chim
biển với ông lăo chài, càng ngày càng thân thiện hơn. Với quan trên, bởi
không cần quỵ luỵ nên không phiền trách một ai. Riêng ông hết sức cẩn thận
trong công vụ. Ông yên ḷng nghĩ tới cái chết; t́nh quê không c̣n day dứt
ông, ông yên tâm vui với cảnh thu bên sông trước mắt. Sang bài Ngẫu Đắc
ông cho hay là c̣n gặp khó khăn trong công vụ với nha lại dưới quyền, như
ông viết trong câu thứ năm bài Ngẫu Đắc:
事 來 徒 隸 皆 驍 我
Sự lai đồ lệ giai kiêu
ngă
nghĩa là:
khi vào việc đề lại làm
kiêu với ta
Ông than phiền là tuổi
đă cao chữ nghĩa có điều nhớ điều quên. Ông nhớ đến quê nhà nhớ đến cả xóm
giềng ngày trước.
Nguyễn Du có thêm th́
giờ thăm những thắng cảnh ở ngoài thành Quảng B́nh. Ông đề thơ tại Pháo
Đài, vịnh những con ngựa hoang dưới chân thành, những h́nh ảnh tiêu biểu
cho cảnh hết nội chiến của nước nhà.
Ông có thêm ngày rảnh
rang đi thăm chùa Thiên Thai, có thêm th́ giờ viết thư thăm hỏi bạn bè.
Mùa thu lại về khiến ông nghe rét mướt lùa theo gió, mà chợt thấy ḿnh
già, vụng tính khiến c̣n mắc cảnh nổi trôi xa quê. Đó cũng là điều làm ông
suy nghĩ nhân một buổi đi chơi núi. Ông tự trách ḿnh xa chân vào hoạn lộ
không c̣n được rảnh rang như người thợ củi. Ông đi ngang sông Gianh, con
sông ghi vết những năm tháng đất nước chia hai. Rồi qua sông Di, nh́n sang
Ḥn Én, chỉ c̣n cách một dẻo Đèo Ngang là về tới quê ông mà như xa cách
dặm ngàn. Qua một số thơ thù tiếp bạn bè: xướng họa cùng Ngô Tứ Nguyên
ngựi đất Thanh Oai, đưa tiễn Ngô Như Sơn ra làm hiệp trấn Nghệ An, tập
Nam Trung Tạp Ngân chấm dứt bằng hai bài dưới cùng đầu đề Đại Tác Cửu Thú
Tư Quy, viết thay người đi thú lâu năm nhớ nhà. Trong bài này, Nguyễn Du
gợi lại h́nh ảnh Ban Siêu tướng nhà Đông Hán sau ba mươi năm chinh phục
các nước vùng Tây Vực chưa về Trung Nguyên để gủi gắm tâm sự của riêng ông
mong được về hưu qua lời ngựi đi thú than thân.
Sau bốn năm ở Quảng
B́nh, Nguyễn Du được thăng Cần Chánh Điện Học Sĩ và được cử làm chánh sứ
sang triều đ́nh nhà Thanh. Chuyến đi sứ kéo dài hai năm và trong thời gian
đó ông hoàn thành tập Bắc Hành Tạp Lục và cuốn truyện thơ Đoạn Trựng Tân
Thanh.
Nói chung, Bắc hành Tạp
Lục là một tập thơ của người đă tỏ mệnh trời.
Bắc Hành Tạp Lục bắt
đầu bằng áng thơ dài năm mươi câu, kèm theo tiểu dẫn ghi lại cuộc tái ngộ
giữa ông và một tay đàn nguyệt nổi danh trong đội nữ nhạc dưới triều vua
Lê, mà ông đă có dịp gặp nàng ngoài hai mươi năm về trước, tại nhà một
người anh ông. Không ai biết tên thật của nàng, nhưng nguời Thăng Long gọi
nàng là cô Cầm.
Giới nghiên cứu có
nhiều người coi áng thơ này tương tự như khúc Tỳ Bà Hành của nhà thơ Đường
Bạch Cư Di. Khúc Tỳ Bà Hành rất nổi tiếng trong thi ca Việt Nam với bản
dịch của Phan Huy Vịnh kể lại cuộc gặp gỡ giữa tác giả là Bạch Cư Di, lúc
đó giữ chức Tư Mă đất Giang Châu, bị biếm từ kinh đô về vùng Tầm Dương và
một tay đàn tỳ bà, gốc người Hà Mô gần kinh đô, nay đă luống tuổi lưu lạc
tới bến Tầm Dương. Cảm thương số phận người chơi đàn tỳ bà và nghĩ thương
thân ḿnh Bạch Cư Dị đă sáng tác áng thơ dài đó tặng nàng.
Bài Long Thành Cầm Giả
Ca cũng thuật lại cuộc tái ngộ giữa cô Cầm và Nguyễn Du trong bữa tiệc do
tổng trấn Bắc Thành khoản đăi sứ bộ nhân dịp ghé qua Thăng Long. Khác với
Tỳ Bà Hành, Long Thành Cầm Giả Ca không nói tới số phận của tác giả và cô
Cầm, mà dường như tŕnh bày cuộc chuyển biến của Đại Hóa trong hai chục
năm vừa qua. Trong hai chuc năm đó, không chỉ riêng cô Cầm và Nguyễn Du
từ tuổi thanh niên bước sang tuổi trung niên, gian khổ triền miên mà triều
chính thay đổi ba bốn lần: vua Lê chúa Trịnh chẳng c̣n, giặc kiêu binh
cũng đă yên, triều Tây Sơn bạo phát bạo tàn, thành siêu quách đổ ... Duy
chỉ c̣n có tiếng đàn của cô Cầm vẫn như xưa; ḷng ngưỡng mộ tiếng đàn đó
của Nguyễn Du vẫn như xưa. Trong mối thông cảm đó Nguyễn Du viết bài ca
dài riêng tặng cô Cầm. Người đọc thơ dường như thấy Nguyễn Du cho hay là
mọi sự đều vô thường trong đại hóa, chỉ riêng nghệ thuật và t́nh người
ngưỡng mộ nghệ thuật là c̣n khi loài người c̣n.
Xuôi ḍng thơ đó,
Nguyễn Du viết hai bài về Thăng Long, cho thấy sông Lô núi Tản không thay
đổi; nhiều ngôi nhà cũ đă thành đường đi; cố cung cũng xây lại; bạn cũ đă
thành ông nội ông ngoại; khiến ông thao thức nằm nghe tiếng sáo dưới bóng
trăng, thương cho con nguời vẫn bon chen chạy theo danh lợi đua đ̣i phú
qúy. Cũng trong dịp đó ông gặp lại người nàng hầu của em ông, nàng đă đi
lấy chồng đă có ba con, nhưng c̣n mặc tấm áo năm xưa em ông tặng nàng, dầu
bát nước đổ không sao vớt vát lại được, nhưng cuống sen dầu gẫy vẫn c̣n tơ
vương.
Trên đường sang Trung
Quốc, ông đi qua miếu thờ Mă Viện. Mă Viện là một vị tướng Trung Quốc, nổi
tiếng tại Việt Nam về việc ông đem quân sang đất Giao Chỉ đánh bại quân
Hai Bà Trưng. Trên đường hành quân, Mă Việt đă khai sông đắp đựng, ḷng
người biết ơn lập nhiều miếu thờ. Mỗi lần Nguyễn Du đi qua những miếu thờ
đó, thường có thơ đề vịnh. Ông không nhắc đến truyện Mă Viện đem quân
sang xâm chiếm nước nhà, mà chỉ nói tới truyện Mă Viện tuổi đă cao, trước
sân rồng vua Hán c̣n mặc áo giáp thắng yên cương nhẩy lên lưng ngựa tỏ ra
ḿnh c̣n cường tráng, không để ư tới ḷi can ngăn của anh em, kết cuộc cột
đồng Mă Viện trồng nay không ai t́m thấy ở đâu, và Mă Viện chết không được
chôn cất tại quê nhà. Tên tuổi không đưọc ghi trong Vân Đài thờ công thần
nhà Hán. Người đọc hiểu là Nguyễn Du coi thường ư chí đeo đuổi công danh
của Mă Viện.
Đây là lần thứ hai
Nguyễn Du dùng cuộc tranh luận giữa Mă Viện và người em họ là Mă Thế Du
làm thi liệu. Lần thứ nhất ông viết câu kết bài Mạn Hứng Kỳ Một, trong
Thanh Hiên Thi Tập:
澤
車 段
馬 愧
東 鄰
Trạch xa đoạn mă qúi
đông lân
dịch là
Ngựa gầy xe nhỏ thẹn
ngựi xóm đông
Mă Viện chủ trương làm
tưóng tài dẫu chết lấy da ngựa bọc thây cũng không màng. Theo sách
Hậu Hán Thư, Mă Thiếu Du, em họ Mă Viện không đồng ư nói: “Kẻ sĩ sinh ra ở
đời chỉ cần đủ cơm ăn áo mặc, ngồi xe nhỏ cỡi ngựa gầy, làm viên
lại ở quận, giữ mồ mả ông cha ở làng, được khen là ngựi tốt là đủ”. Nhắc
lại lời Mă Thiếu Du Nguyễn Du tụ cười ḿnh trong cảnh khốn cùng vẫn c̣n
ước mơ truyện công danh.
Lần thứ ba Nguyễn Du
nhắc đến cuộc đối thoại giữa Mă Viện và Mă Thiếu Du là lần thuyền sứ bộ đi
ngang miếu thờ Phục Ba Tướng Quân ở Đại Than. Ông dùng h́nh ảnh Mă Viện mở
đường Ngũ Lĩnh, xuống Giao Chỉ để lại công danh trong sử sách, và đối lại
ông dùng lời Mă Thiếu Du chê Mă Viện tuổi đă về già c̣n khoe sức mạnh lảm
tṛ cười cho vua Hán, và đoan quyết rằng ở đời ngoài truyện áo cơm mọi
truyện khác thẩy là thừa. Ông nhắc lại lời Mă Viện than ở đầm Dâm Đàm,
theo Hậu Hán Thư, là nơi quân Mă Viện vây quân của Trưng Trắc tại thành
Tây Vu, không phân thắng bại, lại gặp khí trời oi bức, khí độc từ hồ bốc
lên khiến diều hâu đang bay cũng rớt xuống hồ, và Phục Ba tướng quân nhớ
lại lời Mă Thiếu Du mà lấy làm hối tiếc dă không nghe theo lời can gián
của Mă Thiếu Du. Người đọc thấy rơ ư Nguyễn Du coi nhẹ những kẻ liều thân
đeo đuổi công danh.
Lần thứ tư, Nguyễn Du
nhắc đến Phục Ba tướng quân là lần thuyền sứ xuống ghềnh Đại Than, ông mở
đầu bài Hạ Than Hỷ Phú bằng câu:
心 香 拜 禱 將 軍 祠
Tâm hương bái đảo tưóng
quân từ
Người đọc thấy rơ là
Nguyễn Du thành tâm dâng hương tạ ơn Phục Ba tướng quân đă phù hộ cho
thuyền sứ xuống ghềnh b́nh yên.
