
Hiu hiu gió gửi mây về
Nửa thu sang đó, nửa hè c̣n đây. . .
Bóng mờ xuống lặng chân cây,
Non cao vắng vẻ, sông đầy nhớ mong.
Hồ Dzếnh
Thế
là đă hơn 4 thập niên qua rồi, từ ngày tôi xa Bệnh Viện (BV)
B́nh Dân Sài G̣n. Tuy nhiên bao h́nh bóng của những sinh
hoạt trong thời gian tôi làm nội trú thực tập tại Bệnh viện
này vẫn c̣n vương vấn đâu đây, những kỷ niệm vui buồn, khổ
nhọc cứ măi sống với tôi chưa hề phai nhạt.
V́ t́nh thế đưa đẩy, tôi phải vào học nghề thuốc. Như tôi đă viết trong
quyển Hồi kư “Từ Ḥn Khói, Tôi đi. . . ”. Đă dấn thân vào công việc, một
ngành học “bất đắc dĩ”, nhưng tôi tự nhủ ḿnh là phải cố gắng và nhẫn nại
để cố đạt được mục đích tốt đẹp.
Rồi với thời gian, qua những năm học tập ở trường y và thực tập tại bệnh
viện, tôi nhận thấy ngành y sao mà thích thú và cao cả quá! Công việc bận
rộn hằng ngày tại bệnh viện cho tôi cảm thấy càng muốn biết những cái mới
lạ. Rồi với cái đà ấy, trong những năm làm việc tại BV B́nh Dân, tôi đă
học hỏi được ở nhiều bậc Thầy dày dạn về Y Đức, Y Học đầy Nhân Bản tuyệt
vời như Quư Thầy Phạm Biểu Tâm (Biểu tượng của Y Đạo Y Học Y Thuật - Tạp
San Y Sĩ số 201 của Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada, 05/2014), Thầy Nguyễn
Hữu, Thầy Nguyễn Đ́nh Cát, Thầy Đào Đức Hoành, Thầy Trần Ngọc Ninh,. . .
!!!
Tuy làm nội trú tại Khu Chấn Thương và Chỉnh Trực tại Bệnh viện B́nh Dân
Sài G̣n, lúc bấy giờ tôi chưa hiểu rơ nguồn gốc và lai lịch của Bệnh Viện
B́nh Dân.
Măi sau này, t́m hiểu và nhân đọc được quyển sách “Một chút lịch sử Y Khoa
Đại Học Sài G̣n (1954-1975)” của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh gửi tặng và quyển
“SaiGon Medical School” của ba tác giả C H William Ruhe, Norman William
Hoover, MD, Ira Singer, PhD, trong Thư Viện ở Mỹ, tôi mới hiểu rơ nguồn
gốc và những sự việc đă từng xảy ra tại thủ đô Sài G̣n của nước VIỆT NAM
CỘNG H̉A lúc bấy giờ (khoảng năm 1966-1971).
*
Xin nhắc qua một vài dữ kiện có liên quan đến nguồn gốc Bệnh viện B́nh
Dân Sài G̣n.
Khi chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, Trường Đại Học Y Khoa Hà Nội được chia
làm hai: một nửa theo Giáo Sư Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di,. . . ra bưng biền,
theo kháng chiến; một nửa ở lại thủ đô Hà Nội, tại Bệnh viện Yersin cùng
với Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Bác sĩ Trần Ngọc Ninh, cùng một vài người nữa
đă ở lại thủ đô với Giáo Sư Tâm.
*
Sau Hiệp Định Genève, Việt Nam bị chia đôi đất nước. Miền Nam từ vĩ
tuyến 17 trở vào Nam, thuộc Việt Nam Cộng Ḥa. Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở
ra Bắc, thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, theo Khối Cộng Sản Quốc Tế.
