
Mỗi
năm Tết đến ḷng chúng ta nôn nao mơ tưởng mùa Xuân cũ năm
nào những bài thơ của thi sĩ Vũ Đ́nh Liên, thơ cho ta nỗi
lâng lâng rộn ràng, ví dụ bài Ông đồ chẳng hạn. Hăy nói sơ
qua về tiểu sử của nhà thơ.

Thi sĩ Vũ Đ́nh Liên
Vũ Đ́nh Liên sáng tác bài thơ Ông đồ, một tác phẩm bất hủ và bất tử trong
vườn thơ Việt Nam. Thực ra ông sáng tác nhiều bài thơ nữa, nhưng công
chúng chỉ biết mỗi một bài Ông đồ mà thôi. Ông sinh ngày 12-11-1913, quê
gốc Hải Dương, mất ngày 18-1-1996 tại Hà Nội, Vũ Đ́nh Liên là một trong
những người mở đầu và góp phần cho phong trào Thơ mới, nổi tiếng với những
vần thơ ca ngợi t́nh yêu, tuổi trẻ.
Vũ Đ́nh Liên là nhà thơ kiêm nhà giáo tận tụy với công việc sư phạm, ông
dạy học (môn Pháp văn) và dịch thơ, mà hầu như chỉ dịch thơ đại thi hào
Pháp Charles Beaudelaire.
Vũ Đ́nh Liên thích thơ Beaudelaire, nên bạn bè gọi ông là Baud Liên, một
"Baudelaire Vietnamien". Về những tác phẩm chính:
Một số bài thơ: Ông đồ, Ḷng ta là những hàng thành quách cũ, Lũy tre
xanh, Người kỹ nữ Cầu Tṛ (1973), Người đàn bà điên ga Lưu Xá (1977), Gặp
lại người đàn bà điên (1987), Người điên - Nàng Tiên (1992),...
Sách đă xuất bản: Đôi mắt (thơ - 1957); Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam
(cùng Nhóm Lê Quư Đôn -1957) ; Nguyễn Đ́nh Chiểu - Nhà chí sĩ yêu nước
(1957); Thơ Baudelaire (2) (dịch-1995); Thơ Vũ Đ́nh Liên (NXB Văn hóa,
1996).
Tập thơ Les fleurs du Mal (Những bông hoa ác) của Baudelaire, một công
tŕnh nghiên cứu và dịch trong gần 40 năm sáng tác, đến khi CS cai trị
miền Bắc, sức sáng tác của ông suy giảm. Bây giờ hăy xét qua bài thơ nổi
tiếng Abel và Caïn của Baudelaire, qua sự chuyển ngữ của nhà thơ Vũ Đ́nh
Liên.
- Pháp ngữ phân đoạn 1:
"Race d'Abel, dors, bois et mange;
Dieu te sourit complaisamment.
Race de Caïn, dans la fange
Rampe et meurs misérablement.
Race d'Abel, ton sacrifice
Flatte le nez du Séraphin!
Race de Caïn, ton supplice
Aura-t-il jamais une fin?
Race d'Abel, vois tes semailles
Et ton bétail venir à bien;
Race de Caïn, tes entrailles
Hurlent la faim comme un vieux chien.
Race d'Abel, chauffe ton ventre
À ton foyer patriarcal;
Race de Caïn, dans ton antre
Tremble de froid, pauvre chacal!
Race d'Abel, aime et pullule!
Ton or fait aussi des petits.
Race de Caïn, coeur qui brûle,
Prends garde à ces grands appétits.
Race d'Abel, tu croîs et broutes
Comme les punaises des bois!
Race de Caïn, sur les routes
Traîne ta famille aux abois."
