
Có
vị học giả khi mô tả tính cách của Thủ Độ, ông đă
viết “Người phi thường, hành động phi thường, không uốn ḿnh
theo khuôn khổ đă rập sẵn của bọn hủ Nho Khổng Tử.”
Trần Thủ Độ là một trong số nhân vật kiệt xuất nhất Việt Nam . Ông là
người biểu hiện tập trung nhiều sứ mệnh lịch sử nhất: Chính trị gia, chiến
lược gia, kiến trúc sư guồng máy nhà nước, đạo diễn chính trị xuất sắc… là
một nhân vật cột trụ của triều đ́nh nhà Trần, đồng thời là công thần sáng
lập triều Trần, và là người thực sự nắm quyền lănh đạo đất nước suốt 40
năm (1226-1264); Nên ngay sau khi lên ngôi vua, Trần Thái Tông đă phong
Thủ Độ làm quốc thượng phụ, nắm giữ việc cai trị đất nước.
Thái Tông thu được thiên hạ hết thảy đều do mưu lược của Thủ Độ. Cho nên
nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua… Có người thấy Ông có nhiều quyền
uy trong triều, liền vào gặp Thái Tông tâu rằng: Bệ hạ c̣n thơ ấu mà Thủ
Độ quyền át cả vua, xă tắc rồi sẽ ra sao? Thái Tông lập tức đưa người ấy
đến dinh Thủ Độ, nói hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ nghe. Thủ Độ
trả lời: “Đúng như lời hắn nói”, rồi lấy tiền, lụa thưởng cho người ấy.
Thủ Độ là người có bản lănh và cá tính xuất chúng. Ông xử sự việc ǵ cũng
thẳng thắn, quyết đoán theo ư chí của ḿnh, không chịu để cho t́nh cảm sai
khiến.
Có lần Thiên Cực công chúa xin riêng cho một người làm Câu Đương, ông nhận
lời. Đến lúc xét, ông gọi người ấy lên mà bảo: “Người v́ có Công chúa xin
cho được làm Câu Đương nên không so với người khác được, phải chặt một
ngón chân để phân biệt”.
Người ấy sợ quá xin măi mới được tha. Từ ấy không dám đến nhà riêng xin xỏ
nữa.
Vợ Trần Thủ Độ là Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung khi đi ngang qua cung
cấm, th́ bị một người lính chạy cờ ngăn lại. Bà trở về nhà thuật lại và
khóc:
“…Mụ này là vợ ông mà bị bọn quân lính khinh nhờn như vậy!” Trần Thủ Độ
tức giận sai bắt người lính chạy cờ về trị tội. Nhưng sau khi nghe người
này tŕnh bày nguyên do th́ Ông cười và nói: “Người ở dưới cấp thấp mà
biết giữ phép nước, ta c̣n trách ǵ nữa”, sau đó ban thưởng cho người này.
Trong ba cuộc đọ sức với Thành Cát Tư Hăn, th́ cuộc chạm trán đầu là quan
trọng nhất. Nó quan trọng bởi v́ các quốc gia trên thế giới thời bấy giờ
đều khiếp đảm trước vó ngựa quân Mông Cổ chiếm giữ cả vùng Trung Á, cùng
đất Ba Tư, sang đến phía đông bắc châu Âu, về sau quân Mông Cổ lấy lại
được Tây Hạ, phía tây bắc nước Tầu, dứt điểm được nước Kim, và tràn sang
Triều Tiên (Cao Ly) nuốt chửng Nam Tống (hết cả nước Tầu). Không một quốc
gia nào dám đương đầu. Vậy th́ nguyên chuyện dám đánh, dám quyết chiến
cũng đă là ngoại lệ rồi.
“Đầu tôi chưa rơi xuống đất xin bệ hạ cứ yên tâm.” Vào lúc nguy nan nhất
của cuộc kháng chiến, câu trả lời đanh thép ấy của ông đă giữ vững được
tinh thần dám đánh và quyết thắng của quân dân Đại Việt. Trần Thủ Độ xứng
đáng được xếp vào hàng những nhân vật kiệt xuất đứng đầu trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc.
Có những việc Thủ Độ làm, tất cả các nước, các vua chúa, tướng lănh, không
dám nghĩ, không dám làm đối với sứ thần nhà Nguyên. Đại Việt Sử Kư Toàn
Thư (ĐVSKTT) chép: “Quân Mông Cổ vào thành Thăng Long, thấy ba sứ giả của
họ c̣n bị trói, giam cầm trong ngục, đến khi cởi trói ra th́ một người đă
chết. Ngột Lương Hợp Thai thấy thế tức giận quá cho quân ra cướp phá giết
cả nam phụ lăo ấu ở trong thành.”
Người đời thường dồn công cả ba cuộc kháng chiến vệ quốc chống quân Mông
Nguyên cho Hưng Đạo Vương, kể cả một số người làm sử, viết văn. Điều này
sai lầm, và không công bằng, cần phải định vị lại trên cơ sở khách quan,
khoa học.
Sử sách chép Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là con An Sinh vương Trần Liễu,
sinh tại kinh thành Thăng Long. Quốc sử chép Vương khuất năm 1300, thọ 70
tuổi, tức sinh năm 1231, trong Việt Nam Sử Lược (VNSL) của Trần Trọng Kim
cũng chép Vương sinh 1231 khuất 1300. Sách Hưng Đạo Vương của Nam Sơn viết
Hưng Đạo sinh năm 1228, thọ 73 tuổi, Hoàng Thúc Trâm trong sách Trần Hưng
Đạo xuất bản 1950, cũng theo thuyết này. Trần triều thế phả hành trang
chép Vương sinh ngày mùng mười, tháng chạp năm Nhâm Tỵ,
niên hiệu Nguyên phong thứ 2 (1252), th́ năm sinh chắc đă lầm; Quốc sử
chép năm 1257, vua Trần Thái Tông cử Vương cùng tả hữu tướng quân đem quân
thủy bộ lên ngăn giữ biên giới tây bắc, trấn giữ quân Mông Cổ. Không thể
có việc lên sáu tuổi đă cầm quân đi dẹp giặc được. Có thể họ lầm với
chuyện dă sử Phù Đổng Thiên Vương chăng? Sử gia ngày nay cũng không ít
người lầm! Ngay trong sách Tiến Tŕnh Lịch Sử Việt Nam của nhóm giáo sư,
Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Minh Giang, Đỗ Quang Hung, Nguyễn Thừa Hỷ, Nguyễn
Đ́nh Lê, Trương Thị Tiến, Phạm Xanh do nhà xb Giáo Dục Hà Nội ấn hành 2004
nơi trang 90 cũng chép: “Vua Thái Tông đă cử Trần Quốc Tuấn kịp đưa quân
lên mạn biên giới án ngữ địch, mặt khác tổ chức pḥng tuyến pḥng ngự ở
B́nh Lệ, phía nam Phú Thọ.” Nhưng trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư (ĐVSKTT),
mô tả trận thư hùng lần đầu tiên giữa quân Đại Việt với quân Mông Cổ như
sau: “Tháng 12, ngày 12, tướng Nguyên Ngột Lương Hợp Đài xâm phạm B́nh Lệ
Nguyên.”
Nguyên (nay là huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phú) Vua thân hành ra đốc chiến,
xông pha tên đạn. Quan quân hơi núng thế, vua ngoảnh trông tả hữu, chỉ có
Lê Phụ Trần (tức Lê Tần) một ḿnh một ngựa, ra vào trận mạc, sắc mặt b́nh
thản như không.
Lúc ấy, có người khuyên vua dừng lại, để chỉ huy chiến đấu. Phụ Trần cố
sức khuyên vua:
“Nay bệ hạ chỉ đánh một ván dốc túi thôi; Hăy nên tạm lánh chúng, sao lại
có thể dễ dàng tin người ta thế;”
Bấy giờ vua mới lui quân về đóng ở sông Lô(2) Phụ Trần giữ phía sau. Quân
giặc bắn loạn xạ, Phụ Trần lấy ván che cho vua khỏi trúng tên giặc.
Thế giặc rất mạnh, vua lại phải lui về giữ sông Thiên Mạc(3). Phụ Trần
theo vua bàn những việc cơ mật, rất ít người biết được điều đó.
Vua ngự thuyền nhỏ đến thuyền Thái Úy Nhật Hiệu hỏi kế chống giặc. Nhật
Hiệu đương đưa mạn thuyền, cứ ngồi chứ không đứng dậy nổi, chỉ lấy ngón
tay chấm nước viết hai chữ “nhập Tống”(4) lên mạn thuyền. Vua hỏi quân
Tinh Cương đâu? (Tinh Cương là quân do Nhật Hiệu chỉ huy).
Nhật Hiệu trả lời: “Không gọi được chúng đến”.
Vua lập tức rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Thủ Độ trả lời: “Đầu
thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo ǵ khác.”
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhật Hiệu là đại thần cùng họ với vua. Giặc đến,
khiếp sợ, hèn nhát, không có kế sách chống giữ lại c̣n kiếm cách xui vua
ḿnh chạy đi nhờ nước khác, th́ c̣n dùng hắn làm tướng làm ǵ?”
