|

Mục
Lục
Trang
B́a
Ban
Biên Tập
Lá
Thư Xuân
Lê Thị
Đào
Sớ
Táo Quân
Lê
Thị
Mỹ
Châu
Câu
Đối Tết
Tư
Nguyên
& Vinh
Hồ
Tử
Vi
Tử
Vi Năm Giáp
Ngọ 2014
Phạm
Kế
Viêm
Vận
Hạn Năm Giáp
Ngọ 2014 Của Những
Người Tuổi Ngựa
Phạm
Kế
Viêm
Xuân
Giáp
Ngọ
Hoài
Tết
Ngọc Anh
Giao
Thừa
Hoài
Niệm
Đỗ Thị
Hương B́nh
Chúc
Tết - Được Lời
Liên
Khôi
Chương
Khai
Bút
Cù Hà
Xuân
Giáp
Ngọ
2014
Tứ Hải
Chào
Xuân
Giáp
Ngọ
2014
Nguyên Kim
Giáp
Ngọ
2014
Bạch Liên
Đầu
Xuân
Khai
Bút -
Chúc
Xuân
Lâm Ngọc
Đón Mừng Xuân
Nguyễn Thị
Thí
Chợ Dinh Ninh
Ḥa Trong Những
Ngày Gần Tết
Giáp Ngọ
Trần Anh
Tuyến
Tân Niên Cung
Chúc
Tiểu
Vũ
Vi
Năm
Ngọ
Nói
Chuyện
Ngựa
Năm Ngọ
Nói Chuyện Ngựa
Nguyễn
Chức
Tây Sơn Ngũ
Thần Mă
Quách
Giao
Năm
Giáp Ngọ Kể
Chuyện Xe Thổ
Mộ
Việt
Hải
Los
Angeles
Năm Ngọ Tản
Mạn Về Ngựa
Vinh
Hồ
Những
Huyền Thoại Ngựa
Vinh
Hồ
Con Ngựa Quê
Tôi
Nguyễn
Xuân
Hoàng
Tản
Mạn Năm
Giáp
Ngọ
Nguyễn
Văn
Thành
Tết Kể
Chuyện
Lịch
Loan
Anh
Cuộc
Viếng Thăm Gia
Đ́nh Anh Chị
Lê Phụng Chữ
- Nguyễn Thị Lộc
Lê
Ánh
Kư Ức Nơi
Góc Bếp
Lê
Thị
Mỹ
Châu
Qua Cầu T́nh
Xa
Liên
Khôi
Chương
Lo
Tết
Nguyễn
Hiền
Tết Kể Chuyện
Chơi Chim
Nguyễn
Hiền
Buổi
Tiệc
Cuối
Năm
Mai
Thị
Tuyết
Hồng
Mùa Xuân Trong
Tim
Bạch Liên
Những Mẩu Chuyện
Đêm Giao Thừa
Trần
Như
Phươmg
Con
Chó Lu
Phạm
Thị
Thục
Tết
Ninh Ḥa
Phạm
Thị
Thục
Bạn
Và Tôi
Hà
Thị
Thu
Thủy
Thơ
Xuân
Mơ Một Ngày
Mai
Liên
Khôi
Chương
Viết
Cho
Năm
Nhuần
Nguyễn
Hiền
Chúc
Mừng Năm Mới
Song
Hồ
Chùm
Thơ Haiku
Vinh
Hồ
Vịnh
Chiến Mă
Vinh
Hồ
Đón
Xuân
Giáp
Ngọ
Phan
Phước
Huy
Miên
Man Hồng
Nguyễn
Thị
Khánh
Minh
Nhớ
Xuân Nào?