Đối chiếu bài Hạ Than
Hỷ Phú trên đây với bài Lam Giang, người đọc thấy trong cả hai bài, tác
giả cùng đứng trước sức mạnh của thiên nhiên, nhưng tâm cảnh của Nguyễn Du
trong mỗi lần một khác.
Đứng trên bờ sông Lam,
nh́n cảnh nước lũ mùa thu ông viết:
我 望 藍 江 頭
Ngă vọng Lam Giang đầu
寸 心 常 惴 惴
Thốn tâm thường chúy
chúy
nghĩa là:
Ta nh́n ḍng sông Lam
Tấc ḷng lo nơm nớp
Nhưng rồi ông kết bắng
hai câu:
擬 驅 千 仞 山
Nghĩ khu Thiên Nhân sơn
填 平 五 百 里
Điền b́nh ngũ bách lư.
nghĩa là:
Muốn bạt núi Thiên Nhân
Lấp năm trăm dặm sông
Lam.
Bài thơ cho người đọc
thấy ư chí muốn bạt núi lấp sông, chiến thắng thiên nhiên của Nguyễn Du,
ngày ông ở tuổi ba mươi.
Rồi hai chục năm sau,
tâm cảnh Nguyễn Du đổi khác: khi xuống hết ghềnh Đại Than, ông thành tâm
tạ ơn Phục Ba tướng quân đă phù hộ cho thuyền sứ thoát hiểm. Người đọc
dường như thấy hoặc là năm tháng chồng chất trên vai, hoặc là phen này
Nguyễn Du không an ninh đứng trên bờ mà ở trên thuyền đang xuống ghềnh,
đứng trong cảnh nguy hiểm, đă khiến Nguyễn Du không c̣n ư muốn chiến thắng
thiên nhiên mà quay về thần quyền kiếm điểm tựa.
Tiếp tục cuộc giang
hành, thuyền sứ tới khúc sông Ninh Minh, lại một lần nữa phải đương đầu
với nguy hiểm lên thác xuống ghềnh. Trong bài Ninh Minh Giang Chu Hành,
Nguyễn Du viết câu 25:
危 亡 傾 覆 皆 天 意
Nguy vong khuynh phúc
giai thiên ư
nghĩa là:
Nguy vong nghiêng đổ
thẩy ư trời
Người đọc thơ thấy rơ
là lần gặp nguy hiểm này, Nguyễn Du, không tự tin ở ḿnh, như ngày đứng
trên bờ sông Lam, không t́m về thần quyền như khi xuống ghềnh Đại Than mà
hướng về số mệnh do ông Trời định sẵn để t́m nguồn an ủi, đúng như lời
Arthur Schopenhauer
:
Le consolateur, c’est
le fatalisme.
Nguyễn Du ghi lại những
gian nan lên thác xuống ghềnh trong những bài thơ dài trích dẫn trên đây
phải chăng là v́ do số mệnh nên chưa thoát ra khỏi cái lồng danh lợi.
Ở thời Nguyễn Du, ngoài
đường khoa hoạn, kẻ sĩ không c̣n cách nào khác để tiến thân, để thoát ra
khỏi cảnh nghèo khổ. Nên dường như rất hiếm người không bị lùa vào cái
lồng khoa hoạn. Trong bài Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam Quy, ông viết ngày chưa
ra làm quan với triều Nguyễn:
生 平 文 彩 殘 籠 鳳
Sinh b́nh văn thái tàn
lung phượng
浮 世 功 名 走 壑 蛇
Phù thế công danh tẩu
hắc xà
nghĩa là:
Thơ văn một kiếp phượng
lồng nát
Phù thế công danh rắn
ẩn hang
Sau Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ cũng có nói tới cái lồng khoa hoạn này trong bài Ngất Ngưởng:
Ông Hy Văn tài bộ đă
vào lồng
Khi thủ khoa khi tham
tán khi tổng đốc Đông
Muốn ra thoát cái lồng
đó kẻ sĩ không có cách nào khác là buông bỏ danh lợi. Có người đă nhận xét
rằng, khi không c̣n bị cảnh đói rách đe dọa, buông bỏ lợi đă khó nhưng
dường không khó khăn bằng buông bỏ danh.
Có buông bỏ được cả
danh cả lợi mới có thể trút bỏ được cái khổ làm người, mới mong t́m đưọc
niềm an lạc, ataraxie, cho thân tâm trong cuộc sống.
Trong ba tập thơ Việt
Âm Nguyễn Du có nhiều bài ông viết về các danh nhân liệt sĩ Trung Quốc với
chủ ư rằng chạy theo danh lợi, là lao đầu vào ṿng chết thảm. Thế nên,
người đọc không khỏi nghĩ là Nguyễn Du tự nhắn nhủ ḿnh buông bỏ danh lợi
để t́m niềm an lạc cho thân tâm chính ông.
Trong ḍng thơ đó,
Nguyễn Du có sáu bài nhắc tới Khuất Nguyên. Hai bài chính là hai bài dưới
cùng một đầu đề: Tương Đàm Điếu Tam Lư Đại Phu, mà ông sáng tác khi qua
huyện Tương Đàm, tỉnh Hà Nam. Tam Lư Đại Phu là chức tước của Khuất
Nguyên. Theo sách Sử Kư của Tư Mă Thiên
Khuất Nguyên làm chức tả đô đời vua Sở Hoài Vương, học rộng, nhớ lâu, thấy
rơ lẽ trị loạn, thạo việc giấy tờ. Nhà vua rất tin dùng, nhưng bị đồng
liêu là Đại Phu Thượng Quan ghen ghét. Hoài Vương sai Khuất Nguyên thảo
pháp lệnh. Thượng Quan gièm với vua: “Bệ hạ sai Khuất Nguyên làm pháp
lệnh, mỗi khi ban lệnh, Khuất Nguyên thường khoe công, nói: ‘ngoài ta ra,
chẳng ai làm nổi’” Nhà vua giận, bỏ rơi Khuất Nguyên. Khuất Nguyên lo buồn
viết thành áng thơ Ly Tao. Tư Mă Thiên ca tụng ánh thơ này, viết: “Chí ông
trong sạch nên nói tới các hoa thơm. Nết ông cao cho nên dù chết cũng
không được dung nạp. Ông thoát khỏi cái thế giới bùn lầy như con ve bỏ
lốt, để cất ḿnh ra khỏi cơi trần dơ bẩn. Suy cái chí ấy th́ ông có thề
sánh với mặt trăng mặt trời vậy.” Sau khi Khuất Nguyên bị truất, nước Sở
chinh chiến với nhiều nước chư hầu, rốt cuộc Hoài Vương trúng độc kế của
nước Tần, chết ở nước Tần, con là Khoảnh Tương Vương lên nối ngôi. Khuát
Nguyên đă được trở lại kinh đô nước Sở, không có chức vụ quan trọng trong
triều, nhưng tiếp tục dâng biểu can vua mới. Một lần nữa Thượng Quan gièm
Khuất Nguyên với Khoảnh Tương Vương, Khoảnh Tương Vương đem đầy Khuất
Nguyên đi xa.
Một ngày kia Khuất
Nguyên gặp một ông già đánh cá hỏi ông:
Khuất Nguyên nói:
- Ông là quan Tam Lư
đại phu phải không? V́ sao đến nông nỗi này.
- Tất cả đời đều nhơ
đục, chỉ một ḿnh ta trong, tất cả mọi người đều say, riêng ḿnh ta tỉnh,
nên bị đuổi.
Ông già đánh cá nói:
- Tất cả đều nhơ đục
sao ông không xuôi theo ḍng làm cho sóng lên cao? Tất cả đều say sao ông
không nhai bă rượu và húp rượu.
Khuất Nguyên nói:
- Ta thà gieo ḿnh
xuống sông Tương, chôn ḿnh trong bụng cá, lẽ nào để cái bản chất trắng
ngần của ta chịu bụi bậm của đời.
Bèn làm bài phú Hoài
Sa, đoạn ôm đá gieo ḿnh xuống sông Mịch La mà chết.
Trở lại bài Tương Đàm
Điếu Tam Lư Đại Phu, kỳ I, Nguyễn Du thương tiếc cho Khuất Nguyên chết
uổng từ hai ngàn năm trước, chí khí của ông chẳng c̣n, hương hoa lan vẫn
c̣n. Ba năm lưu đầy giúp Khuất Nguyên mở đường cho ḍng Sở Từ. Xương tàn
nay tiêu tan, cḥm đỗ nhược bên sông vẫn thơm hơn ngàn hoa khác. Đau ḷng
v́ vết cũ chằng c̣n, chỉ thấy lá rụng qua sông Nguyên Tương.
Sang bài thứ hai, giữa
ḍng sông, Nguyễn Du muốn t́m oan hồn Khuất Nguyên chỉ thấy khói sóng mênh
mông. Ông đặt câu hỏi, nếu hiến lệnh được dùng để b́nh thiên hạ, th́ đâu
có Ly Tao nối ḍng thơ Quốc Phong. Từ xưa tới nay không ai thuơng kẻ tự
coi riêng ḿnh là tỉnh mọi người đều say, th́ khắp thiên hạ có chốn nào để
kẻ đó giăi tỏ mối cô trung. Thói tục đă đổi thay, người đời nay chuộng
những loại hoa lan khác hẳn hoa lan của Khuất Nguyên.
Người đọc dường như
thấy Nguyễn Du khóc thương Khuất Nguyên, chẳng khác ǵ ông khóc con chó
trong bài Điệu Khuyển:
凡 生 負 奇 氣
Phàm sinh phụ kỳ khí
天 地 非 所 容
Thiên địa phi sở dung
nghĩa là:
Phàm sinh chí khác đời
Trời đất không chỗ dung
Khuất Nguyên muốn ḿnh
khác người: đời đục cả riêng ḿnh ta trong, đời say cả riêng ḿnh ta tỉnh,
nên có đi khắp mọi nước chư hầu cũng không có chỗ giăi bày ḷng cô trung
của ông.
Ngoài ra Nguyễn Du khóc
con chó:
貪 進 不 知 止
Tham tiến bất tri chỉ
nghĩa là:
Ham tiến chẳng biết lùi
Thế nên chó phải chết
thảm.
Sách Luận Ngữ
có câu:
子 曰: 忠 告 而 善 道 之;
Tử viết: Trung cáo nhi
thiện đạo chi
不 可 則 止, 毌 自 辱 焉
bất khả tắc chỉ vô tự
nhục yên .
nghĩa là:
Khổng Tử nói: Bạn có
điều lầm lỗi, phải hết ḷng khuyên bảo. Bạn không nghe th́ thôi, nói nhiều
chỉ mang nhục.
Đối với bạn đă như vậy,
thế mà Khuất Nguyên can vua không nghe, không biết ngừng, tránh sao khỏi
chết thảm.
Nguyễn Du c̣n hai bài
thơ dài nhắc tới Khuất Nguyên. Bài thứ nhất là bài Phản Chiêu Hồn. Nguyên
v́ bài Chiêu Hồn là một bài từ của Tống Ngọc, làm để viếng vong hồn Khuất
Nguyên. Trong bài tựa, Tống Ngọc, một đại phu trẻ trong triều vua Sở, cho
hay v́ thương tiếc Khuất Nguyên viết bài này để gọi hồn Khuất Nguyên.