Suy nghĩ về chuyện này, từ những dự kiện tương tác phản ảnh bối cảnh của
trận chiến, theo ĐVSKTT phác họa chúng ta thấy h́nh ảnh tướng Lê Phụ Trần
hiện ra thật sống động và quan yếu như thế nào? Quan trọng hơn nữa là Thái
Sư Trần Thủ Độ, người thực sự điều binh tướng trong trận giặc, không thấy
bóng dáng của Hưng Đạo. Vậy nếu là một người nghiên cứu lịch sử, anh sẽ
tiến hành xem xét những yếu tố nào để đánh giá các nhân vật?
Xác định thời gian, không gian nơi sự kiện xẩy ra trọng yếu, nói chung,
giới nghiên cứu đều cho rằng Trần Hưng Đạo sinh năm Mậu Tư (1228), tính ra
dương lịch là ngày 7-1-1229 . Vương tham chiến 1257, khi tuổi 30, năm 1284
Quốc Tuấn được cử làm Quốc công tiết chế thống lĩnh toàn quân, tổ chức
tổng duyệt quân thủy bộ ở bến Đông sông Hồng và thắng trận Bạch Đằng năm
1288 khi 61 tuổi.
Nhà sử học Trúc Thiên trong sách Trần Thủ Độ. Tân Văn xuất bản, có lời bạt
rất chí lư. Xin dẫn một đoạn sau đây:
“Thủ Độ tuân theo nghĩa vụ một cách vô điều kiện nếu cần phải tàn nhẫn,
nghiêm khắc cũng không từ: lợi ích chung, nghĩa vụ chung thắng t́nh cảm cá
nhân. Ông có ư chí sắt đá, sẵn sàng
bước qua xác người để đạt vinh quang của Tổ Quốc, ông cũng là một chính
trị gia vô tiền khoáng hậu, cổ kim, đông tây ông không giống ai cả. Con
người tự tin, ư chí sắt đá ấy cho nên
câu nói của Thủ Độ thật là một lời nói hưng bang, một lời nói chói rạng ở
trên lịch sử ngàn năm nước nhà”.
Quả thực có những việc Thủ Độ làm. Tất cả các nước, các vua chúa, tướng
lănh, không dám nghĩ, không dám làm đối với sứ thần nhà Nguyên. ĐVSKTT
chép: “Quân Mông Cổ vào thành Thăng Long, thấy ba người sứ của họ c̣n bị
trói, giam ở trong ngục, đến khi cởi trói ra th́ một người đă chết. Ngột
Lương Hợp Thai phải đương đầu với một tai nạn xâm lăng hung bạo nhất..
TRẦN THỦ ĐỘ VƯỢT HẲN MỌI NGƯỜI
Trần thủ Độ là một trong số nhân vật kiệt xuất nhất trong lịch sử Việt Nam
. Ông là người biểu hiệu tập trung nhiều sứ mệnh lịch sử nhấtthấy thế tức
giận quá cho quân ra cướp phá giết cả nam phụ lăo ấu ở trong thành.”
Hơn bao giờ hết, triều đ́nh nhà Trần
: Chính trị gia, chiến lược gia, kiến trúc sư guồng máy nhà nước, đạo diễn
chính trị xuất sắc… là một nhân vật cột trụ của triều đ́nh nhà Trần, đồng
thời là công thần sáng lập triều Trần. Và là người thực sự nắm quyền lănh
đạo đất nước suốt 40 năm 1226-1264. Dù là với danh nghĩa phụ tá thái úy
Trần Thừa, pḥ Ly Huệ Tông, Ly Chiêu Hoàng, Trần Thái Tông và cả Trần
Thánh Tông nữa. Làm tể tướng mà hết thẩy mọi công việc lớn nhỏ trong toàn
quốc, không việc ǵ là không để ư
đến. Suốt cả đời tận tụy chăm lo việc nước phục vụ đế nghiệp nhà Trần, Thủ
Độ mất tháng giêng âm lịch năm 1264, dưới triều vua Thánh Tông, niên hiệu
Thiệu Long thứ bẩy, thọ 71 tuổi, trước khi mất vài tháng c̣n đi tuần ở
biên giới Lạng Sơn. Thủ Độ được truy tặng là Thượng phụ thái sư trung vũ
đại vương. Lăng tẩm tại xă Tinh Cương xưa có tên là Quốc Hương, huyện Hưng
Nhân tỉnh Thái B́nh hiện nay.
Lê Quư Đôn chép trong Kiến Văn Lục: Phần mộ Thủ Độ ở xă Phù Ngự, huyện Ngự
Thiên (tên cũ). Nơi để mộ có hổ đá, chim đá, và b́nh phong bằng đá. Chỗ
đất này rộng đến hai mẫu, cây cối um tùm. Về tư điển trước vẫn liệt vào
hạng thượng đẳng thần; Các phủ, huyện, huấn, giáo đến kính tế.
Tại xă Thành Thị, huyện B́nh Lục, Hà Nam cũng có miếu thờ.
Thủ Độ đă thay đổi guồng máy chính trị tại trung ương và b́nh định các nơi
ngoài cơi, đưa nhà Trần lên thay nhà Lư một
cách êm đẹp, lại có những ư tưởng mới lạ, táo bạo, đă nghĩ ra những điều
chưa ai nghĩ tới, làm những sự chưa ai làm, có quan niệm về luân thường
khác hẳn thế tục…
Nhiều người, tuy vẫn ca tụng Thủ Độ về các công nghiệp tế thế an bang, dẹp
nội loạn, chống ngoại xâm, mở mang kinh tế trong nước, nhưng lại thường
chê Thủ Độ làm loạn luân thường đạo lư. Đối với Nho Giáo và Khổng giáo là
phạm tội, họ không ư thức được rằng
quan niệm mỗi thời, mỗi nơi, mỗi người một khác. Người phi thường, hành
động phi thường, không uốn ḿnh theo khuôn khổ đă rập sẵn của thế tục.”
ooOoo
CHỌN NGƯỜI KẾ NHIỆM
Chọn người kế nhiệm, Thủ Độ thấy khó ở, gọi vua Thánh Tông đến căn dặn
rằng:
“Người thay thế ta, tuy phải dùng Nhật Kiểu là có địa vị cao trong hoàng
tộc, nhưng chỉ nên cho giữ hư vị. Chức vụ thực sự nắm binh quyền trong
nước phải giao phó cho Quốc Tuấn (Hưng Đạo) là người có đủ tài năng gánh
vác công việc nặng nề sau này và có thể chống chọi lại được với quân Mông
Cổ trước sau ǵ th́ chúng cũng sẽ sang xâm lăng nước ta.
Con cháu ruột ta tài đức tầm thường, không kham nổi việc lớn. Ta đă để lại
cho chúng điền trang có thể thu hoạch lợi để sống sung túc. Nếu có làm
quan th́ chỉ được cho giữ chức vụ thấp mà thôi, phải nặng về quyền lợi của
dân nước, mà nhẹ về t́nh cảm riêng tư.”
Thủ độ trước quyền hành trong tay đă không tự lập ḿnh làm vua, sau lại
không muốn cho con cháu ruột ḿnh giữ chức vụ quan trọng trong nước. Thật
là quá vĩ đại. Thủ Độ vượt hơn hẳn mọi người, sáng suốt, nh́n xa, thấy
rộng, bất kể công việc ǵ cũng đặt quyền lợi tổ quốc lên trên hết.
Thủ Độ xưa với An Sinh Vương vốn có thù riêng, theo (ĐVSKTT), Trần Liễu
sinh năm 1213, lấy Thuận Thiên công chúa, con gái lớn của Lư Huệ Tông, khi
mới độ 10 tuổi.
Làm pḥ mă, được Huệ Tông phong làm phụng kiều vương, chỉ hư vị, do tuổi
c̣n nhỏ, chưa làm được ǵ.
Đến khi Thái Tông lên ngôi, cũng vẫn c̣n ít tuổi, không tham chính. Năm
1234, được sung chức thái úy phụ chính, sau khi thượng hoàng khuất, lại
được phong là Hiển hoàng. Thái Tông phong cho anh như thế có ư
muốn cho được hơn hẳn mọi người. Sử gia Ngô Sĩ Liên cho là danh không được
chính đáng. Sử không chép, Trần Liễu khi lớn lên, tham dự chính quyền, đă
làm được những công việc ǵ. Năm nước to, Liễu đi thuyền vào chầu, qua
cung Lệ Thiên, thấy cung phi triều Lư trước, ghé thuyền vào hăm hiếp.
Triều thần tâu, bị giáng làm Hoài Vương và phải đưa An Sinh về quê cũ nhà
Trần qua năm sau, mới được trở về kinh đô. Sự kiện này chép lại rơ ràng
pháp luật nhà Trần rất nghiêm, không phải đă là anh vua th́ muốn làm ǵ
cũng được.
Năm 1237, Chiêu Hoàng hậu lấy vua Thái Tông đă 12 năm mà vẫn chưa có con.
Thủ Độ chê là mặt mỏng dính, không có tướng sinh qúy tử, buộc Thái Tông
bỏ, giáng Chiêu Hoàng xuống làm công chúa, rồi đem gả cho tướng Lê Trần
tức Lê Phụ Trần.