Lê
Văn
Ngô
Xuân
Về
Bỏ
Ngọn
Sầu
Đông
Kim
Thành
XUÂN
Ca
Hát
Nhạc Xuân Và Quê
Hương
Lan
Đinh,
Lan
Hương,
Lư
Hổ
Lương
Lệ
Huyền
Chiêu,
Hà
Thị
Thu
Thủy
Cắm
Hoa
Trang
Trí
Nghệ
Thuật
Cắm
Hoa
Lê
Thị
Lộc
Hoa Xuân
Ngày
Tết
H́nh
Ảnh
Hoa
Xuân
Hải
Lộc
Tản
Mạn
Hoa
Xuân
Hoa Cúc Trong
Đời Sống Của
Con Người
Vơ
Hoàng
Nam
Mùa Xuân, Hoa
Và Con Người
Vơ
Hoàng
Nam
d_bb
Đ.H.K.H
Cung Nữ Triều
Tống
Đàm
Quang
Hưng
Thanh
Phong
Thi
Tập-171
Vũ
Tiến Phái
Phật
Bà Quan Âm
Lê
Phụng
Thanh
-
Tâm
Tài -
Nhân
Thi -
Tập
Tự
Nguyễn
Hữu
Quang
Alice Munro, Giải
NOBEL Văn Học
2013
Nguyễn
Đức Tường
Tử
Vi Năm Giáp
Ngọ 2014
Phạm
Kế
Viêm
Vận
Hạn Năm Giáp
Ngọ 2014 Của Những
Người Tuổi Ngựa
Phạm
Kế
Viêm
Biên
Khảo
Kinh
Tế
Việt
Nam
Tổng
Kết
T́nh
H́nh Kinh
Tế
Việt
Nam
Năm 2013
Nguyễn
Văn Thành
Hoa
Kỳ/Thế
Giới
Tổng
Kết
T́nh H́nh Kinh
Tế
Mỹ
Quốc &
Thế Giới Năm 2013
Nguyễn
Văn Thành
Sinh
Hoạt
Với
Câu
Lạc
Bộ
T́nh
Nghệ
Sĩ
Video
Clips / H́nh Ảnh Sinh Hoạt
Ninh-HoaDOTcom
Một
Chuyến Xuôi Nam
Cali Đầu Năm
2014
Trâm
Anh
Nhật
Kư
Tháng 9/2013
Trâm
Anh
Chuyến
Đi Orange County,
California
Lê
Ánh
Gặp
Gỡ Nha Sĩ
Cao
M.
Hưng
Lê
Ánh
Buổi
Ra Mắt
Sách "Thuở Phiêu
Bồng" Tại Nam
Cali 5/1/2014
Trần
Thị
Chất
Lời
Cảm Tạ Sau
Ngày Ra Mắt
Sách Thuở Phiêu
Bồng
Phạm
Thanh
Khâm
Tóm
Lược Sinh Hoạt
Trang Web Ninh-HoaDOTcom
Lê
Văn
Ngô
Văn
Hóa
Ẩm
Thực
Bếp
Đô Thị
Loan
Anh
Rượu
Chuối
Loan
Anh
Tản
Mạn Hương Vị
Quê
Nhà
Hoàng
Bích
Hà
Tản
Mạn Món Quê
Từ Bàn Tay
Mẹ
Hoàng
Bích
Hà
Nước Dừa Dâng
Trời
Bạch Liên
Cách Làm Dưa
Giá
Bắp Ḅ Kho
Gừng
Hà Thị
Thu Thủy
Sức
Khỏe
Bệnh
Suyễn
Bs Lê
Ánh
Thuốc
Ngừa
BCG
BS Nguyễn
Vĩ
Liệt
Du
Lịch
Las
Vegas,
Tour
Hội
Ngộ
Nguyễn
Thị
Lộc
Viết
về
ninh-hoa.com
Tôi
Thương
Trần
Thị
Chất
Mùa
Xuân
Kỷ
Niệm
Phan
Phước
Huy
Kỷ
Niệm
Về
Trường:
Trường
Minh
Văn
Ngày
Ấy
Mai
Thị
Hưng
Hồng
Hành
Tŕnh Đi Học
Trường Chu Văn
An
Phạm
Thanh
Khâm
Nhớ Xuân Trường
Xưa
Bạch Liên
Mùa
Tạ
Ơn
Năm 2013
Trần
Hà Thanh
Mùa
Xuân
Tản
Mạn
Về
Đặc
San
Hội
Ngộ
2007
Người
Xứ Vạn
Văn
Học
Nghệ
Thuật
Cho
Chữ
Ngày
Xuân -
Một
Nét
Văn
Hóa
Mục
Đồng
Một