Nguyễn Du viết bài Phản Chiêu Hồn, nói ngược lại bài của Tống Ngọc, khuyên
hồn Khuất Nguyên không nên trở về trần gian đầy kẻ gian ác này. Trong sáu
câu cuối ông viết như sau:
早 斂 精 神 返 太 極
Tảo liễm tinh thần phản
thái cực
慎 勿 再 返 命 人 嗤
Thận vật tái phản linh
nhân xi
後 世 人 人 皆 上 官
Hậu thế nhân nhân giai
Thượng Quan
大 地 處 處 皆 汨 羅
Đại địa xứ xứ giai Mịch
La
魚 龍 不 食 豺 虎 食
Ngư long bất thực sài
hổ thực
魂 兮 魂 兮 奈 魂 何
Hồn hề hồn hề nại hồn
hà.
nghĩa là:
Tinh thần khá sớm về
thái cực
Đùng về đây nữa người
mỉa mai
Người nay thẩy là
Thượng Quan
Đất này đâu cũng sông
Mịch La
Rồng cá không rỉa hùm
sói nuốt
Hồn ơi hồn ớ biết làm
sao.
Người đọc dường thấy
như Nguyễn Du khuyên hồn Khuất Nguyên đừng về đất này v́ đâu đâu cũng đầy
kẻ nham hiểm, đồng thời dường như ông tự nói với ông phải luôn luôn thủ
thế, chốn triều chính đầy những con công mang mật độc, như ông viết trong
bài Khổng Tưóc Vũ.
Trong bài Bác Giả,
Nguyễn Du bác bỏ ư kiến của Giả Nghị, viết trong bài phú viếng Khuất
Nguyên, như muốn hỏi Khuất Nguyên sao không đi khắp chín châu mà t́m vua,
hà tất cứ phải bám lấy cố đô nước Sở. Người đọc dường như thấy Nguyễn Du
thưong hại cho Khuất Nguyên chết thảm v́ lẽ trai trung một chúa gái
trinh một chồng, và ông cũng thương hại cho Giả Nghị đi t́m đươc vua
mới mà thờ nhưng rồi cũng chết thảm chẳng khác ǵ Khuất Nguyên. Phải chăng
cả hai Khuất Nguyên và Giả Nghị cùng chết thảm v́ danh vọng?
Bài thứ năm Nguyễn Du
nhắc tới Khuất Nguyên là bài Ngũ Nguyệt Quan Cạnh Độ, chủ ư nói về truyện
người Trung Quốc tổ chức đua thuyền ngày mùng năm tháng năm hàng năm để
làm giỗ Khuất Nguyên, mà thật ra chỉ làm rộn vong hồn Khuất Nguyên. Bài
thứ sáu Nguyễn Du nhắc tới Khuất Nguyên là bài Tương Âm Dạ, làm trong đêm
ông ghé Tưong Âm, gần nơi xưa kia Khuất Nguyên đi đầy, ông tỏ ư kính trọng
không cả muốn ngâm thơ, sợ làm rộn vong hồn Khuất Nguyên.
Theo Đào Duy Anh
chính do mối cô trung của Nguyễn Du với nhà Lê khiến ông viết sáu bài trên
đây về Khuất Nguyên, người cô trung nước Sở ngoài hai ngàn năm về trước. Ư
kiến này xin để ngưới đọc xét đoán.
Để tôn vinh danh nhân
Trung Quốc, Nguyễn Du đă chọn một ngựi ít đuợc ai nói tới. Đó là Triệu Vũ
Đế, tức Triệu Đà.
Theo Sử Kư của Tư Mă
Thiên
vua Nam Việt họ Triệu, tên Đà, người huyện Chân Định, trước làm quan úy.
Bấy giờ nhà Tần đă chiếm cả thiên hạ, đến đời Nhị Thế quận úy Nam Hải là
Nhâm Ngao ốm sắp chết mời Triệu Đà đến nói:
- Nhà Tần làm điều vô
đạo, thiên hạ khổ cực. Bọn Hạng Vũ, Lưu Qúy, Ngô Quang dấy binh tập quân
tranh giành thiên hạ. Nam Hải ở nơi xa lánh, tôi sợ quân giặc xâm lấn đến
đây, nên định dấy binh chặn đựng để pḥng bị, đợi chư hầu có sự thay đổi.
Nay gặp lúc ốm nặng nên mời ông đến đề nói kế pḥng giặc.
Ngao chết, Đà truyền
hịch bảo các cữa quan Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàng Khê rằng:
- Quân giặc sắp đến;
phải chặn đường, tụ tập quân sĩ để tự bảo vệ.
Khi nhà Tần bị tiêu
diệt, Đà lập kế đánh chiếm Quế Lâm, Tượng Quận tự lập làm Nam Việt Vũ
Vương. Sau khi Hán Cao Đế b́nh được thiên hạ, không trị tội Đà mà c̣n sai
Lục Giả sang phong Đà làm Nam Việt Vương. Đà nhân đó mở mang bờ cơi, đi xe
mui lụa mầu vàng cắm cờ tả đạo, chẳng kém ǵ “đế” Trung Quốc.
Đến đời Hiếu Văn Đế,
vua Hán lại sai Lục Giả sang Nam Việt trách Đà về tội tự xưng“đế”, mà
không hề phái sứ giả sang Trung Quốc báo tin. Lục Giả đến nơi, Nam Việt
Vương Triệu Đà sợ hăi, làm biểu tạ tội rằng: “Thần tên là Đà, là một kẻ
già nua ở cơi man di. Ngày trước Cao Hậu phong cho làm Nam Việt Vương.
[...] Lăo thần trộm dùng bậy danh hiệu “đế” chỉ để tự vui, chứ đâu dám nói
tới tai bệ hạ.” Đà dập đầu xuống tạ tội, xin măi măi làm phiên thần dâng
lễ cống. Rồi ra lệnh cho trong nước:
- Ta nghe nói ‘hai anh
hùng không cùng sống, hai người hiền không cùng ở một đời’. Đức hoàng đế
là bậc thiên tử hiền tài. Từ nay về sau bỏ xe mui lụa vàng và cờ tả đạo.
Lục Giả về báo tin,
Hiếu Văn Đế bằng ḷng lắm.
Từ lúc úy Đà được phong
vương đến sau là năm đời, cộng chín mươi ba năm.
Trong bốn câu đầu bài
Triệu Vũ Đế Cố Cảnh, Nguyễn Du nhắc lại việc Sở và Tần tiêu diệt lẫn nhau,
ở giữa Triệu Đà được phong vương rồi tự xưng hoàng đế, nhưng nghe lời Lục
Giả mà lùi xuống hàng vương. Trong đại hóa đài Lĩnh Biểu không c̣n, mộ cổ
ở Phiên Ngung cũng mất từ lâu, nhưng triều đại kế tiếp nhau không một ai
bằng ông lăo Triệu Đà xưng là man di mà tinh hơn đời.
So sánh với h́nh ảnh
Khuất Nguyên, Triệu Đà là h́nh ảnh đối nghịch. Khuất Nguyên chỉ biết tiến
mà không biết lùi mà chết thảm. Triệu Đà tiến không được th́ lùi, giữ tṛn
mạng cho ḿnh truyền ngôi cho con cháu được tới năm đời.
Đối chiếu bài Triệu Vũ
Đế cố cảnh với đoạn Sử Kư của Tư Mă Thiên về mối tương quan giữa Nam Việt
Vương Triệu Đà và sứ thần nhà Hán gợi cho người đọc đoạn đối thoại giữa Tề
Tuyên Vương và Mạnh Tử :
Tuyên Vương nước Tề
hỏi: “Giao thiệp với nước láng giềng có đạo ǵ không?” Thầy Mạnh thưa:
“Có, chỉ người nhân là biết cái đạo đem nước lớn vỗ về nước nhỏ, thế nên
vua Thang vỗ về nước Cát, vua Văn vỗ về rợ Côn Di. Chỉ người trí là biết
cái đạo đem nước nhỏ thờ phụng nước lớn, cho nên vua Thái Vương thờ phụng
rợ Huân Dục, vua Câu Tiễn thờ phụng nước Ngô. Đem nước lớn vỗ về nước nhỏ,
đó là vui lẽ trời vậy; đem nước nhỏ thờ phụng nước lớn , đó là sợ lẽ trời
vậy. Người vui lẽ trời ấy có cái khí tượng bao hàm được cả thiên hạ; người
sợ lẽ trời ấy có cái quy mô giữ ǵn được nước ḿnh.
Đồng thời cũng gợi cho
người đọc câu cuối chương LXI sách Đạo Đức Kinh của Lăo Tử
:
故 大
國 以
下 小
國 則
取 小
國
Cố đại quốc dĩ hạ tiểu
quốc tắc thủ tiểu quốc
小 國 以 下 大 國 則 取 大 國
Tiểu quốc dĩ hạ đại
quốc tắc thủ đại quốc
故 或 下 以 取 或 下 而 取
Cố hoặc hạ dĩ thủ hoặc
hạ nhi thủ.
R. L. Wing dịch là:
Thus if a large
organization is lower than a small organisation, it can receive the small
organisation.
And if a small
organization stays lower than a large organization, it can receive the
large organization.
Therefore one receives
by becomming low; another receive by being low.
Lăo Tử Đạo Đức Kinh là
cuốn sách vua chúa học để trị nước và kẻ sĩ học để sửa ḿnh, nên song
song với chương LXI trên đây, có chương VIII dậy cách sửa ḿnh như sau:
上 善 若 水 [...]
Thượng thiện nhược thuỷ
處 眾 人 之 所 惡
xử chúng nhân chi sở ố
故 幾 於 道
cố cơ ư đạo
R. L. Wing dịch là:
The highest value is
like water [...]
It stays in places that
other disdain
And therefore is close
to the Tao.
Giới b́nh Đạo Đức Kinh
giảng rằng người thượng thiện giống như nước, ở chỗ thấp hèn mọi
người đều không ưa, nên gần với đạo. Ở chỗ thấp hèn có nghĩa là nhún ḿnh,
không đua tranh. H́nh ảnh của người thượng thiện này là h́nh ảnh của
Nguyễn Du qua suốt ba tập thơ Việt Âm của ông. Đó là h́nh ảnh con người đă
buông bỏ được chữ danh.
Điều kiện thuận tiện
cho việc ngoại giao giữa hai nước láng giềng của Mạnh Tử, cũng như của Lăo
Tử, thường không được thoả măn trong nhiều trường hợp thực tế. Người Việt
Nam có câu:
Ngoảnh mặt về Tần e Sở
giận
Quay đầu sang Sở sợ Tần
ghen.
mô tả cái khó khăn của
một nước nhỏ đứng giữa hai nước lớn.
Suy rộng điều kiện trên
sang việc tương quan giữa vua và quần thần, nếu coi nước lớn là một minh
quân, nếu coi nước nhỏ là một anh hùng, khi kẻ biết sợ trời gặp kẻ biết lẽ
trời, thời đó là cảnh vua sáng gặp tôi hiền, tỷ như truyện Dự Nhượng trả
thù cho Trí Bá chủ đề của bài Dự Nhượng Chủy Thủ Hành ; cũng như truyện
Kinh Kha sang Tần liều thân v́ nghĩa bẩy nước, chết cho tri kỷ là Thái Tử
Đan, như Nguyễn Du đă viết rơ trong bài Kinh Kha Cô Lư.