Bấy giờ, người chị là Lư Thuận Thiên
công chúa, vợ Hoài Vương Trần Liễu, đă có mang được ba tháng. Thủ Độ cùng
phu nhân Thiên Cực công chúa bày mưu riêng với Thái Tông nên lấy để có lợi
về sau. V́ thế đem vợ Hoài Vương vào cung làm hoàng hậu.
Thuận Thiên công chúa, trong buổi đầu, v́ nặng t́nh cảm chồng vợ không
chịu. Thủ Độ và quốc mẫu Trần Thị, mẹ đẻ, phải ngày đêm hết lời khuyên dỗ,
cần lấy quyền lợi và ngai vàng của ḍng họ Trần lên trên hết mà phải bỏ
hết t́nh cảm riêng tư, công chúa mới chịu thuận theo.
Đến đây, th́ hành động của Thủ Độ, gây phản ứng rất bất lợi và nguy hiểm
từ hai phía. Trần Liễu, mất vợ, tức giận, tụ tập nhiều người ở sông Cái,
nổi loạn… c̣n Thái Tông th́ đang đêm bỏ Kinh Đô trốn vào núi Yên Tử, thuộc
huyện Yên Hưng, Quảng Yên ngày nay, đến chùa Phù Vân. Thủ Độ biết tin ấy,
đem quân thần đến đón xa giá về kinh, lúc đầu Thái Tông không chịu về, nói
là c̣n ít tuổi, không kham nổi việc trị nước, việc trọng đại nên chọn
người khác làm vua, để khỏi nhục xă tắc.
Lập một người khác làm vua, đâu phải là chuyện dễ dàng. Làm sao tránh khỏi
gây xáo trộn trong nước, nguy hại đến nhà Trần, không thế th́ từ lâu Thủ
Độ đă lập rồi. Trần Liễu th́ tài đức đều kém, không có tư cách của một bậc
quân vương. V́ thế Thủ Độ phải hết sức khôn khéo, khuyên dỗ, nài ép Thái
Tông trở về bằng được. Khi thấy Thái Tông khăng khăng một mực không chịu,
bèn ra lệnh cho các quan rằng: “Hoàng Đế ở đâu triều đ́nh ở đó” lập tức
cho cắm mốc, chăng dây, chia hàng ngũ trong khu vực núi Yên Tử, phỏng theo
kích thước cung điện ở kinh thành, bắt thợ dựng ngay nhà ở Phù Vân. Ḥa
Thượng trong chùa thấy vậy, kêu nài với Thái Tông về triều Thái Tông không
sao được nữa, đành phải về.(…) Trong Bài Tựa Sách Thiền Tông Chỉ Nam vua
Trần Thái Tông có thuật lại sự kiện này:
"Trẫm nghe dạy rằng đạo Phật không phân ra phương nam, phương bắc, ở đâu
cũng lấy sự tu hành mà tin, tính người tuy có người khôn, người ngu, ai
cũng đều có sự giác ngộ cả. Thế nên, để dẫn dạy quần chúng u mê làm phương
tiện chỉ bảo đường tắt để sáng tỏ sự sống chết, đây là giáo lư chính
của Đức Phật ta, đến việc đặt mưu chước cầm cân cho đời sau, làm khuôn mẫu
cho tương lai là trọng trách của tiên thánh, của Nho học với đại sự của
Phật không khác ǵ cho hay giáo lư của Phật lại mượn tiên thánh để truyền
bá vào đời vậy. Như vậy, trẫm nay sao lại có thể không lấy trách nhiệm của
tiên thánh làm trách nhiệm của ḿnh, giáo lư của Đức Phật ta làm bài học
cho ḿnh? Vả chăng, trẫm từ thuở thơ ấu mới bắt đầu hiểu biết mỗi khi nghe
lời dạy của các thiền sư tức th́ dập tắt mọi nghĩ ngợi, trong ḷng thanh
tịnh. Từ đấy, trẫm đă có ư ham giáo lư nội tâm, tức Phật giáo, xem xét
thiền học, dốc chí t́m thầy, thành tâm mộ đạo. Song le, cái ư hướng nội
quan đă nẩy mầm mà động cơ cảm xúc chưa đạt tới. Năm 16 tuổi, thái hậu
chán cơi đời, trẫm những năm nằm chiếu cỏ gối cục đất khóc ra máu mắt, đau
như ruột cắt, trong khi lo phiền, khổ năo, không c̣n để ư đến nhiệm vụ;
chưa được vài năm, Thái Tổ hoàng đế lại cũng chầu trời. Thương mẹ chưa
khuây, xót cha càng thấm thía, bồi hồi ngao ngán, khó nguôi nỗi ḷng. Trẫm
nghĩ t́nh cha mẹ đối với con cái, vỗ về nuôi nấng không có bờ bến, đời con
dù có tan xương nát thịt chưa báo đáp được một phần, huống chi trẫm xem
Thái Tổ hoàng đế mở cơ dựng nghiệp đă rất khó khăn, sửa nước giúp đời lại
càng trọng đại. Đem ngôi báu trao lại cho trẫm c̣n đang tuổi trẻ, sớm
khuya lo sợ không lúc nào nguôi. Bụng tự bảo thầm: "Ở trên đă không c̣n có
cha mẹ để nương tựa, ở dưới sợ không đủ cho dân đen thực mong đợi, làm sao
đây? Nghĩ đi, nghĩ lại, chi bằng t́m về núi rừng, rộng t́m về đàng Phật
học để sáng tỏ về sự lớn sống chết để báo đáp công đức cù lao, như thế
chẳng đẹp sao?" Vào đêm mồng 3 tháng tư (1236), trẫm ăn mặc đồ thường ra
cửa cung và bảo tả hữu: "Ta muốn đi chơi, nhằm nghe dư luận dân gian để
xem chí nguyện của dân mà biết được sự khó nhọc của chúng". Lúc đó, đi
theo bên ta chẳng quá bẩy tám người. Đêm ấy, vào khoảng giờ Mùi, trẫm tự
lấy con ngựa cất lẻn ra đi. Khi đă sang sông hướng về phía đông, trẫm mới
bảo thật cho bọn tả hữu đi theo. Bọn họ ngơ ngác đều chảy nước mắt, khóc
lóc. Giờ Măo hôm sau, đến một bến đ̣ dưới núi Phả lại thuộc làng Đại Than,
trẫm sợ có kẻ biết mặt mới phải lấy áo che mà qua sông, rồi theo đường tắt
lên núi. Đêm tối, trẫm vào nghỉ trong chùa Giác hạnh, đợi sáng lại đi.
Chật vật trèo núi hiểm suối sâu, con ngựa đă mệt không thể lên núi được
nữa. Trẫm bèn bỏ ngựa, vịn vào tảng đá mà leo, giờ Mùi mới đến chân núi
Yên tử. Sáng mai lên thẳng đỉnh núi vào ra mắt quốc sư Trúc lâm là vị đại
sa môn chùa ấy.
Thấy trẫm, quốc sư mừng rỡ, rồi người ung dung bảo với trẫm: "Lăo tăng ở
lâu trong rừng núi, xương rắn, mặt gầy, ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước
suối, chơi cảnh rừng đă quen tấm ḷng, đă giống như đám mây nổi nên theo
gió đến đây. Nay nhà vua bỏ uy thế của bậc chủ nhân, nghĩ đến cảnh quê hèn
của đồng rừng, quả thật có ư định cầu điều ǵ mà đến đây chăng?" Trẫm nghe
lời đó, tự nhiên hai hàng nước mắt ứa ra, mới bạch quốc sư: "Trẫm c̣n thơ
ấu, sớm mất cha mẹ, chơ vơ đứng trên sĩ dân, không biết nương tựa vào đâu.
Trẫm nghĩ lại, sự nghiệp của đế vương đời trước lên xuống, thịnh suy rất
là bất thường; vậy, trẫm muốn vào núi này chỉ cầu thành Phật, không cầu
cái chi khác." Quốc sư đáp: "Trong núi không có Phật, Phật chỉ ở tại ḷng
người. Hễ ḷng ḿnh yên lặng mà hiểu biết thế gọi là Phật thật. Nay nếu
nhà vua giác ngộ tâm ấy tức th́ thành Phật, không phải cầu t́m bên ngoài
cho khốn khổ."
Bấy giờ chú Trần (Trần Thủ Độ) là em họ Đức tiên quân đă được tiên quân
gửi gấm con côi sau khi tiên quân bỏ thế gian và quần thần. Trẫm phong lên
thái sư. Khi thái sư nghe tin trẫm bỏ đi, mới chia các ngả, sai tả hữu đi
khắp nơi ḍ t́m dấu vết đường đi của trẫm, và rồi cùng bọn người trong
nước lên đây gặp trẫm. Thái sư thống thiết nói: "Tôi chịu lời ủy thác của
đức tiên quân vâng nhà vua làm chủ nhân dân và quỷ thần, dân mong ngóng
nhà vua khác nào lũ con nhỏ trông mong cha mẹ. Huống chi hiện nay những cố
lăo trong triều đều là họ hàng thân thích, những sĩ thứ trong nước ai nấy
vui vẻ phục tùng, cho đến đứa trẻ lên bẩy cũng biết nhà vua là cha mẹ dân.