Chút Thơ Văn
Năm Ngựa
Trần
Việt
Hải
Bắc Hành Tạp
Lục:
Bài Số:
38-39
Dương
Anh
Sơn
Họa Bài
Thơ: "
Sáng
Ngời
Tâm
Bút"
Lư
Hoàng
Oanh
Di
Lặc
Chơn
Di
Lặc
Trí Bửu
Nguyễn
Thừa
Đêm
Qua
Sân
Trước -
Một
Cành
Mai
Trí Bửu
Nguyễn
Thừa
Duyên
Dáng
Mùa
Xuân
Tiểu
Vũ
Vi
Thơ
Mùa
Xuân Này Có
Ai Về Qua
Đó
Loan
Anh
Thư
Pháp
Thu
Bốn
Ninh Ḥa Năm
Nào
Liên
Khôi
Chương
Tiếng
Xuân
Lê
Thị
Đào
Trái
Tim Tôi
Lê
Thị
Mộng
Điệp
Cổ
Thành Oanh Liệt
Thủy
Khánh
Điền
Chạm
Vào Mùa Xuân
Hoàng
Bích
Hà
Chờ
Lê
Thị
Ngọc
Hà
Về
Lại Trường Xưa
Lê
Thị
Ngọc
Hà
Mai
Tươi
Việt
Hải LA
Biển
Tím -Qua Biển
T́nh Sầu
Nguyễn
Thị
Phương
Hiền
Khúc
Miên
Trường
NGH(NH)
Nguyễn
Văn
Ḥa
Xuân
Ơi
Lư
Hổ
Mùa Xuân Trên
Non Cao
Nguyễn
Tường
Hoài
Câu
Chuyện
Đầu Năm
Phan
Phước
Huy
Nha
Trang
Biển
Hẹn
Trà
Kim
Huy
Tặng Ngoại Đóa
Mai Vàng
Cao
Minh
Hưng
Ngậm
Ngùi
Kư
Văng
Nam
Kha
Đuốc
Chân
Lư
Phạm
Văn
Khá
T́nh
Xuân-Xuân
Hạnh
Phúc
Hoàng
Công
Khiêm
Biển
Nha
Trang,
Mùa
Xuân
Và
Nỗi
Nhớ
Nguyễn
Thị
Lộc
Thấp
Thoáng
Xuân
Thạch
Lựu
Mai
Trắng
Nhất
Chi
Mai
Nụ
Trăng Đêm Trừ
Tịch
Nguyễn
Thị
Khánh
Minh
Mùa
Xuân Và Em
Vơ
Hoàng
Nam
Tôi Gặp Anh,
Người Lính Địa
Phương Quân
Lê
Thị
Hoài
Niệm
Mùa
Xuân Kỷ Niệm
Thụy
Nguyên
Xuân
Hoa Cảnh
Trương
Khắc
Nhượng
Xuân
Về -
Xa
Nhà
Lê
Văn
Phan
T́nh
Cuối
Lương
Lệ
Bích
San
Nha
Trang
Phố
Biển
Nguyễn
Đông
Sanh
Ngóng
Chờ
Mùa
Xuân
Mới
Dương
Anh
Sơn
Nghe
Mưa
Nhớ
Người
Kim
Thành
Xuân
ThiThi
Mừng
Xuân
Với
Nhất
Chi
Mai
Huỳnh
T́nh
Đào
Thắm
Hp-TnP
Thành
Kính
PHẬT
Đài
Nguyễn
Thị
Thanh
Trí
Tháng
Giêng
Anh
Đă
Thấy
Xuân
Về
Hay
Chưa
Tiểu
Vũ
Vi
Biển
Hẹn
Lê
Vũ
Văn
Từ Hăm Ba
Đă Nghe Ḷng
Nguyên Đán
Loan
Anh
Vẫn
C̣n Đó Mùa
Xuân Trong Tôi
Vân
Anh
Cuối Năm Sao
Mà Nhớ...
Lê
Thị
Mỹ
Châu
Thời
Gian
Tựa
Cánh
Chim
Bay
Lương
Lệ
Huyền
Chiêu
Những
Con
Đom
Đóm
Khuất
Đẩu
Đà
Nẵng Trong Tôi...
Lê
Thị
Mộng
Điệp
Khóm
Thiết
Mộc Lan
Quách
Giao
Con
Sông Tuổi Thơ
Hoàng
Bích
Hà
Chuyện Con Đốm
Nguyễn
Hiền
Giọng
Khổ
Nguyễn
Hiền
Những
Sân Ga
Nguyễn
Thị
Phương
Hiền
Hoài Niệm Xót
Xa
Nguyễn
Tường
Hoài
Cái
Đẹp Của Xuân
Lư
Hổ
Xuân
Ḷng
Phan
Phước
Huy
Nó...