- Việt ngữ phân đoạn 1:
“Ṇi giống Abel hăy ngủ ngon và ăn uống no say
Chúa trời đầy cảm t́nh cười với chúng bay
Ṇi giống Caïn trong bùn lầy nước bẩn
Hăy lê la và chết dần chết ṃn khốn nạn
Ṇi giống Abel, rượu ngon thịt sống bày dâng
Hương vị thơm tho làm nở mùi thiên thần
Ṇi giống Caïn h́nh tội các ngươi chịu đựng
Có ngày nào hết chăng hay vô cùng vô tận
Ṇi giống Abel hăy xem đó mùa màng
Và ḅ ngựa của bay béo tốt, chín vàng
Ṇi giống Caïn, gan ruột ngươi la thét
Gào đói như con chó già sắp chết
Ṇi giống Abel hăy sưởi cái bụng phệ của bay
Bên ḷ sưởi gia đ́nh, con cháu sum vầy
Ṇi giống Caïn trong hang sâu gió rít
Hăy run lên, con chó ngao ăn thịt chết
Ṇi giống Abel hăy lấy nhau và nảy nở sinh sôi
Vàng của bay cũng sinh con đẻ cái như người
Ṇi giống Caïn, trái tim cháy bỏng
Các ngươi hăy pḥng ngừa ước ao khát vọng
Ṇi giống Abel hăy ngốn cỏ và lớn nhanh
Như những đàn rận rệp của rừng xanh
Ṇi giống Caïn lang thang trên đường cái
Hăy tha vợ, tha con ngươi, đói nghèo, kinh hăi."
- Pháp ngữ phân đoạn 2:
"Ah! race d'Abel, ta charogne
Engraissera le sol fumant!
Race de Caïn, ta besogne
N'est pas faite suffisamment;
Race d'Abel, voici ta honte:
Le fer est vaincu par l'épieu!
Race de Caïn, au ciel monte,
Et sur la terre jette Dieu!"
- Việt ngữ phân đoạn 2:
"Nhưng mà ôi! Ṇi giống Abel xác thời chẳng bay
Sẽ làm phân bón cho ruộng đất một ngày
Ṇi giống Caïn, bàn tay lao động
Của các người chưa làm vừa, làm đúng
Ṇi giống Abel, đây là cái nhục chúng bay
Cái gậy đi săn đă đánh bại lưỡi cày
Ṇi giống Caïn hăy chiếm cả bầu trời cao ngất
Hăy lên trời và vất chúa trời xuống đất."
Dù đă nổi danh trong phong trào Thơ mới nhưng cho đến khi được Hoài Thanh
- Hoài Chân chọn thơ viết giới thiệu trên cuốn Thi nhân Việt Nam, Vũ Đ́nh
Liên chưa xuất bản một tập thơ nào cả, một đặc cách rộng răi cho Vũ thi
nhân. Đầu năm 1941, trong một bức thư gửi Hoài Thanh, lúc Hoài Thanh thực
hiện tác phẩm Thi nhân Việt Nam.
Vũ Đ́nh Liên vốn khiêm tốn, nên có những bài thơ hiếm hoi của ông được
biết đến đều mang tâm trạng u buồn, những nỗi niềm hoài cổ, về lũy tre
xanh xưa, về thành quách rêu rong nét cũ mà vẻ ảm đạm của “Lối xưa xe ngựa
hồn thu thảo, Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” hay "Những người muôn năm
cũ, Hồn ở đâu bây giờ?". Hoài niệm của ông cũng là nỗi niềm của nhiều
người và bức tranh bằng thơ về Ông Đồ vẫn sẽ c̣n ngậm ngùi vang vọng măi
với thời gian: "Ông đồ vẫn ngồi đấy, Qua đường không ai hay, Lá vàng rơi
trên, giấy, Ngoài trời mưa bụi bay", (*).
Vũ Đ́nh Liên đă tự nhận ḿnh là nhà thơ của giới lao khổ của xă hội.
Trên báo Phong Hóa, số ngày 18-8-1934, ông ao ước:
"Tôi muốn hát những bài ca thảm thiết
Như những tiếng kêu than của người đói rét...
Tôi muốn ru những trẻ con côi cút
Không chốn nương thân, không người chăm chút...
Tôi muốn an ủi những người nghèo khổ
Thiểu năo bơ vơ, không họ hàng nhà cửa...
Tôi sẽ gọi bạn lầm than đói khát
Đến xung quanh để nghe tôi đàn hát...
Rồi hết thảy bầy rách rưới đui mù
Từ ông lăo già cho đến đứa trẻ thơ
Dứt tiếng hát đều kêu lên cảm khái:
-Anh là thi sỹ của những người thân tàn ma dại."
Bốn mươi ba năm sau, từ 1944-1977, khi ngoài đời đă bao nhiêu đổi thay,
người CS làm chủ đất nước, Vũ Đ́nh Liên vẫn giữ nguyên vẹn ḷng thương
xót, nỗi chia sẻ tê tái với những người thua thiệt trong xă hội.