Vả lại Thái Tổ vừa mới bỏ tôi mà đi, ḥn đất trên mồ chưa khô, lời dặn bên
tai c̣n văng vẳng, thế mà nhà vua t́m cách vào núi rừng để cầu thoả chí.
Như tôi xét nghĩ, nhà vua v́ sự tu sửa lấy ḿnh mà làm thế th́ có thể
được, nhưng c̣n quốc gia, xă tắc th́ sao? Sao bằng lấy ngay thân ḿnh làm
nơi dẫn đạo cho thiên hạ? Nhà vua nếu không nghĩ lại, bọn tôi xin cùng
người thiên hạ chết ngay bữa nay quyết không trở về nữa." Trẫm thấy thái
sư với các bậc cố lăo đều không có ư bỏ trẫm, bèn đem lời của thái sư thưa
với quốc sư. Quốc sư cầm lấy tay trẫm mà rằng: "Hễ làm đấng vua người, th́
phải lấy ư muốn của thiên hạ làm ư muốn của ḿnh, lấy bụng thiên hạ làm
bụng của ḿnh. Nay thiên hạ muốn đón vua về, nhà vua không về sao được?
Nhưng về việc cứu xét giáo lư nội tâm dám xin nhà vua đừng phút nào
quên." Bởi vậy, trẫm và mọi người trong nước lại cùng về kinh, gượng lên
ngôi vua. Mười mấy năm ṛng ră, mỗi khi được thư nhàn việc nước, trẫm lại
hội họp các vị kỳ đức để hỏi đạo thiền và các kinh sách nhà Phật, không
cuốn nào không xem đến. Có một lần đọc kinh Kim cương đến câu "Không nên
sinh cái tâm chấp vào đâu cả." trẫm bỏ sách xuống thở dài, chợt bừng thấy
giác ngộ, bèn đem sự giác ngộ ấy làm ra bài ca này, đặt tên là Thiền tông
chỉ nam." (Trích trong bộ Tinh Thần Phật Giáo Nhập Thế của tác giả.)
Sóng gió trong triều vẫn chưa hết.
Về phía An Sinh Vương Trần Liễu triệu tập được một số quân sĩ ở ngoài sông
Nhị, tự biết ḿnh không thể đương đầu, nhân khi Thái Tông ra chơi thuyền ở
ngoài sông, giả dạng làm người đánh cá, lẻn đi thuyền độc mộc, đến thuyền
vua xin hàng. Quá xúc động hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ biết, đến
tuốt gươm toan giết Liễu. Thái Tông vội đẩy Liễu vào trong thuyền tự đưa
thân ra đỡ cho anh, bảo Thủ Độ: “Phụng Càn Vương (tên hiệu cũ của Liễu)
đến hàng đây;” Thủ Độ giận dữ, bẻ gươm vất xuống sông, mắt vẫn dọi vào
trong thuyền nói: “Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các
ngươi thuận nghịch thế nào?” Thái Tông van nài măi mới chịu thôi.
An Sinh Vương, tuy được khỏi chết, lại được ban cấp điền trang, trong ḷng
vẫn mang thù hận. Đến khi gần khuất, dặn lại cho Hưng Đạo Vương sau này
phải cướp lấy ngôi vua th́ hồn cha mới được yên. Điều này Hưng Đạo Vương
không tuân theo lời cha nhưng người đời ai cũng cho là đúng, và chính ở
điểm nầy Ngài trở thành bậc thánh. Có một điều cần nhắc lại rằng: Trước
kia Thủ Độ quyền bính trong tay không tự lập ḿnh làm vua, lúc sắp lâm
chung, gọi Thánh Tông vào căn dặn, sau nầy phải giao binh quyền cho Hưng
Đạo con của một độc thủ.. Đến khi Hưng Đạo cầm quyền làm tổng chỉ huy quân
đội lại cũng không mảy may nghĩ đến việc đoạt ngôi vua. Cái vĩ đại của các
ngài là cả hai đều đặt quyền lợi của tổ quốc lên trên hết.
Hưng Đạo Vương lại là con An Sinh Vương. Thế nhưng Thủ Độ lại căn dặn
Thánh Tông phải dùng Hưng Đạo Vương, không cho con cháu ḿnh làm lớn. Biết
rơ người ấy sau này mới cáng đáng nổi việc chống quân xâm lược Nguyên
Mông.
Khi Thái sư đă già, thường mời các tướng, các vương sang phủ đệ, bàn về
binh pháp. Ông đặc biệt chú ư đến Hưng Đạo. Bấy giờ, Hốt Tất Liệt đă xưng
vương ở Khai B́nh, Vân Nam . Nghe lời Vương tŕnh bày, nhất là về phương
pháp của kẻ yếu chống giặc mạnh, thái sư ưng ư,
khen ngợi: “Tài dùng binh của người hơn ta nhiều. Sau này, người sẽ làm
nên công nghiệp hiển hách. Người nên coi trọng quyền lợi của nước, mà cũng
là của ḍng họ, bỏ qua hiềm cũ của người nữa. Quân Mông Cổ hùng cường, đă
từng đi đánh các nước phương xa xôi hàng vạn dặm. Nay Hốt Tất Liệt anh
hùng không kém ông nội xưa, sẽ chiếm cả nước Tầu, rồi c̣n mở mang rộng
thêm rộng lớn hơn nhiều nữa. Nước ta trên đường quân Mông Cổ nam tiến,
trước sau ǵ cũng bị chúng xâm lăng. Chiến tranh chỉ có thể tŕ hoăn, chứ
không thể nào tránh khỏi được. Công việc khó khăn, nặng nhọc đó, ngươi sẽ
phải gánh vác. Ta suốt đời cúc cung tận tụy lo toan cho đất nước, cho đế
nghiệp họ Trần, đă thống nhất và giữ ǵn được đất nước. Kế nghiệp ta sau
này là ngươi đó. Ta trông cậy ở ngươi mong ngươi sẽ làm trọn được sứ mệnh
đó.”
Vương thưa: “Quan gia (1) đă tin dùng Quang Khải rồi;” thái sư nói: “Ta sẽ
dặn bảo lại quan gia, Quang Khải tuy cũng có tài nghệ, dụng binh, nhưng
chưa chắc chắn bằng ngươi, ít biết quyền biến khi gặp khó khăn. Các người
khác trong tôn thất đều là lũ văn nhược, chỉ biết về thơ, phú, chứ về vơ
ít tài năng, kém thông thạo việc dùng binh (bấy giờ Nhật Duật c̣n ít
tuổi). Dù sao, th́ khi lâm sự, quan gia sẽ gọi đến ngươi;”
Khi gần khuất, thái sư trao lại cho Vương một tráp đựng những bản đồ các
nơi hiểm yếu trong nước mà thái sư đă dày công xem xét vẽ lên từ trước.
(1) Dưới triều Trần, thường gọi vua là quan gia.
Sách Thần tích đức Thánh Trần của Hội Bắc Việt tương tế, đă viết như sau:
“Người anh hùng không v́ hai chữ trung hẹp ḥi mà bỏ đại nghĩa quốc gia.
Không v́ ḍng họ, mà hy sinh trăm họ. Làm chính trị, làm tướng, phải quyền
biến, có cơ mưu để tính cuộc sinh tồn cho giang sơn, chủng tộc.
Thủ Độ không những dẹp yên nội loạn thống nhất quốc gia, lại đánh đuổi
ngoại xâm, mà c̣n gây dựng nên cơ sở vững chắc cho người sau giữ nước.
Không có Thái sư Thủ Độ, chắc đâu có vị anh hùng thần thánh Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn.
Công của thái sư Thủ Độ trùm đất nước, công của người đă đưa dân tộc lên
đài vinh quang, có lịch sử oai hùng, khiến người các nước, các thời phải
khâm phục”
Nên ngay sau khi lên ngôi vua, Trần thái Tông đă phong Thủ Độ làm quốc
thượng phụ, nắm giữ việc cai trị đất nước.
ooOoo
CÁC BIẾN CỐ LỊCH SỬ TRONG TRIỀU TRẦN
Việc thay triều đổi ngôi. Vụ bức tử thượng Lư Huệ Tông. Sự thật vụ chôn
sống tôn thất nhà Lư.
THAY TRIỀU ĐỔI NGÔI
Nhân duyên dẫn khởi, họ Trần thay họ Lư.
Năm 1209, vua Lư bấy giờ là Lư Cao Tông, nghe lời kẻ gian giết hại trung
thần là Thượng phẩm Phụng sư Phạm Bỉnh Di. Quách Bốc, bộ tướng của Bỉnh Di
nổi loạn. Nhà vua phải lánh đến miền Quy Hóa (khu vực miền núi Phú Thọ,
Yên Bái hiện nay). Thăng Long một lần nữa lại phải chứng kiến những biến
cố cung đ́nh. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử triều Lư, nhà vua
phải chạy khỏi kinh thành đi lánh nạn.