Một số giáo chức và sinh viên của trường Y Khoa Hà Nội chọn con đường di
tản và vào Sài G̣n. Sự hội nhập với trường Y Khoa Sài G̣n không phải không
gặp những xung đột và những khó khăn, nhưng cuối cùng, t́nh tự dân tộc và
t́nh bằng hữu của những người cùng chung một mái trường trong tuổi trẻ đă
thắng được hết sự đố kị nhỏ mọn của chúng nhân. Từ khởi điểm cao đẹp ấy,
trường Y Khoa Đại Học Việt Nam ở thủ đô miền Nam Tự Do đă phát triển một
cách cực kỳ tráng lệ. Một bệnh viện mang danh là BV B́nh Dân được xây dựng
lên bằng tiền đóng góp của một số người hảo tâm, được trao lại cho các
giáo chức người Bắc để mở mấy khu bệnh nghiệm mới. Một phần lớn nhân viên
của Bệnh Viện Phủ Doăn (Yersin) di cư vào miền Nam và tiếp tục làm việc
tại BV B́nh Dân Sài G̣n.
Như vậy tiền thân của BV B́nh Dân SàiG̣n là Bệnh Viện Phủ Doăn, Hà Nội.
*
Bắt đầu từ năm 1964, tôi làm nội trú tại Khu Nhăn Khoa, trong một năm với
Giáo sư Nguyễn Đ́nh Cát, trưởng Khu Nhăn Khoa và Bác sĩ Nguyễn Ngọc Kính.
Sau đó, tôi chuyển qua Khu Ung Bướu của Giáo Sư Đào Đức Hoành, tôi làm
việc tại đây
cùng với nội trú Trần Ngọc Quang. Và những năm cuối, tôi làm nội trú tại
Khu Chấn Thương và Chỉnh Trực, cùng với các bạn nội trú Vơ Thành Phụng,
Nghiêm Đạo Đại và Bùi Văn Đức tại BV B́nh Dân Sài G̣n.
Lúc bấy giờ, được giữ tua trực Ngoại, thực tập Ngoại khoa Tổng Quát, tôi
đă nhiều lần phụ mổ cho các Thầy Phạm Biễu Tâm, Thầy Nguyễn Hữu,. . . Nhất
là trong dịp Tết Mậu Thân, Quư Thầy đều vô Bệnh Viện giúp các anh em nội
trú để giải quyết một số rất nhiều bệnh nhân vừa dân sự lẫn quân đội v́
đường lên Tổng Y Viện Cộng Ḥa bị gián đoạn cho đến sáng ngày mồng một Tết
Mậu Thân mới được giải tỏa. Không khí trang nghiêm và thiêng liêng của
những ngày Tết cổ truyền Việt Nam đă bị cướp mất để thay vào đó tang
thương và chết chóc đầy dă man. Thủ đô Sài G̣n đang thanh b́nh diễm lệ đă
biến thành băi chiến trường đầy tội ác.
Ngoài ra, tôi cũng đă phụ mổ cho Chị bác sĩ Trần Kim Hoàn, Anh bác sĩ Tăng
Nhiếp trong các tua trực. Các Anh Chị bác sĩ vui vẻ và luôn luôn giúp đỡ
đàn em nội trú học tập nên tôi thấy việc học tập của ḿnh thật thoải mái
và hào hứng. Vốn thích thú về việc giải phẫu nên tôi rất lưu tâm trong
công việc làm hằng ngày. Tôi cũng được học hỏi về những hiểu biết về khoa
Gây Mê và Hồi Sức của bác sĩ Nguyễn Khắc Minh vừa mới đi tu nghiệp ở Hoa
Kỳ về. Bác sĩ Minh, phụ trách Trưởng Khoa Gây Mê và Hồi Sức, nhưng vẫn
nhận trực là một bác sĩ trưởng tua trực với anh em nội trú trực Ngoại tại
BV B́nh Dân Sài G̣n.
Những năm ấy, các bệnh nhi vào khu Giải Phẫu Tiểu Nhi của BV Nhi Đồng đường Sư Vạn Hạnh Sài G̣n, trong giờ trực ban đêm, đều
được chuyển qua BV B́nh Dân để mổ cấp cứu. Các nhân viên gây mê của Khu
Giải Phẫu Tiểu Nhi qua trực cùng với các nhân viên tê mê của BV B́nh Dân.