Bài thơ Người đàn bà điên ga Lưu Xá là một thí dụ điển h́nh. Xuân đang về
hăy xem bài thơ bi ai này. Ông tả cảnh người đàn bà điên trong chuyến tàu
Tết như sau:
"Người đàn bà điên ga Lưu Xá
Ngồi ngay trước mặt dưới chân tôi
Ai vẽ được thiên tài hội họa
Chân dung kia kinh tởm tuyệt vời
Công chúa điên rồ và rách rưới
H́nh ảnh lạ lùng chửa có hai
Cảnh tượng Đông Tây cộng lại
Khôn dựng nên dù một phần mười..."
Chân dung người đàn bà điên xơ xác cho thấy Vũ Đ́nh Liên hướng thi ca của
ông thiên về nếp sống dân sinh xă hội.
"Bao tải xơ ni lông nát vụn
Sợi dây thừng buộc mũ rách bông ...
Tôi ngồi ngắm mắt không hề mỏi
Đống rác kia xưa đă là hoa...
Ai dun dủi và ai sắp đặt
Một nhà thơ với một người điên
Tôi bắt gặp ba lần cặp mắt
Nhẹ căm thù như muốn làm duyên..."
Đoạn thơ cuối, Vũ Đ́nh Liên mong mỏi cho người đàn bà điên có được đời
sống vui tươi hơn:
"Tôi đi t́m đến những người thân
Bè bạn cháu con xa với gần
Ngày Tết cổ truyền vui thiếu đủ
Nh́n mặt người như nắm hoa xuân
C̣n tôi biết cuộc đời đă trút
Lên hoa kia sương tuyết nặng dày
Đời độc ác ḷng người bội bạc
Làm hoa kia thành đống rác này
Đời sẽ đổi ḷng người sẽ đổi
Sẽ trở về t́nh xót nghĩa thương...
Người em Lưu Xá ở đâu đây
Có thấy ấm ḷng xuân nắng hây
Một đóa hoa tàn nay nở lại
Thắm hồng trong buổi mới xuân nay..."

Bài thơ trên nói về Xuân mới sang, bài thơ kế đề cập về mùa Tết đến, trong
tưởng người viết bài sắp xếp chuyện Tết với thi nhân Vũ Đ́nh Liên:
"Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua"
(*, Ông Đồ, Vũ Đ́nh Liên)
Tôi đọc bài viết "Đầu Năm Nhắc Chuyện Tết" của tác giả Trần Đ́nh Thông như
sau:
"Bài thơ xưa nhắc tôi nhớ nhiều về những ngày tết xa xưa khi mà ở các chợ
hay trên hè phố lớn hay các nơi đông người, các di tích có nghi lễ tết
như chùa hay các miếu, đ́nh hay lăng, ví dụ Lăng Ông Bà Chiểu hay Sở Thú
có sự hiện của cụ đồ trong quần trắng, áo dài màu đen như y phục truyền
thống của các cu. Khi cụ đồ tung bút phết bằng cọ những chữ phóng họa thật
bay bướm có nét rồng bay phượng múa th́ thật là đẹp mắt trên các bản vẽ
chúc xuân hay chúc tết đầu năm. Viết về kỷ niệm tết th́ tôi có cả một kư
ức dầy đặc để kể ra đây...
Rồi giao thừa đến. Chuông trống đền chùa khua vang. Giữa giờ phút thiêng
liêng của đất Kinh kỳ vào xuân, nhà nào cũng đốt đèn nến, thắp tuân hương
mới, khấn vái tổ tiên phù hộ cho khỏe mạnh buôn bán phát tài, con cái học
hành tấn tới. Rất nhiều nhà c̣n đặt mâm lễ ngoài trời để cúng vái tạ ơn
quan cũ về trời, đón mừng quan mới vừa tới. Nh́n vào hai cốc pha lê đặt
thủy tiên, hôm qua hoa c̣n hàm tiếu, giờ đă nở đúng giao thừa, tỏa hương
thơm ngát, coi như thế là điềm lành cho cả năm.
Chúc Mừng Năm Mới."