Sau khi chạy loạn Quách Bốc, Thái tử Sảm lưu lạc đến vùng Hải Ấp (nay là
thôn Lưu Xá, huyện Hưng Hà, Thái B́nh) được sự cưu mang giúp đỡ của Trần
Lư, một gia đ́nh giàu có, thế lực ở địa phương và được Trần Lư gả con gái
cho. Thái tử lấy con gái nhà Trần Lư, trao cho Lư tước Minh tự, phong cho
cậu người con gái ấy là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Anh em họ
Trần tập hợp lực lượng giúp Lư Cao Tông dẹp loạn, trừng trị bọn Quách Bốc,
tháng 3 năm Canh Ngọ (1240) và đưa vua về kinh thành, khôi phục chính
thống.
Mùa Xuân, tháng 3 (1210), vua sai Thượng phẩm Phụng sự là Đỗ Quảng đem
quân đến nhà Tô Trung Từ đón Hoàng thái tử về kinh sư. Con thứ của họ Trần
là Trần Tự Khánh đem quân về kinh được phong làm Thuận Lưu bá. Theo sử
sách, Trần Tự Khánh là con Trần Lư, em ruột Trần Thừa, người hương Tức
Mạc, phủ Thiên Trường. Năm 1209 xảy ra biến loạn, gia đ́nh ông có công
khuôn phù thái tử Lư Hạo Sảm, nên khi thái tử lên ngôi vua, thân phụ ông
và thân tộc được thưởng trọng hậu.
Trong thời gian từ 1207-1220, đất nước bị chia sẻ bởi các thế lực hào
trưởng, chính quyền nhà Lư càng suy yếu, nay được thống nhất lại. Quyền
lực chính quyền triều chính dần tập trung, củng cố dưới sự lănh đạo của họ
Trần. Từ đây Trần Tự Khánh mở dần thế lực họ Trần, áp đảo triều đ́nh nhà
Lư. Tài trí của ông phối hợp với những thủ đoạn chính trị của Trần Thủ Độ
đă mở đường cho sự h́nh thành một vương triều mới thay thế nhà Lư – vương
triều Trần. Cuối năm 1223, Trần Tự Khánh mất tại Phù Liệt (được truy phong
là Kiến Quốc Đại vương).
Sự kiện Trần Tự Khánh đem quân theo Thái tử Sảm về Thăng Long mở đầu cho
sự nghiệp chính trị của họ Trần, tạo điều kiện đưa họ Trần trở thành lực
lượng quân sự - chính trị có vị thế lớn nhất trong những năm cuối của
triều đại nhà Lư.
Sự kiện này báo hiệu nhà Lư sắp đến ngày diệt vong, lịch sử đất nước, lịch
sử Thăng Long sắp bước sang một trang mới.
ooOoo
THAY TRIỀU ĐỔI NGÔI
Nhân vật chính trong biến cố này là Trần Thủ Độ.
Theo gia phả họ Trần, thủy tổ Trần Quốc Kinh dời đến ở hương Tức Mạc (Nam
Định- Thái B́nh), lấy vợ sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lư
và Trần Hoàng Nghi, Trần Lư sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh. Trần Hoàng
Nghi sinh ra được ba người con trai là: Trần An Quốc, Trần An Bang và Trần
Thủ Độ. Thủ Độ sinh năm (Canh Dần) 1194.
Tại làng Lưu Xá, huyện Ngư Thiên, lộ Hưng Long, nay thuộc huyện Hưng Nhân
(Thái B́nh). Thuở nhỏ ông mồ côi cha được Trần Lư nuôi nấng, trông nom,
săn sóc, coi như con đẻ. Thời niên thiếu đă từng theo Trần Lư đi dẹp giặc,
thông hiểu binh pháp. Dù vậy sách sử vẫn ghi Thủ Độ ít học, cũng như
Nguyễn Huệ, có thể các ngài ít hiện hữu tại trường mà thôi.
Thủ Độ trí huệ thông sáng, khôn ngoan, nhiều mưu lược, lại có quan niệm về
luân thường đạo lư hơn hẳn mọi người. Cổ kim, đông tây không mấy ai sánh
kịp.
Việc họ Trần thay họ Lư trị v́ thiên hạ hoàn toàn do ông toan tính sắp đặt
cả.
Trần Thừa lĩnh chức phó quốc Thái Úy, tương đương với chức thủ tướng, kiêm
tổng tư lệnh tối cao thời nay; Gọi Thủ Độ giúp việc ấy do Trần Thừa tiến
cử. Thủ Độ được Lư Huệ Tông phong ngay cho làm điện tiền chỉ huy sứ. Từ
đấy mọi công việc triều đ́nh đều do Thủ Độ hết thảy cáng đáng, định đoạt,
dầu vậy tiếng là theo lệnh vua và quan Thái úy.
Huệ Tông bệnh măi, mặc dù đă cho người đi t́m khắp nước các thầy thuốc
giỏi tới chữa vẫn không thấy thuyên giảm, ngược lại bệnh ngày càng thêm
nặng. Quyền trị nước nằm trọn trong tay họ Trần, Trần Thừa có chức nhưng
vô thực quyền. Thủ Độ mới thực sự là người nắm giữ mọi việc trong triều.
Ông lên cầm quyền, trước hết củng cố địa vị một số người trong họ Trần cho
vững mạnh. Thủ Độ nhận thấy Tự Khánh trước đây tuy hết ḷng trung thành
với nhà Lư mà vẫn c̣n bị tôn thất nhà Lư ghen ghét, chỉ định mưu hại. Nay
họ Trần cầm quyền, ân oán với mọi người nhiều. Thường t́nh con người ta ở
đời, ân th́ chóng quên, mà oán th́ nhớ kỹ. Chỉ đợi có dịp báo thù, ở thế
cỡi trên ḿnh cọp, nếu không giữ vững chức vị th́ tất ươm tai vạ, không
những cho bản thân mà c̣n liên lụy đến cả anh em họ hàng.
Thủ Độ tự nắm giữ binh quyền, quản lư
điện tiền, chú quân hộ vệ cấm đ́nh, lại cho người trong họ và chân tay nắm
giữ hết then chốt bộ máy chính trị, quân sự, mua chuộc quan lại trong
triều vào một mối của ḿnh. Quan chức lớn như Thái phó Phùng Tá Chu và
quan Nội hầu Phạm Kinh Ân đều theo Thủ Độ, c̣n những ai có thể chống đối
(nghi), hoặc không mua chuộc được th́ cử đi xa khỏi kinh thành. Không có
sách nào chép Thủ Độ đă giết hay sai khiến Huệ Tông giết các phần tử không
thuộc phe cánh. Thủ Độ đă cao kiến không thèm dùng cách giết hại chuốc lấy
oan thù, chỉ đưa đi xa mà thôi. Vả lại bấy giờ cũng chẳng có ai là anh tài
lỗi lạc đủ sức chống đối.
Thủ Độ thấy thế nhà Lư từ lâu đă suy
là v́ Vua hèn yếu, người trong hoàng tộc đều vô tài, lại kiêu ngạo. Năm
xưa, loạn Quách Bốc, lực lượng không mạnh mẽ ǵ mấy mà vào kinh thành như
đi vào chỗ không người. Nếu Quốc trượng Trần Lư không ra tay vào pḥ tá
th́ giang sơn này không tránh khỏi đổi chủ. Thế mà sau khi trở về được,
cũng không sao hưng khởi lên, ngược lại sa sút thêm, thế tất không thể lâu
dài được nữa. Nay nếu họ Trần có hết ḷng trung thành, chống đỡ, dẫu có là
một Tô Hiến Thành thứ hai th́ khéo lắm triều đại này cũng chỉ kéo dài thêm
được vài chục năm nữa là cùng. Triều đại đă quá mục nát th́ hiển nhiên là
phải sụp đổ, vô phương cứu chữa.
Thấy sự thể đă rơ ràng như vậy. Thủ Độ nảy ư muốn
đưa họ Trần lên thay họ Lư trị v́ thiên hạ. Nếu người họ Trần không thay
th́ họ khác cũng có thể thay mà thôi. Lúc này, gặp thời cơ thuận lợi,
phương Bắc, nhà Tống suy nhược, phía bắc, phía tây, phía tây bắc đều bị
các nước Kim, Liêu chiếm đoạt tự giữ một vùng lănh thổ phía nam, để có chỗ
dung thân c̣n khó, th́ sức lực c̣n đâu mà sang can thiệp vào nước ta.
Trong triều lúc này quan lớn, quan nhỏ phần lớn là họ Trần, c̣n các người
trong Tôn thất nhà Lư chẳng có một đối thủ nào có thể cản trở. Ngoài Thăng
Long cũng chẳng có ai hùng kiệt đủ sức chống lại. Vậy là cơ hội ngàn năm
một thuở đă đến.
Huệ Tông đau yếu triền miên không khỏi. Khó có thể tồn thọ được lâu, lại
không có con trai, một mai lấy một người trong Tôn thất làm con nuôi lập
làm thái tử. Người này sau lên ngôi th́ họ Trần sẽ lâm nguy. Tôn thất nhà
Lư từ lâu thù ghét, không ưa ǵ họ Trần. Đôi bên không thể cùng nhau tồn
tại, âu tất yếu chỉ một mất một c̣n. Bị dồn vào thế cùng, muốn khỏi bị
tiêu vong, người họ Trần phải nắm giữ binh quyền. Việc phải làm th́ nên
làm càng sớm, càng hay.
