
Kinh Thi viết:
“Phụ hề sinh
ngă.
Mẫu hề cúc ngă.
Ai ai phụ mẫu,
sinh ngă cù lao.
Dục báo thâm ân, hạo thiên vơng cực”
經詩曰
“父 兮生 我 母 兮 匊 我
哀 哀父 母 生 我 劬 勞
欲 報深 恩 昊 天 罔 極”
Có nghĩa là: Kinh Thi
nói rằng: "Cha sinh ta, mẹ nuôi ta, Xót thương cha mẹ sinh ta khó nhọc.
Muốn báo ơn cha mẹ, nhưng ơn cha mẹ như trời cao chẳng cùng."
Chữ Hiếu (孝)
theo Tự điển Đào Duy Anh có nghĩa là hết ḷng thờ cha, mẹ.
Hiếu là một phạm trù
đạo đức của Nho giáo Trung Quốc. Cùng với Trung (忠) , Hiếu (孝)
xây dựng các quy
tắc ứng xử của con người trong hai mối quan hệ xă hội và gia đ́nh. V́
thế, dưới chế độ phong kiến: “Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ
sử tử vong tử bất vong bất hiếu”
(君
史 臣 死 臣 不 死 不 忠
父史 子 亡 子 不 亡 不 孝)
(Vua khiến tôi
chết, tôi không chết là tôi chẳng trung. Cha khiến con chết, mà con không
chêt là con chẳng hiếu…) và không ít trung thần, hiếu tử đă trở thành
nạn nhân của quan niệm phong kiến, cực đoan đó.
Tuy nhiên, khi du
nhập vào Việt Nam, Nho giáo nói chung, quan niệm về chữ Hiếu nói riêng đă
được Việt hoá về nhiều mặt và nảy sinh những cách hiểu cũng như hành vi
hiếu thảo mang tính thực tiễn theo quan niệm chữ Hiếu của nhân dân ta, đă
trở thành văn hoá đạo hiếu của dân tộc ta.
Chữ Hiếu theo quan niệm của Nho giáo chính thống ở nước ta tuy vẫn chuyển
tải đầy đủ ư nghĩa ban đầu nhưng nội hàm đă được mở rộng nhằm phù hợp với
từng điều kiện, hoàn cảnh và con người cụ thể: Lời dặn của Nguyễn Phi
Khanh đối với Nguyễn Trăi “ Con về lập chí, rửa nhục cho nước, trả
thù cho cha, như thế mới là đại hiếu” Hiếu ở đây không chỉ đối với
cha mà c̣n Hiếu với nước. Bác Hồ kính yêu cũng đă dạy: “Trung với
nước, Hiếu với dân”.
Trong xă hội, khi
quan hệ cá nhân gắn liền quan hệ cộng đồng dân tộc th́ chữ Hiếu trong quan
hệ gia đ́nh cũng h́nh thành những nét nghĩ mới. Việc làm của Nguyễn Trăi
trong suốt quăng đời c̣n lại là quá tŕnh làm tṛn chữ Hiếu với cha nhưng
cũng là thực hiện đạo Hiếu đối với dân với nước. Nhưng trước hết, bản thân
Nguyễn Trăi nghe theo lời cha dạy, quay về mưu cầu việc lớn pḥ minh chúa
Lê Lợi đánh giặc Minh là hành động cụ thể đúng theo tinh thần chữ Hiếu
trong quan niệm chính thống của Nho giáo Việt Nam. Nguyễn Trăi ăn lộc nhà
Trần, thành danh và ra làm quan cho nhà Hồ và là bậc khai quốc công thần
của nhà Lê nhưng không ai cho Nguyễn Trăi bất trung! Bởi v́, tuỳ duyên
nhưng bất biến. Trường hợp Nguyễn Trăi, hiếu với dân, hiếu với nước rơ
ràng là một bước tiến dài mang ư nghĩa hoàn chỉnh, trong quan niệm về chữ
Hiếu của nhân dân ta.
Câu chuyện “
Chử Đồng Tử” (渚童子)
sau đây là một bằng chứng thấu t́nh, đạt lư về chũ HIẾU.