Đinh
Thị
Lan
Gió
Xuân
Bạch Liên
Xuân Về Mang
Nỗi Nhớ Với
Suy Tư
Hải
Lộc
Mùa Xuân Và Ḍng
Thư Cũ
Hồ Thoại
Mỹ
Không
Khí
Trước
Tết
Của
Nhà
Tôi
Lê
Văn
Phan
Đừng Nên Phóng
Đại Nghịch Cảnh
Lê Văn
Quốc
Hoài Niệm - Kư
Ức Ninh Ḥa
Trần Đ́nh
Nguyên Soái
Cưng
Chồng
Mai
Thái
Vân
Thanh
Dă
Quỳ Ơi !
Tiểu
Thu
Mưa
Chiều Kỷ Niệm
Lư
Ṭng
Tôn
Tưởng
Niệm
Ngậm
Ngùi
Thương
Tiếc
Nguyễn
Văn
Thành
Vĩnh
Biệt Anh Sử
Xương Hải
Nguyễn
Thị
Thanh
Trí
Thư từ,
bài vở, h́nh ảnh hoặc
ư kiến xây dựng, xin liên lạc:

diem27thuy@yahoo.com

|

ài viết dưới đây là nội dung của cuộc phỏng vấn thực hiện bởi
Thanh Hà cho Tạp chí Văn hóa của Đài Phát thanh Quốc tế Pháp
(RFI), phát thanh vào ngày 31/12/2013.
Những năm gần đây, chiếu cao nhất trên văn đàn Canada được dành cho
hai nhà văn nữ nặng kư, Magaret Atwood và Alice Munro. Hàng năm, cứ
đến “mùa” Nobel là các tổ chức truyền thông Canada lại thi nhau tiên
đoán ai sẽ được giải Nobel văn học.
Ở một góc đài là Magaret, già nửa thế kỷ trong nghề cầm bút với trên
50 cuốn sách/truyện đă xuất bản và mỗi lần ra mắt sách là một sự
kiện
–
event;
góc bên kia là Alice, bà Hoàng truyện ngắn, cũng già nửa thế kỷ
trong nghề cầm bút nhưng có vẻ nhẹ kư hơn, chỉ mới có 14 tập truyện
đă xuất bản nhưng xuất hiện thường xuyên trên những tạp chí
như
The New Yorker, The Atlantic Monthly, The Paris Review...
và được nhà văn Mỹ
Jonathan Franzen
ca tụng hết ḿnh
trên The New York Times nhân dịp tập truyện Runaway của bà
được giải Giller 2004 lần thứ nh́, một giải văn học có hạng của
Canada, kêu gọi đồng bào nên đọc Munro.
Điều này có lẽ rất quan trọng v́ 10 năm trước, năm 1994, Munro xuất
bản Open Secrets, bà được đề nghị cho giải thưởng văn học uy
tín nhất của Canada lần thứ 5, Giải Toàn quyền Canada
(Governor General's Award); nhân dịp này, tạp chí
The Paris Review
cũng đă gửi hai phóng viên đến nhà bà ở Clinton để phỏng vấn cho một
bài viết về Nghệ thuật Hư cấu.
Lần này khác, ngày
10 tháng 10 vừa qua, Viện Hàn lâm Thụy Điển thông báo
Giải thưởng Văn học 2013 được trao về tay một nhà văn
của Canada, Alice Munro, “bậc
thầy của truyện ngắn hiện đại”!
Đây là lần đầu tiên giải văn học này vinh danh một nhà văn chỉ
viết truyện ngắn.
Alice Munro là nhà văn nữ thứ 13 và là người phụ nữ Canada đầu tiên
đă đoạt giải Nobel Văn học. Đúng ra, năm 1976
Saul Bellow,
một tác giả sinh đẻ ở
Lachine (Quebec), cũng đă đoạt giải Nobel,
nhưng v́ năm lên 9 tuổi, Bellow theo gia đ́nh sang Chicago rồi sau
đó lấy quốc tịch Hoa Kỳ, nên trước Alice Munro,
Canada vẫn chưa có ai được trao giải Nobel
Văn học.
Alice Munro, tên thật là Alice Ann Laidlaw, sinh ngày 10 tháng Bẩy
1931 tại Wingham, một thị trấn nhỏ miền tây-nam Ontario, Canada. Năm
1949, cô được học bổng hai năm tại Đại học Western Ontario, chuyên
về tiếng Anh và báo chí. Trong thời gian này cô cũng đồng thời phải
làm đủ mọi thứ nghề: hầu bàn, hái thuốc lá hay phụ việc thư viện, để
phụ thêm học bổng.