Một lẽ nữa khiến Thủ Độ phải hành động, mà cần hành động trước v́ thế sự ở
ngoài cát lộ. Bởi các lực lượng cát cứ đều muốn tranh bá đồ vương, kể cả
đốc quân, nhất là mấy tù trưởng, họ Định ở Lương Sơn, họ Ḥa ở Quy Hóa, họ
Nông ở Cao Bằng, cũng đều nhăm nhe nḥm ngó ngai vàng. Hiện các họ này
đang chiêu binh tuyển mă, khuếch trương thế lực. Nếu họ Trần để lâu ngày,
các họ khác sẽ đủ binh lực, sau này sẽ khó thống trị. Có thể một anh tài
hay một tay Thảo Khấu nào đó động binh, ra mặt tranh ngôi Hoàng Đế. Họ
Trần không tiêu diệt được th́ tất yếu sẽ bị diệt vong, nếu không muốn làm
thần tử cho họ khác. Đi bước trước sẽ làm chúa tể thiên hạ. Đi bước sau
chỉ làm đầy tớ cho người khác.
Giành thiên hạ, dựng nghiệp lâu dài cho con cháu, hay giữ lấy tiếng trung
thần để bị tiêu diệt, trong hai đường phải theo đường nào? Vua Thái Tổ nhà
Lư cũng từng nhân cơ hội mà dựng
nghiệp, đâu có bao giờ giữ tiết làm trung thần. Lư Thái Tổ c̣n trong
trường hợp không thoái vị cũng không nguy hiểm như trường hợp họ Trần.
Đành rằng làm việc lớn th́ tai họa cũng không nhỏ. Việc không thành tất bị
tiêu diệt. Thủ Độ đă cân nhắc kỹ, thấy rơ lợi thế nghiêng về bên nào nên
quyết định hành động sớm.
Có sẵn những con cờ trong tay. Thủ Độ vạch ra một chương tŕnh, và sắp đặt
mọi kế hoạch để tranh lấy giang sơn một cách êm đẹp mà không tai tiếng.
Huệ Tông chỉ có hai người con gái, đều do Trần Thị sinh người con gái lớn
Thuận Thiên gả cho Trần Liễu, (bố Trần Hưng Đạo) con cả Trần Thừa. Đây là
hai anh em con cô cậu ruột, bấy giờ c̣n quá ít tuổi (trên dưới 10 tuổi),
không rơ công chúa đă cử hành lễ cưới trước hay sau khi Trần Thủ Độ ra làm
quan? Người ta vẫn cho rằng, việc này do Thủ Độ chủ mưu. Theo luật Hồng
Đức th́ cấm, c̣n về trước không rơ. Khi Trần Thủ Độ vừa làm quan th́ họ
Trần đang có tang Tự Khánh. Như vậy hôn lễ này được cử hành trái với phong
tục và luật lệ.
Nhưng đối với Thủ Độ việc ǵ có lợi cho họ Trần th́ làm, bất chấp mọi cấm
kỵ.
Họ Trần bắt đầu tham gia chính sự từ sau loạn Quách Bốc (1209-1210), thời
Lư Cao Tông v́ có công dẹp loạn và tôn thờ thái tử Lư Sảm, Lư Sảm lên ngôi
tức là Lư Huệ Tông. Quyền hành họ Trần ban đầu trong tay Trần Tự Khánh. Là
em Trần Thừa và Trần Tự Khánh, Trần Thủ Độ đồng thời là vơ tướng dưới
quyền Trần Tự Khánh đánh dẹp các thế lực cát cứ ở vùng Hồng Châu là Đoàn
Thượng và Đoàn Văn Lôi trong lúc trên đường đi trấn nhậm Lạng Ải. Thủ Độ
đă tỏ ra là một tướng tài có nhiều mưu lược.
Sau khi Trần Tự Khánh chết 1223, Thủ Độ thực sự là người thay thế, nắm
quyền trong triều, năm 1224 ông được phong làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Vua Huệ Tông và vợ, tức chị họ Trần Thủ Độ, là Trần thị Dung có hai con
gái, người em là Phật Kim, được phong là công chúa Chiêu Thành. Ông ép Huệ
Tông bỏ ngôi vương lên làm thượng hoàng để nhường ngôi cho Phật Kim, tức
là Lư Chiêu Hoàng khi đó mới lên bẩy tuổi.
Sau đó, ông đưa con Trần Thừa là Trần Cảnh, tức (Trần Thái Tông) người
khôi ngô tuấn tú mới tám tuổi, vào hầu Lư Chiêu Hoàng, rồi dàn xếp để Trần
Cảnh lấy Chiêu Hoàng và nhượng ngôi chuyển ngai vàng sang họ Trần cuối năm
1225. Sắp đặt như thế, tôn thất nhà Lư không có lư do làm trái được nữa.
Ngôi vua do chính Huệ Tông truyền. Chiêu Hoàng lên ngôi, tháng mười âm
lịch năm 1223. Triều thần dâng tôn hiệu là Chiêu Hoàng.
Mọi quyền hành đều nằm trọn trong tay Thủ Độ. Thủ Độ tư thông với thái hậu
Trần Thị, đêm ngày bàn bạc, mưu tính chuyển cơ nghiệp nhà Lư sang nhà Trần
một cách êm đẹp. Thủ Độ chọn con em quan viên trong ngoài sung các công
việc trong nội cung, như sáu hỏa thị cung (nhà bếp) hầu trong cung, ngoại
chi hậu (giữ việc truyền lệnh và dẫn người ra vào) nội nhân (hầu sai trong
cung) ngày đêm cắt lượt nhau hầu. Thủ Độ làm tri hành thị nội.
Về quân sự nắm hết cả quân đội trong triều, ngoài lộ. Trần Bất Cập làm Cận
thị Thư lục Chi Hậu cục (hầu bên vua), Trần Thiêm làm Chi Hậu cục (truyền
lệnh dẫn người ra vào).
Trúc Khê trong sách, Trần Thủ Độ Danh Nhân Truyện Kí chép: Bất Cập và
Thiêm đều là cháu gọi Thủ Độ bằng chú ruột (hay bác ruột).
Trần Bồ tức là Trần Cảnh, con trai thứ của Trần Thừa, làm nội thị, chánh
thủ Cục Chi hậu.
Các người này phải thay phiên nhau vào túc trực hầu hạ Chiêu Hoàng,
Trần Thủ Độ xuất hiện trong chính trường mới hơn một năm mà bao nhiêu biến
cố lớn dồn dập xẩy ra… chung cuộc họ Trần lên ngôi hoàng đế thay họ Lư,
trị v́ thiên hạ một cách êm đẹp. Vua Lư Huệ Tông không có con trai. Lập
con gái làm thái tử. Việc đó đối với các dân tộc trên thế giới không hiếm,
cũng không trái với phong tục nước ta, rồi sau vua bà truyền ngôi cho
chồng là lẽ đương nhiên.
Mọi sự được người đạo diễn bậc thầy xếp đặt rất khéo. Nó được đem ra tŕnh
diễn giữa triều đ́nh, trăm quan hết thẩy đều đồng t́nh. Sau lại có chiếu
chỉ ban ra, thật quang minh chính đại.
Ngày 1 tháng chạp năm Ất Dậu (tức đầu năm 1226), Chiêu Hoàng đặt đại hội ở
điện Thiên An: Ngự trên bảo sàng các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở
dưới sân. Chiêu Hoàng trút bỏ áo ngự bào, khuyên mời Trần Cảnh lên ngôi
hoàng đế. Và ban ra tờ chiếu truyền ngôi, tóm lược như sau:
“Từ xưa, các bậc đế vương trị nước cũng nhiều. Duy về nhà Lư ta vâng mệnh
cao sáng từ trời, ban ra bốn biển liệt thánh kế tiếp nhau làm vua trên hai
trăm năm nay, không may gặp vận gian truân, giặc cướp nổi lên như kiến cỏ,
nhân dân không được yên ổn, Thượng hoàng bệnh, không người nối dơi. Trẫm
miễn cưỡng phải theo thánh chỉ, gượng gạo nối ngôi. Từ xưa tới nay chưa
từng có vậy, Trẫm xét thấy ngôi báu rất trọng đại, mà trẫm là vua đàn bà
(nữ chúa), tài đức đều kém, giúp dậy không người mà phải gánh vác lịch sử
do trời trao cho, riêng những nơm nớp lo sợ, như sắp sa xuống vực sâu, để
sao cho có thể nắm giữ thần khí rất trọng yếu này?
Trẫm thức khuya dậy sớm, chỉ sợ không kham nổi. Mỗi lần nghĩ đến việc chọn
người hiền nhân quân tử cùng giúp chính sự , lo lắng đêm ngày.