Theo Lĩnh Nam Chích
Quái (嶺 南 摘 卦) của Vũ Quỳnh - Kiều
Phú: “Vua Hùng thứ ba có người con gái tên Tiên Dung Mỵ Nương đến tuổi 18
dung mạo đẹp đẽ, không muốn lấy chồng, chỉ măi vui chơi, chu du khắp thiên
hạ. Hồi đó ở làng Chữ Xá có ngư dân là Chữ Vi Vân sinh hạ được Chữ Đồng Tử
(渚童子)
(người con trai ở bên sông). Chẳng may, nhà gặp hoả hoạn, của cải
sạch không , chỉ c̣n lại một cái khố vải, cha con ra, vào thay nhau mà
mặc. Người cha, tuổi già, đau ốm, trước khi nhắm mắt gọi con đến bảo rằng:
“Cha chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho con.” Chữ Đồng Tử
không nở làm theo, dùng khố mà liệm bố.
Từ đó, Đồng Tử thân
thể trần truồng, hể nh́n thấy có thuyền buôn qua lại th́ đứng ở dưới nước
mà ăn xin, rồi câu cá, hái rau độ thân. Không ngờ, một hôm, thuyền của
Tiên Dung đến, chuông trống, đàn sáo, kẻ hầu, người hạ rất đông. Trên băi
cát có khóm lau sậy, Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ nằm xuống
và phủ cát lên ḿnh. Thoát sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên băi
cát, ra lệnh vây màn trướng ở khóm lau mà tắm.
Tiên Dung vào màn,
cởi áo, dội nước, cát trôi, phát hiện Đồng Tử. Tiên Dung kinh sợ, thấy là
người con trai, bèn nói: “Ta vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp người,
cùng ở trần với nhau, đó chính là do duyên trời xui khiến nên vậy. Người
hăy đứng dậy tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc, rồi cùng ta xuống thuyền, mở
tiệc ăn mừng. Người trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa
từng có.
“ Chử Đồng Tử
” (渚童子)
là câu chuyện mà qua đó, dân gian ta “phản ánh nguyện vọng, ước mơ tự
do hôn nhân và đề cao đức tính hiếu thảo” qua hai nhân vật Chử
Đồng Tử và Tiên Dung
Chử Đồng Tử (渚童子)
là người con rất có hiếu đối với cha. Điều này thể hiện qua chi tiết chàng
đă “đóng khố cho cha rồi mới chôn” dù cả hai cha con chỉ có
chung một chiếc khố dùng thay nhau và trước đó, cha chàng đă dặn “cứ
giữ lấy mà dùng”. Nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, Chử Đồng Tử đă
không nỡ để cha ḿnh trần về nơi chin suối. Việc Chử Đồng Tử không nghe
lời cha, nếu xét theo quan niệm chữ Hiếu của Nho giáo bảo thủ không những
không được coi là hiếu thuận mà ngược lại, c̣n bị cho là bất hiếu. Thế
nhưng, sự thực là không ai không xúc động trước tấm ḷng hiếu thảo sâu
nặng của chàng, cũng không ai chê trách mà tất cả đều đồng ḷng ngợi ca
hành động hiếu nghĩa đó. Trong trường hợp này, dân tộc ta đă có quan niệm
rất thực tế về chữ Hiếu. Chử Đồng Tử, dù không nghe lời cha (là biểu
hiện của sự bất hiếu) nhưng việc chàng làm lại toả sáng một tấm ḷng
rất mực hiếu thảo. Chử Đồng Tử đă được dân gian ban tặng “phần thưởng”
là một cô Công chúa xinh đẹp để làm vợ. Quả thật đây là phần thưởng vô
cùng cao quư mà không bạc vàng nào sánh được (V́ không thể dùng của cải
vật chất làm thước đo ḷng hiếu thảo con người ). Chi tiết này thể
hiện cách nghĩ hết sức thâm thuư thấm đẩm tính chất nhân văn và có thể coi
là sự bổ sung cho quan niệm về chữ Hiếu trong dân gian của dân tộc ta.
