
Bọn trẻ đang chơi đùa ầm ĩ bỗng bỏ chạy khi có một đứa kêu lên:
kìa, bà chúa Hời, bay ơi!
Từ xa, một người đàn bà cao, gầy và thẳng như một cây gậy đang
gõ những bước như đếm trên con đường dẫn vào làng. Không cần nhỉn cách ăn
mặc gần như trùm kín từ đầu đến chân giống như tẩm liệm, người ta cũng dễ
nhận ra đây không phải là người trong làng và dưới mắt bọn trẻ, bà có vẻ
như một mụ phù thủy, nủa bí mật nham hiểm, nửa dại dại khờ khờ.
Khi bà đi ngang qua, đứa lớn nhất trong bọn bỗng túm áo một
một dứa đẩy về phía bà, bảo: con của bà đây, bà ơi! Đứa bé vừa sợ vừa mắc
cỡ liền quay lại đấm thùm thụp vào lưng đứa lớn khiến cả bọn lăn ra cười.
Bà cứ thản nhiên bước đi lưng vẫn thẳng, hông vẫn đong đưa và
hai tay đánh đàng xa như múa, trong khi chiếc nừng đặt trên đỉnh đầu không
vì thế mà nghiêng ngã hay xê xích một ly nào.
Bọn trẻ bắt chước đi theo một cách vụng về, hài hước. Chúng
vung tay, múa chân, lắc mông loạn xạ; nhưng chỉ được một lúc lại đâm ra
chán bỏ mặc bà đi một mình. Trời về chiều, càng lúc cái bóng bà lại càng
dài ra trông như một cây sào.
Bà chúa Hời, là tên gọi của lũ trẻ đặt cho bà, chứ thật ra
chẳng ai biết bà tên gì và cũng chẳng ai muốn biết. Trong những câu chuyện
xa xưa về xứ Đồ Bàn của lưu dân Bình Định, cái tiếng hời luôn gắn liền
với thư. Bụng bỗng đau như dao cắt hay phình to ra như cái trống, thế là
ai cũng bảo: thôi bị Hời nó thư rồi và sau đó thường kể vanh vách dù không
thấy, rằng thầy Hời đã lấy từ trong bụng ra cả một con dao sắc hay cục đá
to bằng cái bát!
Tuy vậy, cái tiếng hời cũng không khiến ai kinh sợ chi mấy.
Người ta nhắc tới cứ như một lời dỗ dành kiểu mẹ xin lỗi đã lỡ làm đau
con. Trong những câu hát ru bao giờ người ta cũng mở đầu và kết thúc bằng
hai tiếng hời hời chứ không phải à ơi.
Người đàn bà Chăm ấy, thôi thì cũng bắt chước bọn trẻ mà gọi
là bà chúa Hời, chẳng ai biết là bao nhiêu tuổi. Có thể là một trăm, mà
cũng có thể là một ngàn, bởi vì trông bà cứ như bước ra từ một thời cổ lai
xa lắc xa lơ nào đó. Cái khuôn mặt không bao giờ che chắn suốt ngần ấy năm
bị thời gian và mưa nắng quất những ngọn roi ngang dọc để lại những vết
nhăn sâu hoắm như khắc chạm trên đá. Lại thêm cái màu da cổ đồng, trông cứ
như một cái mặt nạ bằng đất nung, nung quá lửa đã biến thành sành. Đố ai
biết được che dấu dưới lớp đất nung ấy là niềm vui, nỗi buồn hay là một
nỗi hờn giận khôn nguôi.
Dưới mắt của những lưu dân mà ông cha họ trước kia là những kẻ
bị vua chúa lưu đày, người dân Hời nào cũng là cả một bí mật. Họ rụt rè,
ngần ngại, rất ít khi tiếp xúc chuyện trò. Có vẻ như một nỗi sợ mơ hồ vẫn
còn âm ỉ chảy trong máu mỗi người. Trước kia là sợ bị dân Hời đòi lại đất
đai ruộng vườn, giờ là sợ chạm đến nỗi đau mất cả quê hương của họ. Cho
nên, bà chúa Hời dẫu có đi từ sáng đến chiều, từ làng này sang làng nọ,
cũng chẳng một ai lên tiếng hạch hỏi kể cả tráng đinh hay hào lý.
Bà cứ đi như trong vườn nhà mình, phum sóc của chính mình. Cứ
đi như 500 hay 1000 năm trước. Cứ đi như thủa Chế Mân chưa dại gái mà dâng
nộp hai châu Ô Rí, như Chế Bồng Nga thủa còn dong thuyền ra tận thành
Thăng Long. Cứ đi như một con sông dài bất tận.