Kinh sư có câu: “Cầu chàng công tử tốt đôi, cầu mà không được đứng ngồi
không yên” Trần Cảnh văn chất đầy đủ, rơ ra đáng bậc hiền nhân quân tử, uy
nghi lẫm liệt, có đủ bá quan văn vơ, dẫu Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông, cũng
không hơn được. Nghĩ rằng đến nay đă lâu, thử thách đă kỹ, nên chí nhường
ngôi lớn để yên ḷng Trời. Để xứng đáng ḷng trẫm, hầu chung ḷng góp sức
tôn phù tổ vận, để chống giữ ḱ nguy biến.
Các gia phả họ Trần chép: “Tiên Thánh ứng mệnh trời họ Trần thay họ Lư trị
v́ thiên hạ”
Vua Tự Đức có lời phê b́nh: “Thực là việc lạ, muôn ngh́n năm chưa hề có,
các triều đại phương Bắc chưa từng có truyện được nước như vậy bao giờ”.
Kể từ đó, lịch sử của nước Đại Việt bước vào một thời kỳ mới, triều đ́nh
nhà Trần đối diện với những thách thức tưởng như không thể vượt qua được.
Thủ Độ luôn luôn nhọc nhằn trong việc chinh chiến trải qua hàng trăm trận
đánh để xây dựng sự nghiệp bảo vệ vẹn toàn lănh thổ, dẹp loạn cát cứ của
các tù trưởng, di sản nhà Lư để lại cho triều Trần không phải là một bàn
tiệc thịnh soạn, chỉ việc ngồi vào để hưởng thụ, hay là một con đường
phẳng phiu, mà là một xă hội đầy mâu thuẫn, đầy gai góc, một xă hội động
loạn không an ninh với sự đe dọa của giặc ngoại xâm.
Chính sách của Thủ Độ đối với triều Lư cũng hết sức khôn khéo.
Sử chép: “Vua Lư Chiêu Hoàng truyền ngôi cho chồng. Giang sơn nhà Lư
chuyển sang nhà Trần”. Nào mấy ai bảo đây là sự thoán đoạt. Người trong cả
nước tin như thế. Không có lẽ con cháu nhà Trần lại nói khác.
Qua sự việc này ta thấy Thái sư Trần Thủ Độ, quả là bậc thầy, trên hết
thẩy các bậc thầy. Nhưng cũng có nhiều người cho rằng đây là sự cướp ngôi
có tổ chức cực kỳ khôn khéo của Trần Thủ Độ, và việc cướp ngôi này có tội.
Nhưng c̣n đối với dân với nước th́ họ nghĩ sao? Thời bấy giờ từ thời vua
Lư Cao Tông. Trong tôn thất, và ngoài trăm quan chẳng ai có tài tế thế an
bang. Trong nước loạn lạc triền miên, nếu họ Trần không tranh lấy giang
sơn, th́ một anh hùng hay một kẻ gian hùng nào đó cũng sẽ cướp đoạt và
điều quan trọng hơn hết là họ có khả năng làm được như họ Trần không? Ai
cũng biết sau này nhà Trần b́nh yên dẹp loạn trong cả nước, đánh Champa,
ba lần đại phá quân Mông Cổ. Văn trị, vơ công rực rỡ, làm vẻ vang cho
giống ṇi, quốc gia được thái b́nh thịnh trị. Các sử gia cổ kim đều ca
ngợi.
Người có công lớn nhất phải là Thái sư Thủ Độ. Mặc dù ông ta không hoàn
thiện hoàn mỹ. Nhưng ông chính là người sáng lập triều Trần và là một nhân
vật cột trụ của triều đ́nh, thực tế nắm quyền lănh đạo đất nước trong suốt
40 năm (1226-1264).
“Thái Tông lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà
nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua”.
Trần Thủ Độ cũng là nhân vật bị các sử thần và Nho giáo phong kiến chê
trách nhiều. Dưới ng̣i bút của họ, Thủ Độ hiện ra như một quyền thần thật
học, có tài mà không có đức, có công với nhà Trần, lại có tội với nhà Lư.
Nhưng khi chép về việc Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lư, Trong ĐVSKTT Ngô
Sĩ Liên cũng chú thích trong ngoặc “việc này chưa chắc có thật”.
Nhân dân đánh giá ông với cách nh́n khác quan điểm của Nho giáo.
Trong đền thờ Trần Thủ Độ toạ trên đồi Lim (Tiên Sơn-Hà Bắc quê hương của
nhà Lư), có hai câu đối treo trước bàn thờ ông như sau:
Công đáo vu kim, bất đáo Trần gia như bách tái.
Luận định thiên cổ, kỳ tại Nam thiên đệ nhất lưu.
Công đức của ông để măi đến ngày nay, không chỉ bó hẹp trong hai trăm năm
đời nhà Trần. Sau nh́n đời, công luận đă định. Ông danh liệt vào bậc nhất
dưới trời Nam .
ooOoo
Truyện Bức Tử Thượng Hoàng Lư Huệ Tông
Năm 1224, Lư Huệ Tông nhường ngôi cho con gái, vào ở chùa Chân Giáo. Bỏ
ngôi báu đi tu mà không được yên thân. Sau phải tự ải chết thảm.
Có người cho là Thủ Độ hẹp lượng, không được như Tào Phi bên Tầu khi xưa
không giết Hán Hiếu Đế, Tư Mă Viên không giết Ngụy Nguyên Đế, người tin
báo ứng th́ cho rằng:
Gần hai trăm năm sau, Trần Thuận Tông cũng đă thoái vị đi tu rồi, mà vẫn
bị Hồ Quư Ly giết hại là hậu quả việc
làm của Thủ Độ ngày trước. Sự thật th́ Hán Hiến Đế, và Ngụy Nguyên Đế, sau
khi lập đàn thu thiên nhường ngôi cho họ khác, không c̣n mảy may lực lượng
hay uy tín ǵ, khả dĩ khiến được dân chúng làm nguy hại cho ḍng vua mới,
nên mới được sống yên ổn. C̣n Lư Huệ Tông bấy giờ, cũng như Trần Thuận
Tông sau này, để sống rất nguy hiểm, nên thế tất phải chết…
Mặc dù chính bản thân các ông vua này không làm được ǵ, những người chống
đối, dựa vào danh nghĩa nhà vua mà hành động, họ tạo ra cơ… Lê Đại Hành
xưa không giết ngay Định Toàn, nhưng về sau Vệ Vương Định Toàn lớn lên đi
đánh trận giúp Lê, bị ngầm bắn chết. Có thể Lê Đại Hành sai người ám sát.
Hồ Quư chỉ được gọi là Huệ Quang đại sư, y muốn mọi ng Hoàng ra chợ Cửa
Đông, nhân dân đua nhau chạy ra xem, có người động ḷng thương khóc. Thủ
Độ sợ ḷng Ly không giết Trần Thiếu Đế, chẳng phải v́ thương t́nh cháu
ngoại, mà chỉ v́ để sống ười quên nhà vua cũ. Có lần Thượng, không bị nguy
hại ǵ.
Quốc sử chép: Lư Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Hoàng, ra tu ở chùa Chân
Giáo. Thủ Độ và Trần Thị, vợ Huệ Tông, tự tiện chuyên quyền, ngầm chuyển
dời ngôi vua Nhà Lư sang nhà Trần. Thủ Độ không cho gọi Huệ Tông là Thượng
Hoàng, mà người tưởng nhớ vua cũ, sẽ sinh ra sự biến loạn nên cho canh
giữ, ḍ xét nghiêm mật (quản chế), muốn trừ đi để khỏi lo về sau.
Bấy giờ khắp nơi ngoài kinh đô có những cuộc nổi dậy chống đối. Thủ
Một hôm Huệ Tông ngồi nhổ cỏ ở sân chùa Chân Giáo, Thủ Độ đi qua trông Độ
chưa dẹp được nhất là bọn Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn, hùng cứ mỗi người một
phương, đều xưng là hành động v́ nhà Lư.
Đám dân chúng khóc lóc khi Huệ Tông ăn mặc nâu ṣng như những bần tăng th́
v́ ḷng trắc ẩn thương người “ngă ngựa”, chứ chưa hẳn là v́ ḷng trung
thành với nhà vua mà sẵn ḷng “hy sinh cứu chúa”, những hành động này kích
thích các cựu thần nhà Lư c̣n trung thành sớm tích cực có hành động phục
Lư. thấy nói rằng: “Nhổ cỏ phải nhổ hết rễ sâu.” Huệ Tông phủi tay đứng
dậy nói: “Nhà ngươi nói, ta hiểu rồi”. Mấy hôm sau, Thủ Độ sai người đem
hương hoa đến dâng và cho mời Huệ Tông. Huệ Tông giận lắm, tụng kinh xong,
vào nhà sau chùa, thắt cổ tự tận, v́ biết rơ ư định đen tối của Thủ Độ.
Bấy giờ là tháng 8 âm lịch năm 1226.
Sau khi Huệ Tông băng hà. Thủ Độ dẫn trăm quan đến khóc viếng, rồi đem hỏa
táng tại Phường An Ḥa (xá lợi) để ở chùa Bắc Quang. Rồi ra tuyên cáo với
quốc dân rằng: Huệ Quang Đại sư đă về cơi Niết Bàn, để cho mọi người hết
c̣n hy vọng và cũng để ngăn ngừa những kẻ muốn mượn cớ nhà Lư để làm loạn.