Nhưng trong cả hai
truyện trên đây Dự Nhượng cũng như Kinh Kha đều chết anh dũng nhưng đều
đáng thương.
Người Việt Nam lại có
câu:
Một đời được mấy anh
hùng
Một nước được mấy đức
ông trị v́.
Thế nên hoạn lộ nhiều
khi thành tử lộ. Hán Cao Tổ không phải không là một minh quân, Hàn tín
không phải không anh hùng, nhưng cuối cùng Hàn Tín vẫn bị Hán Cao tổ hại,
đó cũng là ư chính của bài Hàn Tín Giảng Binh Xứ.
Trong thơ Nguyễn Du,
hoạn lộ không những chỉ nguy nan trong mối tương quan giũa vua và quần
thần mà c̣n nguy nan gấp bội trong mối tương quan giữa các đống liêu với
nhau.
Ngày mới bước chân vào
hoạn lộ, Nguyễn Du đă sợ những Khổng Tước Vũ, tức nhưng con công muá đẹp
mắt nhưng trong ḷng chứa chất độc,. Người đọc có thể cơi đó tiêu biểu cho
những đồng liêu thâm hiểm mà ông đă gặp và phải giũ ǵn lời ăn tiếng nói
để khỏi lộ cánh lông.
Trong bài Nhạn Tương
Như Cố Lư, Nguyễn Du nhắc tới truyên xích mích giữa Lạn Tương Như và Liêm
Pha. Lạn Tương Như hai lần lập công to với vua nước Triệu, được vua Triệu
thăng chức Thượng Khanh cao hơn chức Đại Tướng của Liêm Pha. Liêm Pha liền
có ư t́m gặp để làm nhục Lạn Tương Như. May cho nước Triệu là Nhạn Tương
Như biết truyện t́m cách tránh mặt Liêm Pha. Có người hỏi th́ Lạn Tương
Như cho hay là v́ nuớc Triệu mà Lạn Tương Như đành phải làm như vậy, chứ
không hề sợ Liêm Pha. Liêm Pha nghe câu này thân đến xin lỗi Lạn Tương
Như.
Sự hiềm khích giữa đồng
liêu là truyện thường, truyện nhún nhường v́ việc lớn như Lạn Tương Như là
truyện hiếm, biết phục thiện như Liêm Pha lại càng hiếm hơn nữa.
Sự thường xẩy ra nơi
triều chính là truyện Nhạc Vũ Mục tức Nhạc Phi và Tần Cối mà Nguyễn Du
dùng làm thi liệu trong bài Yển Thành Nhạc Vũ Mục Ban Sư Xứ.
Nhạc Phi người đời Nam
Tống, giỏi cả văn lẫn vơ, từng có công lón đánh giặc Kim, và được vua Tống
Cao Tôn tự tay viết bốn chữ Tinh Trung Nhạc Phi trên cờ ban cho
làm cờ lệnh. Bấy giờ trong triều Nam Tống Tần Cối làm tể tướng, lại chủ
ḥa vói người Kim, muốn nhường cho nước Kim cả vùng đất Hoài Bắc. Tần cối
giả lênh vua một ngày hạ 12 đạo kim bài triệu Nhạc Phi về Kinh đô.
Nhạc phi than: “Công
khó mười năm bỏ đi một sớm”. Về tới kinh đô, Nhạc Phi bị Tần Cối hạ ngục
rồi giết.
Trong triều đ́nh vua
Gia Long, trước mắt Nguyễn Du, đă có nhiều vụ án chắc chắn làm ông phải
suy nghĩ: tỷ như những vụ án Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường, theo
Trần Trọng Kim
,
khiến hậu thế thở dài và thương tiếc cho những người ham mê hai chữ
công danh.
Phải chăng v́ thế mà
Nguyễn Du có hai câu kết bài thứ ba trong ba bài Ngẫu Thư Công Quán Bích:
平 生 已 絕 雲 霄 夢
B́nh sinh dĩ tuyệt vân
tiêu mộng
怕 見 傍 人 問 羽 毛
Phạ kiến bàng nhân vấn
vũ mao.
dịch là:
Công danh mộng hăo tiêu
ṃn
E người gạn hỏi mất c̣n
cánh lông.
mà ông viết và treo
trên vách nhà Công Quán ở Phú Xuân?
Ngoài những nguy hiểm
trên hoạn lộ do mối tương quan giũa nhà vua và quần thần hay giữa các quan
cùng triều, Nguyễn Du đặc biệt lưu ư tới sự thịnh suy của các triều đại.
Ông đă viết trong câu thứ năm bài Vị Hoàng Doanh ngày ông c̣n đang tản cư
lưu lạc:
古 今 未 見 千 年 國
Cổ kim vị kiến thiên
niên quốc
nghĩa là từ ngàn xưa
tới nay chưa thấy triều đại nào bền vững được một ngàn năm, để mô tả tính
vô thụng của các triều đại.
Ư thơ này trở lại vói
Nguyễn Du mỗi lần ông nh́n thấy những dấu tích lịch sử một thủa huy hoàng
nay thành hoang phế, trong suốt chuyến đi xứ sang Trung Quốc. Người đọc tự
hỏi, lập lại một ư thơ nhu vậy, phải chăng là ông muốn luôn luôn tự nhắc
ḿnh phải buông bỏ chữ danh, một sự buông bỏ khó khăn gấp bội việc buông
bỏ chữ lợi, để đánh đổi lấy niềm an lạc cho thân và nhất là niềm an lạc
cho tâm của ông?
Tạm ngưng việc t́m h́nh
ảnh sầu cảm của Nguyễn Du trong ba tập thơ Việt Âm, người đọc tự hỏi đứng
trước cái khổ làm người con người sầu cảm phản ứng ra sao?
Giới nghiên cứu cho hay
là người sầu cảm có ba thái độ. Một là sống theo trào lưu của cuộc sống đi
t́m những thú vui tức th́; hai là tự cho đời sống của ḿnh một thiên chức
để rồi khi đối mặt với cái vô nghĩa của thực tế thời thất vọng đến độ đi
tới tự vẫn; ba là tự t́m lấy cho ḿnh một sự tương nhượng để tiếp tục nếp
sống sầu cảm, chán nản, bi quan. Con người thường đồng thời có cả ba thái
độ trên. Thái độ thứ ba là thái độ có nhiều mầu sác nhân bản và đó cũng là
thái độ của nhiều tác giả văn học nghệ thuật tây phương.
Trở lại ba tập thơ Việt
Âm của Nguyễn Du, người đọc, không ngạc nhiên thấy qua h́nh ảnh giới người
nữ trong thơ dường như có đủ ca ba thái độ nói trên. Ngoại trừ h́nh ảnh
ngựi đàn bà ăn xin trong bài Sở Kiến Hành là h́nh ảnh con người trong
cảnh đói rách chẳng rảnh tâm suy nghĩ tới cái khổ làm ngựi, mỗi người nữ
trong thơ Nguyễn Du có một thái độ riêng.
Dương Qúy Phi, trong
bài Dương Phi Cố Lư, và Vương Thị vợ Tần Cối trong hai bài Vương Thị Tượng
là những người giữ thái độ thứ nhất khi đối mặt vói cái khổ làm ngựi. Cả
hai cùng xả thân chạy theo danh lợi, leo lên tới tột đỉnh vinh quang,
nhưng rồi kết cuộc chết thảm hay bị người sau đời đời nguyền rủa.
Tiếp theo là hai bà phi
Nga Hoàng và Nữ Anh, vợ vua Thuấn, trong bài Thương Ngô Tức Sự, nghe tin
vua Thuấn chết tại núi Thương Ngô, đi t́m không thấy, khóc lóc, rồi trầm
ḿnh ở sông Tương. Ngựi đọc thấy như hai bà phi cho là thiên chức làm vợ
thiên tử đă chấm dứt, đời sống trở nên vô nghĩa mà từ trầm. Người thứ ba
là Dương Thái Hậu, trong bài Dao Vọng Càn Hải Từ, hoàng hậu của vua Tống
Độ Tông, lúc nhà Tống thất thế, Trương Thế Kiệt và Lục Tú Phu hộ tống
Dưong Thái Hậu và thái tử Đế Bính chạy ra Qùynh Sơn, trên đảo Hải Nam.
Trương Thế Kiệt đưa được Dương Thái Hậu lên thuyền, c̣n Lục Tú Phú và Đế
Bính bị quân Nguyên đuổi gấp nhẩy xuống biển chết. Nghe tin, Dương Thái
Hậu nói: “Ta chịu gian nan tới nay chỉ cốt bảo vệ Đế Bính để ḍng họ Triệu
Tống có người nối dơi, nay đến nỗi này ta c̣n mong ǵ?” Sau đó thuyền gặp
băo đắm, Dương Thái Hậu cũng mất tích. Đó là những người nữ đối mặt với
cái khổ làm người theo thái độ thứ hai.
Cô Cầm, tay đàn nguyệt
trứ danh tại thành Thăng Long, trong bài Long Thành Cầm Giả Ca, cũng như
người nàng hầu của ông em Nguyễn Du, trong bài Ngộ Gia Đệ Cựu Ca Cơ, là
những ngựi sống với nỗi khổ làm ngựi, trong sầu cảm, trong bi quan, với
ngón đàn tuyệt diệu, với sợi tơ mành trong cuống sen đă gẫy, và mặc cho số
mệnh đưa đẩy.
Riêng nàng Tiểu Thanh,
giỏi thơ phú, đă chọn thơ văn để tạm sống với cái khổ làm ngựi, nhưng số
mệnh nghiệt ngă khiến nàng cũng phải quyên sinh.
Nguyễn Du chọn nàng
Tiểu Thanh làm tri kỷ, cũng lấy thơ văn để tương nhượng
sống với cái khổ làm
người.
Trong thực tế, đối mặt
với cái khổ làm người, con người thựng lấy rượu, lấy khói thuốc để phá
thành sầu; đó là thái độ sống của những Lư Bạch, những Lưu Linh
v.v...Những mgười lao đầu theo một chủ đích tự cho là cao cả, đến khi mộng
lớn không thành, tự chấm dứt cuộc sống, đó là những anh hùng liệt nữ, cũng
như nhưng cặp son trẻ tự tử v́ t́nh, những kẻ bất đắc chí đó là
nhưng người có thái độ sống thú hai. Những người t́m đưọc cách
tương nhượng vói cái khổ làm người, như Nguyển Du, là những ngựi đối mặt
với nỗi khổ làm ngựi bằng thái độ thứ ba. Đó là những nhà văn học nhân
bản tên tuổi, trên khắp thế giới, đặc biệt là tại Âu Châu suốt thế kỷ thứ
XIX
.
