

Tranh : Trần Thanh Châu
***
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây…
Hồ Dzếnh
Đầu
Đông tôi nhận được một bài thơ Đường do người em đồng hương Phan Phước Huy
gởi, tác giả là một cô đang sống ở Canada tên Trúc Lan
Những năm đi học xa, Tết đến, mỗi lần đặt chân lên con đường đất từ ga
B́nh Định rẽ xuống làng, tuy đă gần đến nhà mà sao tôi vẫn cứ thấy nhớ.
Hồ Dzếnh, nhà thơ có nửa ḍng máu Trung Hoa, nên cái nhớ của ông thật
tràn đầy với Tô Châu lớp lớp phù kiều/ Trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang
Nam. Tôi chỉ là một gă con trai mặt vừa mới trổ lang beng và vừa mới bể
tiếng nên cũng chưa nhớ ai bôi hổi bồi hồi/ như đứng đống lửa như ngồi
đống than. Tôi chỉ nhớ lưng lửng thôi. Nhớ bà, nhớ ông…và con chó mực.
Những người và con vật có lẽ không c̣n sống được với tôi bao nhiêu năm
nữa. Cứ mỗi lần về rồi đi, tôi lại nghĩ biết đâu đây là lần cuối cùng tôi
được gặp. Cho nên cái tiếng buồn Hồ Dzếnh nghe vang tận trong mây th́ tôi
chỉ nghe vang nhè nhẹ. Tuy nhẹ nhưng vẫn là tiếng buồn, nó khiến xui bước
chân tôi vội vă hơn và ḷng th́ nôn nao tưởng như có ai chạm vào.
Đầu tiên là cái bến xe ngựa mà mùi phân và nước đái, dẫu chẳng thơm tho
chút nào, vẫn khiến tôi xúc động. Nó không như bến xe ô tô nồng nặc mùi
xăng dầu đến ngầy ngật. Nó khai khai, gắt gắt. Nó lưu cửu từ năm này tháng
nọ, nên ngồi đâu đứng đâu cũng thấy nó đậm đặc, tưởng chừng sờ thấy được.
Xe đến chuyến đang đợi sẵn, khách cứ việc leo lên, đủ số người th́ chạy.
Con ngựa, cái mặt vẫn dài muôn thưở, đuôi thỉnh thoảng ngoe nguẩy vu vơ.
Chủ cũng vẫn bộ quần áo cũ kỹ, có lẽ mặc đến chết th́ thôi chứ chẳng buồn
thay. Ông vẫn đứng tỉnh bơ hút thuốc, chẳng cần biết trong số khách có
người đang nóng ruột muốn được sớm về nhà.
Trời trên bến xe, vẫn là trời của muôn năm cũ. Chẳng có một cột ống khói
nào, cũng chẳng có nhà cao tầng. Vẫn là một khoảng cao rộng mênh mông, để
mây trắng lắm tha hồ bay, để gió thênh thang thổi. Nghĩa là vẫn màu trời
của thôn xưa khi nắng xuân chưa nhạt màu.
Rồi xe cũng chạy. Khởi sự băng qua một đoạn lồi lơm đến kinh người, gọi là
Bầu Sáo. Mùa lụt, nước từ sông tràn qua, cuốn hết đất đá, để lại những lỗ
thủng to như cái nong. Chủ xe phải nhảy xuống phụ lực cho con ngựa. Đôi
khi bánh sụp xuống lỗ, ông nói trong hơi thở dốc: thôi mấy người xuống
giùm cho!
Lúc này mới thấy trong các con vật được con người nuôi, con ngựa kéo xe là
khổ cực nhất. Nó thót bụng lại, phơi hết xương sườn ra, cố nhấc chiếc xe
lên. Và đây chính là lúc nó bị đánh nhiều nhất. Chiếc roi ngựa bằng mây,
dẻo và dai như thép, được chủ quất tới tấp trên lưng để lại những vết hằn
tươm máu. Không như con trâu được chủ dỗ dành: trâu ơi ta bảo trâu này/
trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta!. Cho nên người ta bảo con trâu là bạn
của nhà nông chứ không ai bảo là con ngựa.
Cuối cùng con ngựa cũng kéo được chiếc xe qua khỏi đoạn đường tử thần (v́
từng có con đứt ruột mà chết). Đường tuy quanh co, nhưng bằng phẳng hơn.