Huệ Tông có thể chết v́ tờ chiếu cần vương giả?
Bối cảnh lịch sử và cái chết của Huệ Tông lúc đó diễn ra như thế nào?
Chúng ta không nhà Lư để xưng bá đồ vương, cũng có người cho rằng tôn thất
nhà Lư bí mật giao dịch với bọn này, đă yêu cầu Huệ Tông ban chiếu cần
vương. Thủ Độ đă bắt được tờ chiếu đó, ắt phải lo lắng, đến gặp Huệ Tông,
đưa ra chất vấn. Huệ Tông chối là không phải chính ḿnh ban bố ra.
Rất có thể là tờ chiếu giả mạo, được tung ra, và cũng rất có thể Huệ Tông
đă chết oan về cái chiếu giả này. (chiếu kêu gọi trăm họ đứng lên trừ ngụy
Trần, thoán đoạt ngôi vua) như thế phe chống mới tạo được chính nghĩa.
Không biết Thủ Độ có tin lời Huệ Tông không. Nhưng lập tức ông đă làm tờ
cải chính để tuyên cáo với quốc dân rằng, đó là đồ giả. Mặc dù vậy, Huệ
Tông không được yên thân ở chùa, lúc nào cũng phập phồng lo sợ, lại sẵn có
bệnh tâm thần, lúc tỉnh lúc mê, nên trong khi hoảng hốt, đă thắt cổ tự tử.
Lại có thuyết cho là Thủ Độ sai người đến dâng Huệ Tông một b́nh rượu, có
pha thuốc độc. Huệ Tông uống xong th́ chết. Đa số cho giả thuyết này gần
sự thật hơn.
Dù sao th́ Huệ Tông lụi thế phải chết dù bằng cách này hay cách khác.
Thủ Độ không thể để tồn tại một mối nguy lớn trước mắt, cái tờ chiếu dù là
giả, nhưng nỗi ám ảnh th́ có thật.
Nhà Nho sử gia Ngô Sĩ Liên phê b́nh: “Đă lấy nước, lại c̣n giết vua người
ta, là bất nhân quá lắm”.
Nếu đứng trên quan điểm Nho giáo mà xét, th́ thật là nhẫn tâm. Nhưng trên
trường chính trị th́ thanh trừng như vậy là có thực.
VỤ CHÔN SỐNG TÔN THẤT NHÀ LƯ
Sử chép Thủ Độ đă hại vua Huệ Tông. Tôn thất nhà Lư
oán hận, thất vọng. Lại muốn trừ nốt đi. Năm 1232 nhân làm lễ tế tiên hậu,
nhà Lư ở thôn Thái Đường, xă Hoa Lâm, huyện Đông Ngh́n (Bắc Ninh). Thủ Độ
cho người ngầm đào hầm sâu, dựng nhà tạm ở trên, đến khi các tôn thất nhà
Lư vừa vào lễ th́ giật mái cho đổ, thụt cả xuống hố, rồi đổ đất chôn sống
cả.
Sử kư tục biên của Phan Phu Tiên không chép, ĐVSKTT có chép lược. Nhưng
chính sử gia Ngô Sĩ Liên lại nghi ngờ (chú thích không có) Nguyễn Triệu
Luật, người ḍng dơi nhà Lư, cũng xét rằng sự việc đă diễn ra không hẳn
thế. Việc sửa soạn làm lễ lớn tế tổ tiên họ Lư tại đền thờ trong thôn
người họ Lư ở, mời Hoàng thượng, Hoàng hậu đến dự, là công việc của họ Lư
chứ đâu phải là việc của triều đ́nh, mà nếu có nhà vua chủ trương đào hầm
lớn, trước đền thờ ở ngay trong thôn toàn người họ Lư ở, làm sao những
người này lại mù ḷa không ai biết được, khôn khéo đến mức nào chăng nữa
cũng không thể che dấu được ai. Đào đất sâu, rộng, rồi đổ nhiều đất ra nơi
khác th́ kín đáo làm sao được, như đă diễn ra trong xó tối. Hơn nữa, Thủ
Độ mưu trí rất sâu sắc, không khi nào lại đi làm sự quá trơ tráo, lộ liễu
đến thế được.
Theo Nguyễn Triệu Luật, sự việc xảy ra phải do chính các người trong tôn
thất nhà Lư, muốn sát hại vua Trần Thái Tông, Chiêu Thánh Hoàng hậu và các
quan họ Trần, đă tự ư, hoặc do liên lạc với các đảng chống đối ở ngoài
kinh, đă đào hầm từ lâu đặt ván hóa trang trên mặt đất trong ngôi nhà lớn.
Đến ngày làm lễ tiên hậu, th́ mời vua và hoàng hậu đến dự, để cho ngồi nơi
bên dưới có hầm, định tâm trong lúc tế lễ, sẽ kéo mái cho sập cả xuống hầm
mà chết. Trong lúc rối loạn quân bên ngoài tiến vào, giữ thế chủ động tiêu
diệt vây cánh họ Trần. Nhưng Thủ Độ biết được mưu ấy. Ông vốn lúc nào cũng
có thể nghi ngờ người họ Lư, luôn theo dơi họ, đến khi có lễ lớn, ra lệnh,
thay đổi hết vị trí đứng ngồi của mọi người dồn tôn thất nhà Lư vào nơi
dành cho vua quan nhà Trần, bên dưới có hầm, rồi sai người kéo đổ sàn cho
mọi người ở trên sa hết xuống hầm. Thủ Độ sai đem đất đổ lên, chôn sống cả
rồi tuyên bố với mọi người về tội trạng của Tôn thất nhà Lư. V́ có thiên
mệnh vua Trần không bị hại mà chính các người mưu hại nhà vua lại phải đền
tội.
Cũng có giả thuyết cho rằng, Thủ Độ cho người thân tín, giả làm tay sai
của phe chống đối, bấy giờ là năm 1232, Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn đều đă
chết, nhưng mọi sự chống đối chưa hết hẳn có phe đảng đă móc nối bày kế
đào hầm cho tôn thất nhà Lư hại triều đ́nh nhà Trần, rồi thừa cơ kéo quân
về Thăng Long, hợp lực với các toán nội ứng, lập ra triều đ́nh mới. Hứa
thế rồi đưa họ vào chỗ chết thảm, mà mọi người không ai oán trách ǵ họ
Trần. Giả thuyết này gần với sự thật hơn, sử chỉ chép vắn tắt:
Huệ Tông chết, Thủ Độ tuyên bố với quốc dân là ngài đă về Niết Bàn… Các
người trong tôn thất nhà Lư sa hầm bị chôn sống. Thủ Độ báo cáo về triều
đ́nh và dân chúng là do họ mưu hại Thiên tử không thành mà phải đền tội tự
ḿnh gây ra.
Những cung nhân và con gái tôn thất nhà Lư, Thủ Độ đem gả cho các tù
trưởng miền núi, Trần Thái hậu bị truất ngôi, giáng làm Thiên Cực công
chúa, sau lấy Thủ Độ.
Thủ Độ không muốn đời sau không ai tưởng nhớ tới họ Lư nữa, nhân tổ họ
Trần tên là Lư, bắt trong nước ai họ Lư đều phải đổi thành họ Nguyễn.
Có sách chép Thủ Độ đă sát hại hết tôn thất nhà Lư. Xét ra không đúng, sử
gia Ngô Sĩ Liêm viết: Hại sao hết được, không kể những người đă trốn tránh
đi xa, thay tên đổi họ không ai biết được, có người lưu lạc, trôi giạt
sang măi bên Hàn Quốc (Triều Tiên) đến nay c̣n ḍng dơi ở bên ấy: Một chi
họ Lư ở Chang Nam, miêu duệ của Lư Dương Côn (con Lư Anh Tông), đều thịnh
vượng (1). Nhiều người tôn thất họ Lư đương thời vẫn được sống b́nh yên ở
vùng Đôn Ngh́n (Từ Sơn-Bắc Ninh), đến nay con cháu có rất nhiều chi đông
đúc ở khắp tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, chỉ có một số người mà Thủ Độ cho là
nguy hiểm (bị giết), những người không tỏ thái độ chống lại triều đ́nh
chẳng có ai bị ám hại, c̣n những phần tử bị nghi ngờ… Thủ Độ đưa đi xa
khai hoang lập ấp. Dựng lên nhiều làng mạc mới trù phú như Bằng Hà, Ba
Khai, Ba Điểm. Anh tài được trọng dụng, Lư Tải Đạo, đỗ trạng nguyên làm
quan, sau là đệ tử Điều Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông) có hiệu là Huyền
Quang (Đệ Tam Tổ Trúc Lâm). Ḍng dơi nhà Lư làm quan triều Trần; Lư Tất
Kiến, tước hiếu túc hầu làm quan triều Anh Tông và Minh Tông.
Nếu nhà Trần và ngay cả Thủ Độ không thu phục được ḷng người có phép lạ
nào thắng được quân Nguyên?