Riêng ở Việt Nam, trước
Nguyễn Du phải kể đến Nguyễn Trăi, trong bài Oan Thán, viết khi ông bị vua
Lê Thái Tổ nghi ông liên quan tới vụ Trần Nguyên Hăn tạo phản:
虛 名 寔 禍 殊 堪 笑
Hư danh thực họa thù
kham tiếu
眾 謗 孤 忠 絕 可 憐
Chúng báng cô trung
tuyệt khả liên
數 有 難 逃 知 是 命
Số hữu nan đào tri thị
mệnh
文 如 未 喪 也 關 天
Văn như vị táng dă quan
thiên.
dịch là:
Gượng cười thực họa hư
danh
Cô trung người ghét
thương ḿnh đơn côi
Trốn đâu cho khỏi số
trời
Ḷng trời chưa dứt há
vùi tu văn.
Rồi sau Nguyễn Du c̣n
có Nguyễn Công Trứ than buồn:
Ngồi buồn muốn trách
ông xanh
Khi vui muốn khóc buồn
tênh lại cựi
Lại có Đào Tấn
than:
Nghiến răng cười cười
cũng khó khăn
Ôm ḷng chịu chịu càng
vui sướng
và Tản Đà tự hỏi:
Đời đáng chán hay không
đáng chán?
Tác già cuốn Cung Oán
Ngâm Khúc mô tả nỗi buồn của ông:
Buồn v́ nỗi thiết tha
sự thế
Ai bày tṛ băi bễ nương
dâu
Trắng răng cho tới bạc
đầu
Tử sinh kinh cụ mà đau
đớn ḷng.
Và chính Nguyển Du mở
đầu cuốn Đoạn Trựng Tân Thanh:
Trải qua một cuộc bể
dâu
Nhưng điều trông thấy
mà đau đớn ḷng.
Trở lại trường họp
Nguyễn Du, ba tập thơ Việt Âm của ông không những cho ngựi đọc nhận ra
tác giả là một người suốt đời đối mặt với cái khổ làm người mà c̣n cho
người đọc biết rơ là ông đă có hai đường lối khác biệt để tương nhượng với
nỗi khổ làm ngựi. Một là t́m về tôn giáo, hai là đi vào ngả sáng tác văn
học.
Lần đầu tiên Nguyễn Du
tỏ ư muốn t́m đựng về dưới bóng Phật là năm ông c̣n ở tuổi ba mươi, đang
ở trong cảnh cùng quẫn, cả hai đường thư và kiếm cùng dỏ dang, ông viết
trong câu kết bài Tự Thán, kỳ II:
何
能 落
髮 歸
林 去
Hà năng lạc phát quy
lâm khứ
臥
聽 松
風 蠁
半 雲
Ngọa thính tùng phong
hưởng bán vân
Ông muốn xuống tóc,
nhưng không phải để đi ở chùa mà vào rừng nghe thông reo ở nửa từng mây
xanh.
Thanh Hiên Thi Tập chép
bài Đề Nhị Thanh Động, Nguyễn Du viết năm ông 39 tuổi, đă ra làm quan vói
nhà Nguyễn và nhân dịp lên Ải Chi Lăng nghênh tiếp sứ đoàn Trung Quốc sang
phong vương cho vua Gia Long. Đây là lần thứ hai Nguyễn Du nói tới Phật
pháp, ông viết:
此 心 常 定 不 離 禪
Thử tâm thường định bất
ly thiền
nghĩa là:
Tâm này thường định
chẳng dời Thiền
cho thấy là Nguyễn Du
ngồi thiền với chủ đích đoạt đưọc thường định, nôm na lả sự tĩnh
lặng trong tâm mà dường không có tham vọng nói tới cơi ngộ.
Ông nói rơ ư thơ này
trong bài Đạo Ư. Ông so sánh sự tĩnh lặng trong tâm ông với h́nh ảnh mặt
trăng trong ḷng giếng cổ: có bị nguời khuấy động thoáng gợn rồi cũng lấy
lại được niềm tĩnh lặng.
Bài Lương Chiêu Minh
Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài là một trong những bài dài nhất trong Bắc Hành
Tạp Lục, mang đậm mầu Thiền. Nguyễn Du dựng như có ư muốn trách Lương Vơ
Đế cùng Lương Chiêu Minh thái tử v́ quá sùng đạo Phật mà để nước mất nhà
tan, bày đặt việc phân kinh không những gây thêm khó khăn cho thế nhân
theo học Phật Pháp mà c̣n để cho người đời sau thi nhau luận bàn, trong
khi Đệ Nhất tổ chủ trương bất lập văn tự, và riêng ông tới Phân
Kinh Thạch Đài này mới vỡ nghĩa rằng chân kinh là kinh không viết thành
chữ.
Lập trường phản đối
Lương Vơ Đế và Lương Chiêu Minh Thái Tử của Nguyễn Du trong bài thơ dài
trên đây, dường nhu tương đồng với lập trường của Thiên Thai Tông, tựa đề
là Thích Môn Chính Thống, theo Suzuky, viết vào khoảng đầu thế kỷ thứ III,
như sau
:
Khi Phật pháp biến đổi,
nó trở thành Thiền Tông; khi Thiền Tông tăng trưởng sai lầm, nó trở thành
ma thuyết, [...] Cái nguy hiểm v́ quá nương tựa kinh và luận cũng gần như
cái nguy hiểm không hiểu biết thiết thục - một thái độ có trỏ ngại lớn cho
việc theo dơi nghiêm chỉnh đ̣i sống của đạo Phật.
Đằng khác, với kết luận
là kinh không chữ mới thật là kinh, nhắc người đọc nhớ tới một đoạn văn
của Huệ Hải, mà Suzuki trích dẫn như sau
:
Ông hăy nghe cho kỹ
đây. Trong kinh có nói rơ rằng: Những ǵ ta nói là nghĩa chứ không phải
chỉ có văn; c̣n nhưng ǵ chúng sinh nói chỉ là văn chứ không có nghĩa. Ai
hỏi ư sẽ vượt lên nhưng văn tự hời hợt; ai ngộ Lư sẽ vượt qua những văn
tự. [...] Bỡi vậy kẻ phát Bồ Đề th́ được ư mà quên lời, ngộ ư mà ảo giáo.
Như người đưọc cá th́ quên nơm, được thỏ th́ quên đó.
Trong cả ba tập thơ
Việt Âm của Nguyễn Du, có một số bài mang sắc Đạo. Trong những bài đó,
Nguyễn Du thường dùng những h́nh ảnh trong sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử
làm thi liệu. Tỷ như câu thứ ba bài Tự Thán I ông viết:
性 成 鶴 脛 何 容 斷
Tính thành hạc hĩnh hà
dung đọan
nghĩa là:
Trời sinh chân hạc dài
há cắt ngắn
Hai chữ hạc hĩnh là hai
chữ chủ chốt trong câu:
鶴 脛 雖 長 , 斷 之 則 悲
Hạc hĩnh tuy trường,
đoan chi tắc bi
sách Trang Tử Nam Hoa
Kinh, thiên Biền Mẫu
,
nghĩa là:
Chân hạc vốn dài, cắt
ngắn làm nó buồn.
Đến bài Ngẫu Hứng I,
Nguyên Du lại dùng h́nh ảnh chân hạc dài một lần nữa, kèm theo là h́nh ảnh
giống ngựa bị ngựi đóng móng đóng cương, mất một nửa tính trời, trong
chương Mă Đề sách Trang Tử Nam Hoa Kinh
,
trong hai câu:
傖 殘 物 性 悲 鶴 脛
Thương tàn vật tính bi
hạc hĩnh
刻 雒 天 真 失 馬 蹄
Khắc lạc thiên chân
thất mă đề.
Đó là những h́nh ảnh
Nguyễn Du tự mô tả: ông cho rằng việc ra làm quan, làm mất tính trời sinh
của ông, như con hạc bị cắt ngán chân, con ngựa bị đóng móng.
Sắc Đạo c̣n thấy rơ hơn
trong bài Sơn Thôn trong Thanh Hiên Thi Tập và bài Hoàng Mai Sơn Thượng
Thôn trong Bắc Hành Tạp Lục.
Những h́nh ảnh trong
bài Sơn Thôn và bài Hoàng Mai Sơn Thượng Thôn đều là h́nh ảnh chủ yếu
trong áng thơ Đào Hoa Nguyên của Đào Tiềm, một nhà thơ đời Tấn Trung
Quốc. Nguyên văn lời dẫn như sau:
Truyện Nguồn Đào
Dưói triều Tấn Thái
Nguyên, có ngư phủ đất Vũ Lăng, men theo ḍng khe, quên đường xa gần. Bỗng
gặp rừng đào, cách bờ vài trăm bưóc, không xen loại cây nào khác, cỏ thơm
tươi đẹp, hoa rụng đỏ rực. Ngư phủ lấy làm lạ, muốn vào sâu thêm, đến cuối
khu rùng. Hết rừng đến ngọn suối, bên chân núi. Núi có của hang, sáng mờ
mờ, bèn gác thuyền, theo của hang mà vào. Đầu hang rất hẹp, chỉ vùa lơt
một người. Vào sâu vài chục bước, ḷng hang mỏ rộng, sáng sủa, thấy đất
bằng rộng răi, nhà của ngăn nắp, có ruộng tốt, ao trong, có bụi dâu rặng
trúc, bờ be ngang dọc thông nhau, tiếng gà tiếng chó liên hồi. Có ngựi
qua lại trồng trọt làm lụng, đàn ông đàn bà áo quần đều như người bên
ngoài, ông già tóc bạc con trẻ trái đào, hớn hở vui vẻ.
Gặp ngư phủ thẩy đều
ngạc nhiên, hỏi từ đâu tới. Ngư phủ thuật lại mọi điều. Họ bèn mời về nhà,
rót rượu mổ gà tiếp đăi. Họ cho hay tổ tiên xưa chạy loạn Tần Doanh, dắt
vợ con và người làng tới chỗ xa xôi này lập ấp rồi không trở ra nữa; từ đó
cách biệt hẳn với ngựi bên ngoài. Họ lại hỏi bây giờ là đời nào; họ không
biết có đời Hán, nói chi đến đời Ngụy đời Tấn. Ngư phủ nhất nhất kể lại sự
t́nh, người nghe đều đau xót. Người khác lại mời về nhà chơi, thết đăi ăn
uống. Ở chơi vài ngày, ngư phủ từ biệt ra về. Có ngụi căn dặn; “Xin đừng
kể cho ai nghe truyện tới đây.”
Ra khỏi hang, t́m lại
thuyền, theo hướng cũ mà về, tới đâu đánh dấu chỗ đó. Đến quận lỵ, vào ra
mắt quan thái thú, kể lại sự t́nh. Quan sai ngư phủ trở lại, t́m nhưng chỗ
có đánh dấu, nhưng không sao t́m ra đường cũ nũa.
Lưu Tử Kỳ người đất Nam
Dương, là bậc thưọng cao sĩ, biết truyện hăng hái đi t́m nơi đó, nhưng
chưa t́m ra th́ bị bệnh mà chết. Từ đó không ai đi t́m đựng đó nữa.