Thơ của Vũ Đ́nh Liên mang nét hoài cổ khiến đọc tác phẩm của ông cho ta
cảm nhận cảm giác bâng khuâng tiếc nuối những truyền thống văn hóa xưa đă
mờ nhạt dần, bốn câu nhập đề của bài viết Trần Đ́nh Thông viết bên trên.
Mỗi dịp Tết đến Xuân về, người Việt xưa thường có thói quen xin chữ để gửi
gắm những mong ước, khát vọng cho năm mới như tác giả bài viết chuyện Tết
ghi nhận.
Mùa hoa đào nở cũng là thời khắc giao mùa, sự thiêng liêng giữa năm cũ và
năm mới đang đến. Mỗi khi hoa đào nở là lại thấy ông đồ già xuất hiện bên
cạnh đĩa mực tàu, giấy đỏ bên phố nhộn nhịp người đi lại du XU Xuân mới,
mua sắm cho Tết nhất. Lời thơ chứa chan sự thổn thức, bồi hồi dáng ông đồ
xưa. Bài thơ dài (20), hai mươi chữ (*) giới thiệu được trọn vẹn không
gian, thời gian, nhân vật, tạo tiền đề cho câu chuyện xin được tiếp tục
tŕnh bày như trong các câu thơ sau:
"Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay."
Hai câu tiếp theo, nhà thơ mô tả tài năng của ông đồ, bán chữ nghệ thuật
vẽ, nét bút mát tay tài hoa của ông đồ:
"Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay"
Câu thơ trên của Vũ Đ́nh Liên diễn tả nét chuyên nhiệp, nghệ thuật hái ra
tiền khi Xuân về, kỹ năng vẽ chữ phượng múa rồng bay với niềm hân hoan
trong thời buổi hoàng kim của ông đồ. Đến hai câu thơ thứ 9 và 10 lại thơ
cho vẻ ê chề, năo nuột:
"Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?"
Dùng hai từ ngữ điệp vận "mỗi" trong một thơ diễn tả sự kiện cụ đồ của văn
hóa thuở nho thịnh nay đă hoàng hôn, vắng thưa khách thuê viết theo thời
gian.
"Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay"
Đoạn đầu bài thơ tô điểm mỗi năm hoa đào nở biểu tượng cho không gian Tết
đến, khung trời sang Xuân, sự xuất hiện của ông đồ già cong lưng vẽ chữ
làm cảnh vật xung quanh và ḷng người thêm náo nức, rộn ră. Quần chúng đón
nhận ông bằng tất cả sự trang trọng cần thiết. Nay th́ giờ đây ông vẫn
ngồi đấy, trên con phố dông người lại du xuân sắm tết. Ông chờ đợi sự đoái
hoài, hương Tết xưa của khách hàng qua lại mà sao như sự thờ ơ công việc
nghệ thuật của ông.
Một khi nếp sống xă hội theo tây hóa, h́nh ảnh của ông đồ biểu hiện cho
văn hóa xưa nho học đă bị đào thải, như thơ của thơ Tú Xương mô tả sự kiện
đổi thay xă hội:
"Nào có ra ǵ cái chữ nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co"

Tết lại đến để ông đồ h́nh như bị im ĺm ch́m sâu khuất lấp h́nh bóng đáng
yêu xưa, mờ nhạt dần trong phong tục đầu năm khi xuân về. Để rồi phong tục
cũ thật sự mai một tịch liêu:"
"Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa"
Bài thơ kết thúc bằng hai câu thơ buồn bă mà nhiều chúng ta thuộc làu
trong tâm thức xót thương cho dĩ văng một thời nhuốm văn hóa xưa phong tục
cũ khi thi nhân “gọi hồn” của sự kiện nay đă mất...
"Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?".
“Những người muôn năm cũ” ấy có thể là ông đồ, có thể là khách du xuân mua
họa phẩm nghệ thuật của ông đồ. Nhưng cái mất mát trong thơ của Vũ thi
nhân là sự tiếc nuối, thơ mang âm hưởng xót xa, bởi v́ kỷ niệm đă phôi
phai, tàn lụi của những nét đẹp trong văn hóa cổ truyền như dịp Tết đến
Xuân về của dân tộc.
Hoàng Nam Trần Việt Hải
* Ghi chú thơ trọn bài:
ÔNG ĐỒ
Vũ Đ́nh Liên
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phụng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?”
(sáng tác năm 1936)

Trần
Việt Hải


    


|