Sau nhiều lần phụ mổ cho Chị bác sĩ Trần Kim Hoàn, đến một hôm, Chị cho
phép tôi được phép mổ một ca “Ruột thừa viêm”. Tôi nhớ măi đến bây giờ lần
tôi mổ đầu tiên trong tua trực đêm hôm ấy. Những ngày không phải trực, tôi
vẫn thường xuống làm việc với các bạn nội trú đàn anh trực để phụ giúp và
học hỏi. Một số các bạn nội trú tại BV B́nh Dân lúc bấy giờ tôi c̣n ghi
nhớ: Các Anh Tôn Thất Chiểu, Lê Văn Tập, Nguyễn Văn Cung, Lê Quang Dũng,
Nguyễn Gia Khánh, Nguyễn Thanh Thủy, Hồ Tấn Phước, Nguyễn Thanh B́nh, Trần
B́nh Diệp, Nguyễn Đỗ Duy,. . . Nếu c̣n một số các bạn khác, tôi
không kể
ra đây xin miễn chấp.
*
Năm 1954, Bác sĩ Trần Ngọc Ninh, tu nghiệp xong ở Pháp và Anh, về thẳng
miền Nam. Trong thời gian ở Pháp, GS Trần Ngọc Ninh tu nghiệp tại một nhà
thương nổi tiếng ở Paris, nhà thương Cochin với GS Merle d’Aubigné, bậc
thầy của Giải phẫu về xương của Pháp, và có thể nói là cả Âu Châu. Đồng
thời, GS Ninh học Giải Phẫu trẻ em với GS Pierre Petit tại nhà thương
Saint Vincent de Paul ở Paris.
GS Ninh c̣n sang Anh thụ huấn với GS Seddon tại Royal National Orthopedic
Hospital, London và GS J. Trueta tại Wingfield Morris Hospital, Oxford.
Về lại miền Nam Việt Nam, GS Trần Ngọc Ninh, là người sáng lập và điều
khiển hai Khoa lớn của trường Y Khoa Đại Học Sài G̣n là Khoa Giải Phẫu về
Chấn Thương và Chỉnh Trực tại BV B́nh Dân và Khoa Giải Phẫu Trẻ em tại BV
Nhi Đồng, đường Sư Vạn Hạnh Sài G̣n từ năm 1955 đến 1977. GS đă xây dựng
và điều hành hai Khoa này từ con số KHÔNG.
Sau khi sáng lập ra hai khoa Chấn Thương và Chỉnh Trực tại BV B́nh Dân và
Khoa Giải Phẫu Trẻ em tại Bệnh viện Nhi Đồng, Thầy c̣n phải gửi một số
nhân viên du học ở các Bệnh Viện của các nước có nền Y khoa tân tiến để
học hỏi những kiến thức mới về y khoa để về phục vụ cho hai Khoa mà Thầy
đă dày công xây dựng. Mặt khác, chính Thầy cũng tự chọn lựa những dụng cụ
trong trại bệnh cũng như trong Pḥng Mổ của hai Khoa cho thích hợp với kỹ
thuật mới của y học. Giáo Sư cũng đă gửi người của hai Khoa đi tu nghiệp
tại ngoại quốc thành những người rất xuất sắc, làm rạng danh cho quê hương
Việt Nam như Bác Sĩ Vũ Văn Nguyên về Orthopedie tại Mayo Clinic ở
Minnesota, BS Trần Xuân Ninh về Giải Phẫu Trẻ em tại Children Memorial ở
Chicago với GS Ovar Swenson, USA.
Cho đến năm 1975, khi Cộng Sản thôn tính toàn cơi đất nước Việt Nam, danh
tiếng của hai Khoa này đă vượt biên giới quốc gia.