Tiếp theo là áng thơ
dài 32 câu:
桃 花 源 詩
Đào Hoa Nguyên Thi
嬴 氏 亂 天 紀
Doanh thị loạn thiên kỷ
賢 者 避 其 世
Hiền giả tỵ kỳ thế
黃 綺 之 商 山
Hoàng Ỷ chi Thương Sơn
伊 人 亦 云 逝
Y nhân diệc vân thệ
往
跡 浸 復
湮
5
Văng tích tẩm phục yên
來
逕 遂
蕉 廢
Lai kính toại tiêu phế
相 命 肆 農 耕
Tưong nhật tứ nông canh
日 入 從 所 憩
Nhật nhập ṭng sở khế
桑 竹 垂 餘 蔭
Tang trúc thùy dư âm
菽 稷 隨 時 藝
10
Thục tắc tùy th́ nghệ
春 蠶 收 長 絲
Xuân tàm thu trường ti
秋 熟 靡 王 稅
Thu thục mỹ vương thuế
荒 路 曖 交 通
Hoang lộ ái giao thông
雞 犬 互 鳴 吠
Kê khuyển hỗ minh phệ
俎 豆 猶 古 法
15
Trở đậu do cổ pháp
衣 常 無 新 製
Y thường vô tân chế
童 孺 縱 行 歌
Đồng nhụ sĩ hành ca
斑 白 歡 游 詣
Ban bạch hoan du nghệ
草 榮 識 節 和
Thảo vinh thức tiết ḥa
木 哀 知 風 厲
20
Mộc ai tri phong lệ
雖 無 紀 歷 志
Tuy vô kỷ lịch chí
四 時 自 成 歲
Tứ thời tự thành tuế
怡 然 有 餘 樂
Di nhiên hữu dư lạc
干 何 勞 智 慧
Can hà lao trí tuệ
奇 蹤 隱 五 百
25
Kỳ tung ẩn ngũ bách
一 朝 敞 神 界
Nhất triêu sưởng thần
giới
淳 薄 既 異 源
Thuần bạc kư dị nguyên
旋 復 還 幽 蔽
Toàn phục hoàn u tế
借
問 游
方 士
Tá vấn du phương sĩ
焉
測 塵
囂 外
30
Yên trác trần hiêu
ngoại
願 言 躡 輕 風
Nguyện ngôn nhiếp khinh
phong
高 舉 尋 吾 契
Cao cử tầm ngô khế.
dịch là:
Thơ Đào Nguyên
Tần Doanh phá luật trời
Người hiền lánh truyện
đời
Hoàng Ỷ về Thương Sơn
Dân lành ùa theo tới
5Ngả
qua là lấp ngả
Lối về bít kín lối
Sáng ngày đi làm đồng
Chiều tối về thảnh thơi
Bóng dâu trúc dầy đặc
10
Đậu kê rộ theo thời
Xuân sang tằm kéo tơ
Vào thu thuế không đ̣i
Tiếng gà chen tiếng chó
Đường hoang không bóng
người
15Đồ
dùng theo kiểu cũ
Áo quần giữ nguyên thói
Con trẻ vui hát ḥ
Người gia vui lui tới
Cỏ xanh biết trời tốt
20Lá
rụng biết gió thổi
Ngày tháng lịch chẳng
cần
Một năm bốn mùa trôi
Sống b́nh yên vui vẻ
Chẳng chữ nghĩa theo
đ̣i
25Từ
năm trăm năm qua
Tới ngày mở thần giới
Thuần bạc chẳng một
nguồn
Bỗng cùng sống một cơi
Hỏi đựng du phưong sĩ
30Tới
cơi không gió bụi
Nguyện theo gió bổng
bay
T́m tri âm chung vui.
Sách Lăo Tử Đạo Đức
Kinh, chương 80 có đoạn sau đây
:
Nước nhỏ dân thưa khiến
dư đồ dùng, gấp mười gấp trăm [hơn người] mà không dùng, dân coi trọng cái
chết mà không dời xa, thuyền xe có mà không di; có áo giáp đồ binh mà
không bày. Khiến người ta thắt nút dây mà dùng, ăn ngon mặc đẹp, ở yên,
vui với thói tục, nước láng giềng gần gũi nghe thấy tiếng gà tiếng chó của
nhau, mà đến già đến chết không qua lại với nhau.
Người đọc thấy rơ là
Đào Tiềm khởi hứng từ chương 80 sách Lăo Tử
Đạo Đức Kinh để viềt truyện Đào Nguyên Kư và áng thơ Đào Nguyên Thi.
Nguyễn Du chắc chắn cũng khởi hứng từ sách Lăo Tử cũng như từ văn thơ Đào
Tiềm mà viết hai bài Sơn Thôn và Hoàng Mai Sơn Thượng Thôn. Trong cả bốn
bản văn thơ, dân trong hang Nguồn Đào, cũng như tại Xóm Núi hay Xóm Núi
Hoàng Mai đều yên ổn làm ăn, sống xung túc, ăn no mặc đẹp, nghe thấy tiếng
gà tiếng chó của nhau, không cần tới lịch hàng năm vua ban. Ngoài ra dân
Nguồn Đào không cả phải nộp sưu thuế cho vua như dân trong nước nhỏ lư
tưởng của Lăo Tử. Dân ở Sơn Thôn và Hoàng Mai Sơn Thôn, tuy vẫn phải đóng
thuế nhưng đời sống dễ dàng có đóng thuế vẫn c̣n dư sống. Nước nhỏ là nước
lư tưởng của Lăo Tử, cũng như Nguồn Đào là nơi sống lư tưởng của Đào Tiềm.
Xóm Núi và Xóm Hoàng Mai dường như là một chốn có thật v́ Nguyễn Du đă tự
hỏi là về già không về xóm Hoàng Mai dưỡng già th́ c̣n biết về đâu khác?
Ngựi đọc có thêm một
vài câu hỏi để chờ giới nghiên cứu giải quyết. Sơn Thôn và Hoàng Mai Sơn
Thượng Thôn là một chốn hay là hai nơi, v́ một bài chép trong Thanh Hiên
Thi Tập, một bài trong Bắc Hành Tạp Ngâm.
Vậy thời nếu cả hai
cùng có thật th́ hỏi ở đâu? Vùng núi Hồng Lĩnh, hay vùng núi Nam Trung
Quốc?
Sử gia Keith Weller
Taylor, tác giả cuốn The Birth of Việt Nam cũng đặt câu hỏi tương tự liên
quan tới hang Nguồn Đào căn cứ trên một đoạn trong Việt Điện U Linh
.
Sách Việt Điện U Linh chép đoạn đó như sau:
Phật Tử là em họ Lư
Bôn. Lư Bôn chết th́ Phật Tử theo anh của Lư Bôn là Thiên Bảo dẫn ba vạn
quân chạy lên vùng người Di, Lạo. Bá Tiên, [tướng Trung Quốc] treo giải
thưởng để t́m bắt, nhưng không được. Thiên Bảo đến động Dă Năng ở đầu
nguồn sông Thao, thấy cảnh ở đấy đẹp, đất đai sản vật ph́ nhiêu, mầu mỡ
mà lại phẳng rộng, bèn xây thành mà ở. Ngựi kéo dến tụ tập ngày một đông,
trí năng ngày một rộng khắp, bèn trở thành nước Dă Năng. Mọi người suy tôn
Thiên Bảo làm Đào Lang Vương. Chẳng bao lâu Thiên Bảo chết không có con.
Mọi người lại tôn Phật Tử lên thay. Vừa lúc đó nghe tin Bá Tiên về phương
Bắc, Phật Tử dẫn quân xuống phía Đông. Người chung quanh khuyên Phật Tử
xưng đế. Phật Tử nghe theo, nhân đó xưng hiệu là là Lư Nam Đế.
Tên động Dă Năng ở
nguồn sông Thao, (K.W. Taylor đọc là sông Dao), gợi lại truyện truyện Đào
Nguyên Kư của Đào Tiềm. Động Đào Nguyên trong thơ văn Đào Tiềm, theo
Taylor, có thể là động Dă Năng, nơi ba vị vương mở nước của nhà Tiền Lư
dưỡng quân.
Câu hỏi là có ǵ tương
quan giữa động Dă Năng này với Xóm Núi và Xóm Hoàng Mai trong thơ Nguyễn
Du? Xin người đọc chờ giới nghiên cứu giải đáp.
Người đọc dường như
thoáng thấy khuynh hướng thơ văn của Nguyễn Du qua những bài thơ ông viết
về những nhà thơ nhà văn mà người Trung Quốc thường gọi là những đại
gia.
Đỗ Phủ, tự Thiếu Lăng
dường như là nhà thơ mà Nguyễn Du tâm phục nhất. Ông viết hai bài Thiếu
Dương Đỗ Thiếu Lăng Mộ. Trong bài thứ nhất có hai câu:
異 代 相 憐 空 灑 淚
Dị đại tương liên không
sái lệ
一 窮 至 此 豈 工 詩
Nhất cùng chí thử khởi
công thi
dịch xuôi là:
Chẳng cùng thời
thương nhau rỏ lệ,
Cùng quẫn như nhau há
v́ thơ
đễ giăi tỏ ḷng ông đối
với Đỗ Phủ.
Sang bài thứ hai,
Nguyễn Du trích câu:
儒 冠 多 誤 身
Nho quan đa ngộ thân
trích từ bài Phụng Tặng
Vi Tả Thừa Trượng Thập Nhị Vận, của Đỗ Phủ để nói ông sót thương Đỗ Phủ v́
cả hai người cùng đội mũ nhà nho và cả hai cùng bị lụy thân. Cái lụy đây
là cảnh gia đ́nh Đỗ Phủ từng sống trong cảnh đói rách như gia đ́nh Nguyễn
Du. Câu thứ tư bài Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng Mộ, Nguyễn Du viết:
男 女 呻 吟 不 可 聞
Nam nữ thân ngâm bất
khả văn
nghĩa là:
Trai gái rên khóc chẳng
đành ḷng nghe
lấy ư từ câu:
男 女 呻 吟 四 壁 靜
Nam nữ thân ngâm tứ
bích tĩnh
trích từ bài Càn Nguyên
Trung Ngụ Đồng Cốc Huyện Tác Ca Thất Thủ, ghi lại cảnh một chiều mùa đông,
Đỗ Phủ phải vào rừng đào khoai rừng về ăn cho đỡ đói. Nhưng tuyết xuống
quá nhiều, không đào được khoai phải về tay không, lúc về tới nhà bốn bề
lặng ngắt, con trai con gái kêu rên.
Cảnh đau ḷng của Đỗ
Phủ trên đây cũng là cảnh sót sa của Nguyễn Du khi ông viết câu:
十 口 啼 饑 橫 嶺 北
Thập khẩu đề cơ Hoành
Lĩnh bắc
一 身 臥 病 帝 城 東
Nhất thân ngọa bệnh đế
thành đông
trong bài Ngẫu Đề, ngày
ông đau bệnh ở Phú Xuân và nhận được tin quê ông bị hạn hán nhà mười miệng
thiếu ăn. Như vậy phải chăng Nguyễn Du thông cảm với Đỗ Phủ v́ cả hai
người cùng từng trải qua những ngảy gian nan thiếu thốn.