Cái dáng bà đi thanh mảnh lẻ loi nhưng vững chắc và không cô
độc. Như những ngọn tháp của dân tộc bà. Những ngọn tháp, 1000 hay 10000
năm nữa rồi cũng sẽ lại trở về với đất. Nhưng cái vết khắc của nó lên tấm
gương thời gian vô tận là bất diệt, cho dù dân tộc Hời còn hay mất.
Lúc này là đêm, bà đang ở trên đất Đồ Bàn. Cái kinh thành
tráng lệ với những ngựa những voi mà ngay cả móng chân cũng được bịt bằng
vàng, giờ hoang liêu cô tịch. Trên nền đất đỏ như máu, chỉ có thể sống nổi
những cây bàn chải mà mỗi chiếc lá đều biến thành gai nhọn để làm vũ khí
tự vệ, bà ngồi lặng yên, lắng nghe những âm thanh rộn rã của ngàn xưa vọng
về. Tiếng kêu lanh canh của những lục lạc nhỏ bằng vàng đeo trên tay và
chân, trên hông và háng của các vũ nữ. Không phải họ mua vui cho các ông
hoàng như người ta lầm tưởng mà họ đóng vai nữ thần Apsara múa lại những
điệu múa huyền bí. Cả thân mình họ: những tay đẹp như chuốt, những chân
bóng như đúc bằng sáp, những rốn sâu ngực cao, lúc thì mạnh mẽ như hạt mầm
bật ra khỏi lòng đất, lúc lai láng thơm tho như đồng lúa trổ, lúc quấn
quít như rắn đực rắn cái huê tình, những điệu múa tưởng phơi mở thực ra là
kín đáo trang nghiêm. Bởi vì, đó là cách thức Mẹ dạy cho con cách làm nhà,
cách trồng trọt, chế biến thức ăn và những cách thế yêu nhau để biết thế
nào là lạc thú của trần gian và để sinh con đẻ cái.
Rất lâu sau đó, bà úp hai bàn tay lên mặt rồi phủ phục trên
nền đất đã thấm ướt sương đêm. Trong khi các vì sao chuyển động lặng lẽ
trên cao, bà nghe như đâu đây vọng lại tiếng đập cánh của một loài chim
đêm. Tiếng đập mỗi lúc một nôn nao, mạnh mẽ, không phải tiếng đập của chim
cú hay chim vạc mà là của một con chim thần, bay từ cõi hồng hoang xa
thẳm, đưa các vị chúa Hời đang ngự trị trên đôi cánh rộng như hai cánh
buồm, về thăm lại cái vương quốc xa xưa. Bà ngẩng mặt trông lên, tưởng
chừng như thấy cả một áng mây che ngang trời: Đồ Bàn rực rỡ của bà bay vút
qua như một giấc mộng.
Giữa trái tim của cố đô tưởng chừng đã khô hết máu, bà đã nghe
ra những gì muốn nghe, đã thấy những gì muốn thấy. Bà yên lòng khép mắt,
ngủ một giấc dài cho đến khi những đứa trẻ chăn dê lùa bầy dê luôn miệng
kêu be be đi ngang qua đánh thức bà dậy. Vẫn giống như những đứa trẻ hôm
qua, chúng lại hét lên, kìa, bà chúa Hời, lần này lại có thêm một tiếng:
điên!
Giờ, đang là lúc mặt trời sắp lặn. Ánh sáng dữ dội hắt lên sau
lưng những ngọn tháp khiến những đường nét trở nên sắc cạnh, tưởng chừng
không phải do người mà do thần linh tạc vào nền trời. Người ta lại trông
thấy bà chúa Hời một mình, nhưng không phải trên những con đường đất mà
trên sông. Bà đứng trên một chiếc bè kết bằng thân chuối và tre, chắc do
bà tự làm lấy, cùng với một cây sào dài thỉnh thoảng rạp mình đẩy nó xuôi
theo dòng nước. Con sông mùa hạ, phẳng lặng và hiền như một cô con gái nhà
lành, chỉ để lại đôi nét nhăn mơ hồ trên vầng trán đẹp.
Đây là con sông chảy qua kinh thành Đồ Bàn, xuôi về đầm Thị
Nại. Con sông đã đưa Huyền Trân trốn thoát ra biển để về cố quốc và cũng
tưng bừng đón đoàn thuyền bách chiến của Chế Bồng Nga trở về.