Tại Khoa Chấn Thương và Chỉnh Trực BV B́nh Dân, Thầy có GS Hoàng Tiến Bảo
và từ năm 1966 có thêm GS Norman William Hoover, trong AMA (American
Medical Association) tại Sài G̣n phụ lực, cùng các sinh viên nội trú phụ
tá. Tại Khoa Giải phẫu Trẻ em tại BV Nhi Đồng, từ khi BS Trần Xuân Ninh đi
tu nghiệp ở Mỹ, Thầy chỉ đơn độc một ḿnh làm từ mọi việc, cùng với một
sinh viên nội trú phụ tá luân phiên mỗi năm.
Sau khi Anh bác sĩ Trần Xuân Ninh đi ngoại quốc du học, Thầy Trần Ngọc
Ninh có bảo tôi qua Khu Giải phẫu Tiểu Nhi tại BV Nhi Đồng đường Sư Vạn
Hạnh Sài G̣n để phụ giúp Thầy. Lúc bấy giờ tôi là nội trú Khu Chấn Thương
và Chỉnh Trực của Thầy tại BV B́nh Dân Sài G̣n. Buổi sáng tôi làm việc ở
Khu Chấn Thương và Chỉnh Trực ở BV B́nh Dân và buổi chiều, tôi qua giúp
việc với Thầy ở khu Giải Phẫu Tiểu Nhi BV Nhi Đồng, đường Sư Vạn Hạnh Sài
G̣n. Sau một thời gian, tôi ra trường và làm việc ở Pleiku từ đầu năm
1969.
Đến năm 1970, BS Trần Xuân Ninh tu nghiệp từ Mỹ đă trở về, Ông Thầy mới có
một bác sĩ phụ lực trong công việc ở Khoa cùng với một sinh viên nội trú
phụ tá. Anh BS Trần Xuân Ninh thật sự là một phụ tá đắc lực của Ông Thầy
từ hai năm về trước, trước khi đi tu nghiệp ở nước ngoài.
Trước khi chưa vào làm sinh viên nội trú tại Khoa Chấn Thương và Chỉnh
Trực, tôi đă từng nghe những tin đồn đăi từ các anh chị em sinh viên y
khoa về GS Trần Ngọc Ninh là một ông Thầy “khó tính” và” nghiêm khắc”, các
sinh viên rất sợ và e dè phải vào thực tập tại Khoa Bệnh lư của Giáo Sư.
Mặc dù nghe các tin đồn đăi về GS như vậy, nhưng tôi nhất quyết chọn Khoa
Chấn Thương và Chỉnh Trực làm nội trú.
Làm việc bên Thầy trong vài tháng đầu, tôi nhận thấy những lời đồn đăi về
Thầy trong đám sinh viên không c̣n ám ảnh tôi nữa. Làm việc với Thầy, tôi
học được ở nơi Thầy có nhiều điều rất mới lạ và đặc biệt. Biết ư và cung
cách làm việc của Thầy th́ mọi chuyện rất ổn thỏa. Tôi học ở Thầy nhiều
điều tuyệt vời mà tôi vẫn c̣n ghi nhớ măi. Một kỷ niệm rất thích thú là
tôi đến làm nội trú Khu Chấn Thương và Chỉnh Trực mới 3 tháng, một hôm một
ca mổ gảy kín xương đùi của Thầy, tôi phụ mổ 1 và nội trú Bùi Văn Đức phụ
mổ 2, Thầy trao dao cho tôi mổ và Thầy giúp tôi mổ. Thầy vừa giúp tôi mổ
và chỉ dẫn tôi từng chi tiết trong cuộc mổ. Từ đó tôi tin tưởng vào việc
làm của ḿnh.