Nhà thơ Trung Quốc thứ
hai mà Nguyễn Du vinh danh là Lư Bạch. Ông viết bài Đào Hoa Đàm Lư Thanh
Liên Cựu Tích để ca tụng Lư Bạch bằng câu thứ tám:
薄 視 榮 名 同 敝 履
Bạc thị vinh danh đồng
tệ lư
nghĩa là: coi nhẹ vinh
hoa như chiếc giày rách, sau khi nhắc lại truyện Vua Đường phái Cao Lực Sĩ
gọi Lư Bạch, vào chầu mà Tửu Tiên vẫn say mèm, khiến Cao Lực Sĩ phải vực
lên thuyền. Rồi Nguyễn Du kết luận bằng câu:
世 路 塵 埃 信 溷 濁
Thế lộ trần ai tín hỗn
trọc
不 如 終 日 痛 飲 全 吾 天
Bất như chung nhật
thống ẩm toàn ngô thiên
nghĩa là:
Đường đời bụi bặm hỗn
trọc
Thà suốt ngày uống tràn
giữ tṛn thiên tính.
Nhưng dường đó chỉ là
điều Nguyễn Du ước mơ, trong suốt ba tập thơ Việt Âm của ông chỉ có bài
Hành Lạc Từ I ghi lại cảnh say sưa .
Người đọc dường như
thấy Nguyên Du gặp Lư Bạch qua chữ thành sầu trong câu:
欲 破 城 愁 惟 有 酒
Dục phá thành sầu duy
hữu tủu
Chữ thành sầu là h́nh
ảnh mối sầu vây chặt lấy con ngựi như một bức tường thành kiên cố. Đó là
h́nh ảnh cái khổ làm người của Lư Bạch mà Nguyễn Du thông cảm. Nhưng khác
với Lư Bạch là Nguyễn Du không lấy rượu để phá thành sầu. Nguyễn Du tương
nhượng với chính ông để tói chỗ thỏa hiệp để thấy như bức thành sầu không
c̣n phiền lụy ông nữa.
Sau Lư Bạch và Đỗ Phủ,
Nguyễn Du đề cao hai trong Bát Đại Gia của Trung Quốc: một là Liễu Tôn
Nguyên và Âu Dương Tu.
Liễu Tôn Nguyên là một
văn hào đời Đường, đậu tiến sĩ, làm quan tới chức Giám Sát Ngự Sử, v́ cuộc
tranh chấp trong chiều mà bị biếm làm Tư Mă Vĩnh Châu. Nguyễn Du kết luận
bài Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu Cố Trạch, bằng hai câu:
壯 年 我 亦 為 材 者
Tráng niên ngă diệc vi
tài giả
白 髮 秋 風 空 自 嗟
Bạch phát thu phong
không tự ta
nghĩa là:
Tuổi trẻ ta cũng là gỗ
qúy
Đầu bạc sầu không đón
gió thu
để tỏ ḷng thương Liễu
Tôn Nguyên, ngày trẻ cũng đă từng nuôi mộng cao xa, nay đầu đă bạc, ông cố
giữ sao để sự khen chê nơi sân rồng không phiền lụy tới ông. Nguyễn Du đă
từng bị vua Gia Long trách là không chịu góp lời vào những cuộc tranh luận
nơi sân rồng, nhưng không để lời trách cứ đó day dứt ông như Liễu Tôn
Nguyên v́ bị biếm mà coi ḿnh là ngu khiến cây cỏ g̣ đống quanh nợi ông ở
đều bị gọi là ngu, rồi chết v́ uất hận.
Với Âu Dương Tu, nhà
nghèo, mồ côi cha được mẹ rèn cặp, 24 tuổi đậu tiến sĩ, làm quan nhiều lần
bị giáng chức cũng v́ truyện phe phái trong triều. Đồng thời là một trong
Bát Đại Gia đời Tống . Câu thứ sáu bai Âu Dương Tu Văn Trung Công Mộ:
名 家 八 大 擅 文 章
Văn gia bát đại thiện
văn chương
của Nguyễn Du cho thấy
ḷng ông trọng vọng sự nghiệp văn chương của Âu Dương Tu. Nhưng bên cạnh
một sụ nghiệp văn chương lừng lẫy, Âu Dương Tu có một hoạn lộ nhiều phen
lên xuống gập ghềnh. Phải chăng nhắc tới Âu Dương Tu là nhăc tới một điều
mà ông đă tùng nhiều lần tự nhắc nhở ḿnh, là làm cách nào để dầu ở trong
hoạn lộ mà không bị phiền lụy, mà vẫn tạo nên một văn ngiệp xứng đáng so
với Âu Dương Tu.
Bùi Độ là văn gia thứ
năm Nguyễn Du nhắc tới trong thơ. Bùi Độ người đ̣i Đường, là một công thần
đời Đường, hoạn lộ được coi là gưong mẫu cho người đời sau trong việc sự
xủ xuất. Sau khi về hưu ông lui về Lục Dă ngâm vịnh cùng các danh gia
đương thời như Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích. Nhắc tới Bùi Độ trong bài Bùi Tấn
Công Mộ, phải chăng Nguyễn Du cũng mốn noi gương xuất xử của Bùi Độ? Rất
tiếc là Nguyễn Du, tuy đă nhiều lần xin về hưu, nhưng vua Gia Long chưa
thuận th́ ông bị bạo bệnh và mất khi đang tại chức.
Sự nghiệp văn chương
của Nguyễn Du không thu gọn trong ba tập thơ chữ
mà c̣n phải kể
tới hai áng thơ nôm: Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh và cuốn Đoạn Trường Tân
Thanh. Điều đáng chú ư hơn hết là chủ đề trong cả hai tác phẩm này cùng là
nỗi khổ làm người, một nỗi khổ của con người khi bắt đầu suy nghĩ về ư
nghĩa của cuộc sống. Hơn nữa thơ Nguyễn Du trong Đoạn Trường Tân Thanh đă
đưa tiếng thơ Việt Nam lên tới mức cao từ xưa tới nay chưa từng ai đạt
tới.
Đi sâu vào nỗi khổ làm
người trong hai tác phẩm kể trên của Nguyễn Du vượt quá khuôn khổ của tập
sách này. Xin dành giới
chuyên ngành về lịch sử tư tưởng nghiên cứu.
Phải chăng sự nghiệp
văn thơ đó đă giúp cho Nguyễn Du tạm vơi nỗi khổ làm ngựi, đạt đưọc an
lạc, ataraxie, trong cuôc sống ở cơi người ta này?
Nguyễn Du sáng tác ba
tập thơ Việt Âm trong suốt thời gian ngoài hai mưoi năm. Đọc ba tập thơ
đó, người đọc như thấy ư chí kiên tŕ của tác giả, sống kỷ luật vói chính
ḿnh, không phải như một nhà khổ tu, nhưng như một người theo đuổi một mục
đích đă định sẵn. Mục đích đó không phải là để trở thành một vị anh hùng
cái thế lưu danh muôn thủa, mà là một người đi t́m an lạc cho chính bản
thân của riêng ḿnh. Đó là bổn phận con người đối với bản thân.
Để làm tṛn bổn phận
đó, nh́n qua hai bài thơ mang mầu Thiền: Đạo Ư và Lương Chiêu Minh Thái Tử
Phân Kinh Thạch Đài, người đọc thấy rơ h́nh ảnh tiến tŕnh của Nguyễn Du
trên đường trút bỏ cái khổ làm người theo nẻo Phât học. Bài Đạo Ư cho thấy
rơ Nguyễn Du đă tới được mức giữ được tâm không giao động bởi vật ngoài.
Rồi bẵng đi trong ngoài hai chục năm sau, qua bài Lương Chiêu Minh Thái Tử
Phân Kinh Thạch Đài, ông cho hay là ông không muốn dài lời bàn luận về
Phật pháp bởi muốn tuân hành lời tổ Đạt Ma: “Bất lập văn tự”. Người đọc
thơ Nguyễn Du dựng thấy Nguyễn Du đă buông bỏ danh lợi theo đúng lời Phật
dậy trong Trung Bộ Kinh, 138:
Đùng để tâm ngươi giao
động bởi vật bên ngoài, mà cũng đừng sa đà giữa nhũng tưỏng niệm bên
trong. Hăy ĺa tất cả chấp trước, tất cả sợ sệt. Đó là con đường vượt
qua cái khổ sống chết.
Giáo lư xả chấp của
Phật thựng cụ thể biểu minh bằng h́nh ảnh chiếc bè. Kinh Sutta
Nipata, V.21 chép lời Phật dậy:
Ta đă đóng một chiếc bè
chắc chắn, ta đă tới tận Niết Bàn, ta đă qua bờ bên kia, chiến thắng ḍng
cuồng lưu tham dục; ta không c̣n dùng chiếc bè vào việc ǵ nữa, vậy trời
muốn mưa th́ cứ mưa.
Kinh Kim Cương của Lục
Tổ Huệ Năng nói về chiếc bè Pháp như sau:
Như Lai thường dậy rằng
các thầy tỳ khưu nên biết pháp ta nói ví như chiếc bè đưa qua sông: pháp
c̣n bỏ huống nữa chẳng phải là pháp.
Trung Bộ Kinh giảng
rộng về bè pháp, tóm lược như sau:
[...] lời ta dậy ví như
chiếc bè, để đưa qua, không phải để mang giữ. Hăy nghe lời ta đây. Ví như
có ngựi suốt ngày đi đường mệt nhọc gặp phải một con sông rộng nưóc sâu;
bờ sông bên này th́ dầy lo sợ và hiểm nghèo, con bờ bên kia th́ yên ổn,
không sọ sệt, nhưng không có ghe thuyền đưa qua sông, mà cũng không có cầu
bắt nối hai bờ. Ví như người ấy nghĩ bụng như vầy: Quả thật sông th́ rộng
nước th́ sâu, bờ bên này đầy lo sợ và hiểm nghèo, c̣n bờ bên kia th́ yên
ổn không sợ sệt; nhưng không có thuyền mà cũng không có có cầu đưa ta qua
bờ bên kia. Sao ta không thử lượm lặt những lau sậy, nhưng que cành chà là
kết làm bè coi sao? Rồi ngồi trên bè, ta dùng tay dùng chân làm chèo, chèo
sang bờ bên kia. [...]
Byâ giờ qua sông rồi,
đến bờ rồi, ví như người ấy nói vầy: Quả thật chiếc bè ấy đă giúp tôi nên
việc lớn. Nhờ nó chở tôi, và tôi dùng tay dùng chân làm chèo, tôi mới qua
êm được đến bờ bên kia; bây giờphỏng như tôi đội chiếc bè trên đầu, hoặc
mang nó trên vai, và cứ thế mà lên đường đi dâu tùy thích? [...] Người ấy
dùng bè như vậy có khôn ngoan không?
- Bạch ngài, nhất
định là không.
-
Vậy, nếu
là ngựi khôn ngoan, người ấy phải xủ trí làm sao với chiếc bè? [...]Người
ấy nên nghĩ như vầy: Quả thật chiếc bè ấy đă giúp tôi nên việc. Nhờ ngồi
trên bè, và chèo bằng tay bằng chân, tôi qua êm được bờ bên kia. Giờ đây,
nếu tôi bỏ lại chiếc bè ấy bên bờ, hoặc vứt nó ch́m xuóng nưóc, và tôi
lại tiếp tục lên đường. [...] Nếu làm như vậy, người ấy đáng là người khôn
ngoan khée xủ trí với chiếc bè.
Cũng như vậy đó, [...]
giáo pháp tôi dậy ví như chiếc bè, cốt để đưa qua không phải để mang giữ.