Dù mệt muốn đứt hơi, nhưng nó vẫn cố sức sải những bước dài, gơ móng xuống
mặt đường kêu lóc cóc. Chiếc lục lạc ở cổ cũng vang lên những tiếng kêu
leng keng. Cả hai tạo thành khúc nhạc buồn mênh mang, đúng là vang trong
mây.
Con đường dọc theo sông, một bên cao là những vạt đất thổ được phủ đầy phù
sa, bắp đổ xanh đầm đ́a, một bên thấp là ruộng lúa đang th́ con gái, cũng
xanh nhưng dịu dàng hơn. Rồi qua một cái g̣ dài mà nếu đi bộ thấy sao mà
nó xa thăm thẳm. Đầu g̣ có một bụi toàn tre đực đứng lẻ loi. Nơi đây ngày
xưa, từng có người bị chém, đầu cứ treo măi trên ngọn tre. Lại thêm những
con ma Hời sờ soạng dắt nhau đi, nên dù đang ngồi trên xe ngựa, vẫn cảm
thấy có chút ǵ lạnh lạnh. Rồi ngổn ngang g̣ đống kéo lên với mồ cao mả
thấp, chưa đến Tết nên chưa có cảnh thoi vàng hồ rắc tro tiền giấy
bay, nhưng gần như mọi ngôi mộ đều đă được người sống giẫy cỏ sạch sẽ, để
người chết cũng có thể vui với gió xuân ấm áp.
Phía bên kia sông, một tháp Hời màu nâu thẩm, vừa kiêu hănh vươn lên giữa
trời xanh, vừa trầm mặc soi bóng xuống ḍng nước đựng cả bóng mây chiều.
Nh́n ngọn tháp đó, bao giờ tôi cũng mơ màng nhớ tới công chúa Huyền Trân.
Có lẽ v́ con sông này chảy ngang qua kinh thành Đồ Bàn. Những Chiêm nữ
ngày xưa đă từng xuống sông lấy nước cho nàng tắm. Bọn họ đầu đội ṿ nước,
nhưng tay và chân vẫn tự nhiên thong thả, người nọ nối tiếp người kia
thành một hàng dài trong bóng hoàng hôn.
Rồi xe đi qua thôn Thuận Thái, quê mẹ của mẹ tôi. Xe chạy sát một hàng tre
dài để ngăn những cơn gió bấc lạnh buốt từ sông thổi vào. Bà ngoại mất
trước khi mẹ tôi đi lấy chồng, nên lúc nhỏ mỗi lần theo mẹ về ngoại tôi
không có được cái vui của đứa cháu sà vào ḷng bà. Chỉ có ông ngoại cho
tôi được sờ râu và lúc nào cũng có sẵn đường phèn để cho tôi một cục.
Qua hết cái lũy tre của quê ngoại là đă về đến quê của nội. Không có cây
đa đầu làng, nhưng có cây vông quanh năm xanh tốt tỏa bóng mát cho lũ trẻ
con nô đùa.
Đă thấy những nhà đầu xóm, hàng rào được cắt xén cẩn thận, cỏ trên đường
đă được giẫy sạch, trong sân hoa cải nở lấm tấm, hoa tàn ô x̣e nhụy tṛn
như đồng tiền và hai hàng vạn thọ trên lối vào, như tuân lệnh chủ đang
đứng chào khách. Một màu vàng đơn sơ, nếu không muốn nói là quê mùa, nhưng
hiền ḥa chân thật.
Con chó già, mũi vẫn c̣n thính, đánh hơi tôi về đă ra tận ngơ vẫy đuôi
mừng. Rồi ông tôi run rẩy để rơi một giọt nước mắt trên cḥm râu bạc, bà
tôi từ dưới bếp lên, móm mém nói: cháu về sớm, bà rất mừng. Mẹ tôi th́ hỏi
nói nhiều hơn, nắn cả tay tôi, xoa đầu tôi, hối tôi đi tắm để ăn món này
uống món nọ.
Xem ra, nỗi nhớ của tôi giờ đây đầy hơn Hồ Dzếnh, v́ cả hai nửa con người
tôi đều là người Việt, mà là người được sinh ra và lớn lên ở một nơi xiết
bao tâm sự.
TRƯƠNG THANH SƠN
1/2015