Công chúa
Tiên Dung, nếu xét theo tiêu chí và quan niệm về chữ Hiếu của Nho giáo
bảo thủ, cố chấp được coi là một người con “bất hiếu” bởi không
nghe lời cha, “không chịu lấy chồng” và tự ư định đoạt hôn nhân cho
ḿnh – hành động “mặc áo qua đầu” vốn bị coi là cấm kỵ trong xă hội
phong kiến về mối quan hệ giữa con cái đối với cha mẹ. Và Chử Đồng Tử, một
chàng trai hiếu thảo, trớ trêu thay, lại được dân gian dành cho phần
thưởng là một cô con gái “bất hiếu”! Thoạt nh́n, tưởng như dân gian
ta có ư “chơi khăm” nhân vật của ḿnh nhưng kỳ thực th́ không phải
vậy.
Trong nhận thức của
nhân dân ta, Tiên Dung chưa bao giờ bị coi là bất hiếu bởi việc nàng làm
chẳng những không phương hại đến ai mà c̣n hướng đến lẽ đời cao đẹp với
hôn nhân tự do và sự phân định đẳng cấp xă hội bị xoá nhoà. Cái sâu sắc
của dân gian ta ở đây là tạo ra cái nghịch lư bên ngoài để làm sáng lên
cái có lư bên trong. Chử Đồng Tử xứng đáng được ban thưởng và Tiên Dung
cũng xứng đáng với tư cách “phần thưởng” của ḿnh.
Truyện “Chử Đồng Tử” (渚童子)
kết thúc với việc Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay về trời cũng là dụng ư của
dân gian, nhằm tránh sự xung đột trong quan hệ vua-tôi, cha-con giữa Chử
Đồng Tử và Tiên Dung với vua cha, khi mà nhà vua cử binh tiến đánh để
Trung và Hiếu được vẹn toàn. Truyện cổ tích, nhất là cổ tích thần kỳ của
nhân dân ta phản ánh thời kỳ “ngây thơ” trong lịch sử xă hội loài
người nhưng những ǵ được thể hiện trong “Chử Đồng Tử ” lại cho thấy quan
niệm và cách xử lư t́nh huống không hề ngây thơ.
Quan niệm về chữ Hiếu qua câu chuyện về chàng trai họ Chử có
màu sắc phong phú và giá trị thực tiễn phù hợp với đời sống tâm lư xă hội
cộng đồng, dù vẫn giữ cái hạt nhân cốt lơi của quan niệm về chữ Hiếu. Việc
tiếp thu và vận dụng văn hoá, tư tưởng nước ngoài bằng trí tuệ, tâm hồn và
đạo lư dân tộc của người Việt qua truyện “Chử Đồng Tử ” nói riêng, trong
quá tŕnh xây dựng và phát triển bản sắc văn hoá, tư tưởng dân tộc nói
chung luôn là điều khiến ta phải suy ngẫm và thán phục.
Đối với đạo Phật, Rằm
tháng bảy hằng năm, lễ hội Vu Lan, lễ bông hồng cài áo, là mùa báo hiếu,
Bởi v́: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh”.
(孝
心即 是 佛 心, 孝 行 無 非 佛 行)
Ḷng hiếu tức là ḷng
Phật. Hạnh hiếu há chẳng phải là hạnh Phật sao?.
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹp và lâu đời của dân tộc
Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đă được giữ vững và trao truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác, cho đến ngày nay. V́ thế ca dao ta có câu:
"Công Cha như núi Thái Sơn
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một ḷng thờ Mẹ kính Cha,
Cho trọn chữ hiếu mới là đạo con."
Hoặc:
"Trải bao gian khổ không sờn
Muôn đời con vẫn nhớ ơn Mẹ hiền."
Ngày nay, Rằm tháng bảy, Thắng hội Vu Lan, ngày truyền thống văn hoá báo
hiếu không chỉ có người Phật tử thực hiện mà đă thành lễ hội văn hoá báo
hiếu của dân tộc ta. V́ thế, mỗi chúng ta hăy là một điểm sáng về tấm
ḷng hiếu thảo, tỏa sáng, rực sáng, v́ ánh sáng bao giờ cũng đẩy lui bóng
tối, t́nh thương bao giờ cũng chiến thắng thù hận, trí tuệ bao giờ cũng
khuất phục si mê, hạnh phúc và đạo đức bao giờ cũng vượt lên trên hết…