Thọc sâu cây sào xuống nước, có lúc bà tưởng chừng đây là dòng
nước mắt của cả dân tộc. Cũng có lúc bà rùng mình tưởng là máu khi ánh
hoàng hôn đỏ áy trên mặt sông. Nhưng trong gió chiều, bà nghe như muôn
ngàn tiếng trống paranưng bập bùng, tiếng cồng chiêng chen lẫn với tiếng
voi gầm ngựa hí.
Chiếc bè sau một lúc lướt qua những nương bắp, ruộng dâu, dừng
lại dưới chân một ngọn đồi, trên đó sừng sững một ngọn tháp cô quạnh mà
cái bóng của nó như một khối ngọc khổng lồ đang ngâm mình trong nước.
Rất gọn và nhanh, bà đưa bè vào sát chân đồi, cắm sào để nó
khỏi trôi theo dòng nước rồi đặt chiếc nừng lên đầu, cổ và lưng vẫn thẳng,
thong thả bước lên cao. Vượt qua những đám cây thấp nhỏ, chẳng mấy chốc bà
đã đứng dưới chân tháp cao vòi vọi.
Ngôi tháp đồ sộ giống như một trái tim dựng ngược. Mặt trước
đã bị đục phá nham nhở, không phải do thời gian mà do người. Không ngạc
nhiên về điều đó, bà bình thản bước qua đống gạch đổ nát đi vào bên trong.
Lũ dơi nghe động bay ra đen kịt. Bà đứng yên, nhắm nghiền mắt đợi cho
chúng bay đi hết.
Giờ là lúc bà ngửa cổ trông lên. Trong lòng tháp sẫm màu, vút
lên cao, cái miệng tháp hình vuông sáng ngời như tráng bạc. Đây là nơi ánh
sáng giữa ngọ cắm thẳng giữa lòng tháp như một cây cột cao, là nơi ánh
trăng rằm nửa đêm rót xuống như thác. Và đây cũng chính là nơi các thần
linh sớm tối đi về.
Đêm nay là đêm rằm, bà phủ phục giữa lòng tháp đợi chờ giây
phút hiển linh.
Sự giao cảm giữa con dân Hời với nữ thần của tổ tiên là một bí
mật huyền nhiệm. Không ai được biết, ngay cả chính bản thân họ. Cứ như một
phút xuất thần, bước ra khỏi thế giới loài người hỗn loạn để bước vào thế
giới tĩnh lặng của thần linh. Chỉ một phút thôi nhưng đủ thay đổi cả một
số phận.
Nhiều hôm sau người ta thấy bà chúa Hời một mình bơi lội trên
sông. Một người đánh cá bảo rằng đã thấy bà nhiều lần lặn xuống rất lâu
như thể mò tìm một vật gì.
Chiếc bè vẫn cắm sào đợi chủ.
Cho đến khi chiếc bè tự rời ra từng mảnh, trôi đi. Lúc ấy
người ta nghĩ rằng bà đã chết. Nhưng con đập bằng lá phía dưới, một nơi
không để một thứ gì đi qua ngoài nước, vẫn không tìm thấy một chút gì có
thể gọi là khăn áo hay tóc tai của bà.
Mãi đến khi xây một cái đập đúc bằng xi măng, người ta mới tìm
thấy dưới đáy đập một phiến đá có khắc những chữ ngoằn ngoèo, tuy không
hiểu nói gì nhưng ai cũng tin đây là của người Hời. Phiến đá còn khắc một
bức hình tựa như một ngọn đồi bên sông, giữa có một đường rãnh như một cái
yoni nhưng không hẳn là yoni vì có một rãnh khác từ sông đi vào gặp đường
rãnh thẳng đứng.
Như thế, giữa lòng ngọn đồi hẳn là còn có một Đồ Bàn bí mật,
là nơi bà mẹ vĩ đại của dân tộc vẫn đang ngự trị, là nơi như có trái tim
vẫn đập không ngừng giữa lồng ngực. Biết là vậy, nhưng đố ai dám lặn xuống
tìm. Ai cũng sợ thư. Có chăng là bà chúa Hời mà lũ trẻ thường cười nhạo
kia. Chắc bà đang gục đầu vào lòng Mẹ mà khóc cho nguôi những nỗi niềm của
một dân tộc đã đánh mất và bị cướp mất gần như tất cả.
KHUẤT
ĐẨU
2/2015