Bắt đầu từ năm 1966, tôi thực sự là nội trú của Khu Chấn Thương và Chỉnh
Trực BV B́nh Dân. Làm việc trong Khu, tôi luôn theo sát bên Thầy, từ khám
bệnh tại Khoa pḥng, khám bệnh ngoài Pḥng khám Ngoại Chẩn, trong Pḥng Mổ
để học hỏi lề lối làm việc của Thầy. Trong khi mổ, Thầy đă dạy chúng tôi
về tầm quan trọng của sự không làm tổn thương của các mô, các cơ quan của
bệnh nhân trong khi mổ (phương pháp mổ vô thương) và luôn luôn cẩn thận
theo dơi thời kỳ hậu phẫu của bệnh nhân. Thầy luôn nhắc nhở sự vô trùng
tuyệt đối trong Pḥng Mổ Chấn Thương và Chỉnh Trực. Thầy mổ vừa nhanh, các
thao tác rất gọn gàng, vừa đẹp với một thái độ thật ung dung không vội vă.
Phẫu trường gần như không dính máu v́ thủ thuật mổ của Thầy rất khéo léo.
Trong Pḥng khám Ngoại Chẩn, gặp các bệnh nhân mổ tái khám, Thầy dạy
chúng tôi cái quan trọng của sự ǵn giữ các cơ trong lúc mổ đưa đến kết
quả là các vết mổ không bị dính. Qua sự học hỏi cách làm việc của Thầy nên
những bệnh nhân tôi mổ được theo dơi cẩn thận trong lúc ở thời kỳ hồi sức
hậu phẫu cho đến khi bệnh nhân ra viện, đến khi bệnh nhân trở lại tái khám
nhiều lần. Từ đó tôi có được thói quen làm việc và biết được kết quả của
việc ḿnh làm như thế nào để ngày càng tốt hơn. Càng về sau, tôi nhận thấy
sự tiến bộ trong việc học tập của ḿnh.
Gần gũi bên Thầy, tôi học được sự
thận trọng của việc phẫu thuật và học được ở Thầy triết lư sống của ngành
Khoa Học Y Học Nhân Bản.
Tôi làm sinh viên nội trú tại Khoa Chấn Thương và Chỉnh Trực của Thầy chỉ
được ba năm từ 1966 đến đầu năm 1969 tại BV B́nh Dân Sài G̣n.
Sau khi tốt nghiệp tôi phải đi ra làm việc tại Quân Y Viện Pleiku v́ tôi
là một quân y hiện dịch. Tôi cảm thấy luyến tiếc không được làm việc bên
Thầy để học hỏi thêm nhiều hơn nữa, không những về chuyên khoa Y Học của
Thầy mà c̣n học ở Thầy lề lối sống của một người Y sĩ Nhân Bản ở đời và
đối với người bệnh.
Ước mơ của Thầy “Tôi mơ về một nước Việt Nam ḥa b́nh, tân tiến trên nền
tảng của những giá trị tinh thần mà lịch sử đă nhồi vào nền văn hiến của
nước ta. Cả cuộc đời xă hội của tôi là để đóng góp vào sự ước mong ấy”.
Thầy luôn luôn cầu học ở các nền y khoa tiến bộ ở Pháp, ở Anh, Mỹ, nơi có
nhiều lănh vực y khoa hiện đại v́ những nơi có nền khoa học tiên tiến và
Thầy muốn đến tận nơi, thấy tận mắt để học hỏi. Thầy lo cho mai sau một
nước Việt Nam cùng sánh vai với các nước có nền khoa học kỹ thuật tiến bộ
trên thế giới. .
Thầy luôn có một “Ước vọng Duy tân cho Quốc gia Dân tộc, Trong bất cứ thời
đại nào, đó luôn luôn là ước vọng của những người tự khoác lên đôi vai
trách nhiệm và lương tâm của một kẻ sĩ “.
*
Đến “tháng 6 năm 1977, Thầy rời Việt Nam, xuống ghe sang Hoa Kỳ”. Tại Hoa
Kỳ, Thầy vẫn luôn nghĩ đến văn hóa Việt Nam và giảng dạy lớp Ngữ pháp Việt
ngữ tại Viện Việt Học. Thầy là Viện trưởng của Viện Việt Học tại Orange
County, California.