Thấu rơ ví dụ đó th́ đối với pháp c̣n phải buông xả nữa là cái phi pháp.
Suziky giải thích hai
chữ pháp và phi pháp trong lời Phật dây trên đây là đồng nghĩa với có
và không, hoặc khẳng nhận và phủ nhận. Vậy phá bỏ cà pháp và
phi pháp có nghĩa là thoát ly cái chấp nhị nguyên cùng tất cả rối ren và
vướng mắc. Rồi Phật kết luận:
[...] dầu là sắc chất
nào, dầu ở quá khứ, vị lai hay hiện tại, dầu ở trong hay ở ngoài, dầu thô
hay tinh, dầu tiện hay quư, xa hay gần, sắc nào cũng phải quán như thực
trong ánh sáng chánh trí, nghĩa là quán thấy như vầy:
“Cái này không phải của
tôi,”
“Tôi không phải là cái
này”
“Cái này không phải là
tự ngă của tôi”
Bốn uẩn c̣n lại là thọ,
tưởng, hành và thức cũng như vậy đó. Người nào quán thấy thế gian như vậy
là thoái ly tất cả dục vọng tai hại, chứng đến tự do. Đó là ngựi chướng
ngại gạt bỏ xong, hào lũy lấp cạn hết, là người đả bạt trừ, đă tự do, đă
hoàn tất cuộc chiến, đă trút bỏ gánh nặng.
Vậy là người ấy đă trút
bỏ được gánh nặng của cái khổ làm người.
Cũng để tṛn bổn phận
đối với bản thân, người đọc dường thấy Nguyễn Du sống theo một nếp sống,
nh́n theo nhăn quan mà Trang Tử, để đạt tới mức :
至
人
無
己
Chí nhân vô kỷ
神
人
無
功
thần nhân vô công
聖
人
無
名
thánh nhân vô danh.
nghĩa là:
Chí nhân không v́ ḿnh
thần nhân không v́ công
thánh nhân không v́
danh
không phải để bước ra
ngoài đời ngao du sơn thủy, và nói theo Bạch Cư Dị, cũng chẳng phải sống
nơi khói ráng như những nhà tiểu ẩn, mà để t́m ra cho ḿnh niềm an lạc như
một nhà trung ẩn nơi biên trấn hay làm giảm những trói buộc với cuộc sống
của những nhà đại ẩn nơi kinh thành. Đó là nếp sống vừa xuất lại vừa xử,
không để bên nào trọng hơn bên nào.
Để đạt tới mục đích đó,
như đă thấy qua ba tập thơ Việt Âm, Nguyễn Du đă thành công trong việc
quên lăng danh, quên lăng lợi, khiến không c̣n lo sợ không c̣n đau khổ và
thản nhiên đón cái chết. Giới nghiên cứu về cái khổ của con ngựi cho biết
là một khi đạt đưọc tới mức đó, con người đạt được an lạc của cuộc sống.
H́nh ảnh thường dùng để
mô tả một con người đạt được tới cơi an lạc là h́nh ảnh một ngựi biết
chắc là ḿnh sẽ chết nay mai, nhưng vẫn vui vẻ trồng một cây táo, như ‘chẳng
có truyện ǵ sẽ xẩy ra’
Đó là h́nh ảnh Nguyễn
Du trong hai câu kết bài Tạp Ngâm, kỳ I:
庭 植 孤 松 高 百 尺
Đ́nh thực cô tùng cao
bách xích
不 知 青 帝 奈 人 何
Bất tri thanh đế nại
nhân hà
nghĩa là:
Trồng thông trăm thước
trưóc sân
Mặc cho trời đất xoay
vần chẳng lo.
Khi buông bỏ được chính
ḿnh, công danh của ḿnh, con người đạt tới được cơi an lạc cho tâm thần,
bằng ḷng với thân phận con người, bằng ḷng cả với cái vô dụng của kiếp
người, tóm lại như vậy là tạm buông bỏ đưọc nỗi khổ làm người.
Trang Tử đưa ra h́nh
ảnh cái quên tháo bỏ gông cùm cho cái tâm, bằng câu
:
忘 足 , 履 之 適 也
Vong túc, lư chi thích
dă
忘 腰 ,帶 之 適 也
Vong yêu, đái chi thích
dă
知
忘
是
非,
心
之
適
也
Tri vong thị phi, tâm
chi thích dă
[...]
忘
適
之
適
也
Nhượng Tống dịch là
:
Quên chân, thế là giầy
vừa
Quên lưng thế là đai
vừa
Quên phải trái, thế là
ḷng vừa.
Quên chân, quân lưng là
quên được chính ḿnh, khiến không c̣n bị vật ngoài như đôi giầy không vừa
chân, chiếc đai không vừa lưng làm dao đông cái tĩnh của thân, cũng như
quên cái phải cái trái, cũng là vật ngoài làm nhiễu động cái tĩnh của tâm.
Không bị vật ngoài làm
dao động cái tĩnh của thân và của tâm là tới mức mà Trang Tử gọi là
:
故 善 吾 生 者
Cố thiện ngô sinh giả,
乃 所 以 善 吾 死 也
năi sở dĩ thiện ngô tử
dă.
và Nhưọng Tống dịch là:
Khéo nuôi cái sống của
ta
tức là khéo liệu cái
chết của ta.
Nhà phê b́nh Nam Hoa
Kinh Lâm Tây Trọng giải rằng
:
[...] cái mà chân nhân
dùng để biết, cái mà chân nhân nuôi dưỡng chẳng phải là cái quên
của cơi ḷng sao? Duy kỳ ḷng đă quên rồi, cứ thế mà suy: từ ḷng đến
thân; từ thân đến đời; thông với thời; hợp với vật, cũng chẳng qua là thế.
Cho nên ḷng mà chưa quên, th́ việc làm thường gây nên cái tệ hữu tâm: ra
ǵ hạng ấy! Ḷng mà biết quên th́ ở đời có lắm nhưng tài kiêm tế: chi
thiếu tṛ hay! Ḷng của chân nhân không dùng thiên, cho nên trong đó trời
với người không bên nào thiên cả. Cái thật là biết của chân nhân là thế,
thế nên mới có thể nói rơ về truyện sống, chết ở đời. Sống với chết, cũng
như ngày với đêm. Ấy là số mệnh. Ấy là thế tất nhiên.
Nhuợng Tống bàn rộng
thêm, tóm tắt như sau:
Trang Tử bày ra một
quan niệm về nhân sinh: vừa nhập thế vừa xuất thế. Nhập thế là xử thế như
mọi người, nhưng mà làm đó mà vẫn tiêu dao như không làm, dù cho công
trạng kịp tới muôn đời, cũng quên ḿnh không kể tới công danh. C̣n xuất
thế chẳng phải là truyện ẩn cư tu hành mà vẫn ở trong đời, vẫn gánh vác
việc đời. Cùng nhăn quan đó, Sống với chết chỉ là một thể, chẳng qua là sự
rất thựng, chẳng đáng để lọt vào ‘kho thiêng’.
Xuất trong khi xử, tại
một phiên trấn, là cảnh trung ẩn, xuất trong khi xử tại đế đô là cảnh đại
ẩn.
Suốt hoạn lộ Nguyễn Du
hoặc sống như một trung ẩn khi c̣n ở cấp huyện cấp phủ; thăng chức vào
kinh ông vất vả hơn, sống đời đại ẩn, rồi lại thăng chức làm Cai Bạ Quảng
B́nh, ông lại có thêm bốn năm vui đời trung ẩn.
Cuối cùng là hai năm đi
xứ, rồi lại thăng chức và lại phải sống đời đại ẩn rồi mất. Đúng như lời
bàn của Nhượng Tống cái chết đến với Nguyễn Du rất thường, chỉ là
một thể với cái sống. Ông đă suốt một đời khéo nuôi cái sống của ông, thế
nên ông đă thực khéo liệu cái chết của ông. Thật đúng như lời sách Nam Hoa
Kinh
:
[...] “khối lớn” làm
mệt ta bằng sự sống, cho ta rỗi bằng tuổi già, để ta nghỉ bằng cái chết.
Cái chết của Nguyễn Du
khác với cái chết của nhà vua trong vở kịch Le Roi se Meurt của Ionesco.
Nhà vua này chết chưa kịp sống: suốt đời ngài c̣n phải lo làm vua. Đối mặt
với thần chết nhà vua tiếp tục làm vua: ra lệnh cho thần chết phải để cho
ngài bắt đầu cuộc sống. Thần chết trả lời ngài: “Tâu bệ hạ, quá
muộn mất rồi”
.
Cái chết của Nguyễn Du,
cái chết của ngựi khéo lo cái sống gợi cho ngựi đọc bài dụ ngôn của Hồng
Y Giáo Chủ Richelieu, tóm tắt sơ lược như sau
:
Je descends le fleuve
de ma vie comme si j’étais embarqué sur un esquif léger et fragile. Un
jour, je le sais, je déboucherai dans l’océan qui m’engloutira, et ma
petite embarcation, renversée et culbutée, me jettera dans la mort. Mais
d’ici là, il m’est donné de descendre de tout son long le fleuve de ma
vie.
Il y a deux manières de
descendre ce fleuve. La première c’est de rester à l’avant de la barque,
les yeux facinés par le moment où tout culbutera vers la mort. Je ne pense
pas que ceci soit souhaitable.
La deuxième manière,
c’est de s’assoir à l’avant de la barque mais en tournant le dos à la mort
qui vient, c’est à dire à l’aval du fleuve vers lequel on descend. Ainsi,
adossé à la mort, je regarde la barque qui est là devant mes yeux. Et dans
la barque, il y a ceux qui sont embarqués avec moi. Je m’accule à la mort
qui vient pour mieux ouvrir les bras au présent de la vie. Et je me hâte
de vivre l’essentiel au milieu des futilités.
Cái chết của Nguyễn Du,
chép trong sách Chinh Biên Liệt Truyện như sau
:
Khi tiên sinh phải bệnh
nặng, không chịu uống thuốc. Lúc gần mất, sai người sờ tay chưn xem c̣n
nóng hay lạnh. Người nhà nói đă lạnh cả rồi. Tiên sinh nói rằng: được! Nói
xong th́ mất, không có một lời nào dặn ḍ đến việc sau.
Chi tiết “bệnh nặng
không chịu uống thuốc” cho người đọc thấy là Nguyễn Du muốn có một cái
chết an lạc. Điều thứ hai là Nguyễn Du “không có lời nào dặn ḍ đến
việc sau” chứng tỏ rằng ông dă khéo nuôi cái sống để khéo lo liệu cái chết
của ông, đúng như lời Trang Tử Nam Hoa Kinh. Đồng thời cho thấy niềm an
lạc của Nguyễn Du đă không bị cái chết làm dao động.
Phải chăng điều đó
chứng tỏ là Nguyễn Du đă có một cuộc sống an lạc, và một cái chết an lạc?
Như vậy, phải chăng ba cuốn thơ Việt Âm, không những chỉ là ba tập nhật
kư sâu kín của Nguyễn Du mà c̣n là ba tập sách cho biết kinh nghiệm của
một người dă thành công trong việc tương nhượng và thỏa hiệp với chính
ḿnh để đối đầu với cái khổ làm người?