Năm 1951, cô rời đại học để kết hôn với James Munro, một sinh viên
cùng trường. Họ dọn nhà đi Vancouver, British Columbia, nơi James có
việc làm với Eaton, một nhà hàng bách hóa lớn. Năm 1963, hai vợ
chồng chuyển đến Victoria, mở tiệm sách Munro's Books. Tiệm sách
ngày nay vẫn c̣n hoạt động. Họ có bốn cô con gái, nhưng một người đă
qua đời sớm.
Alice và James ly dị vào năm 1972. Năm 1973 Munro trở lại Đại học
Western Ontario, bây giờ với tư cách một nhà văn nội trú. Năm 1976,
Alice kết hôn với Gerald Fremlin, một bạn cũ thời c̣n là sinh viên.
Hai vợ chồng dọn về Clinton, cách nhà thời thơ ấu của bà ở Wingham
chừng nửa giờ lái xe và ở đây, Fremlin đă qua đời năm 2013 ở tuổi
88.
“Dance
of the Happy Shades”
khúc quanh định mệnh
Munro có ư định viết văn từ năm 12 tuổi, nhưng xuất bản tương đối
muộn. Gần đây người ta phát hiện truyện ngắn đầu tiên, Kích thước
của một Chiếc Bóng, (The Dimensions of a Shadow), xuất bản năm
1950, đăng trong tạp chí đại học Folio, được tái bản năm 2011 trong
tạp chí Her Royal Majesty số 12. Đây là lần đầu tiên Munro ở
tuổi mười tám được phổ biến rộng răi. Kích thước của một Chiếc
Bóng kể chuyện một cô giáo mới nhậm chức trong thị trấn, cô đơn
đi bộ về nhà vào ngày cuối cùng của niên học, một ḿnh với trí tưởng
tượng và nỗi sợ hăi của ḿnh. Giọng văn đượm chút irony như
thể báo hiệu những ǵ sẽ đến trong tương lai.
Năm 1968, ở tuổi 37, Alice Munro xuất bản tập truyện đầu tay,
Dance of the Happy Shades
–
Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc.
Với tác phẩm này Munro đoạt
Giải Toàn quyền Canada,
giải thưởng văn học hàng năm quan trọng nhất; bà sẽ c̣n đoạt giải
này thêm hai lần nữa.
Dance of the Happy Shades
cũng là tên một truyện ngắn trong tập truyện, lấy từ tiêu đề của bản
dịch tiếng Anh của ba-lê/nhạc kịch
Orpheus & Eurydice
của Glück
khi được tŕnh diễn tại London lần đầu tiên. V́ liên hệ thần thoại
này, chữ
Shade
ở đây cũng có thể chỉ một bóng ma, một cơi u minh nào đó
– the Realm of the Shades.
Trong
thần thoại Hy Lạp, đây là một chuyện t́nh thương tâm; Orpheus là một
thi nhạc sĩ, tiếng nhạc của anh quyến rũ được thú hoang hay sỏi đá.
Orpheus đi cứu vợ, Eurydice, từ thế giới bên kia; Hades, vua của cơi
U Minh nhỏ lệ trước lời ca của Orpheus và cho Eurydice về dương thế,
nhưng v́ Orpheus phạm một lời nguyền nên vợ chết một lần nữa. Buồn
bă trở về, Orpheus chết dưới bàn tay của kẻ thù không bị cảm hóa bởi
âm nhạc thần thánh của ḿnh, đầu anh ta trôi ra biển vẫn không ngừng
ca hát. Trong vở nhạc kịch, Orpheus đau khổ, định tự tử, nhưng thần
T́nh yêu ngăn cản, cứu sống vợ để cho cả hai vợ chồng cùng về dương
thế, happy ending.
Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc
kể chuyện một bà giáo già độc thân và buổi độc tấu dương cầm hàng
năm của học tṛ của bà. Học tṛ của bà gồm ít nhất hai thế hệ, cô bé
kể chuyện và mẹ của cô. Bà giáo ngày càng già, đời sống vật chất của
bà ngày càng eo hẹp, chỉ có buổi độc tấu dương cầm là cố định, được
sửa soạn với cùng một quan tâm tỉ mỉ, vô tận và do đấy, vào buổi
chiều tháng Sáu nóng bức này, trở nên có vẻ như không bao giờ ngừng
cho những bà mẹ phải đi kèm con. Bà giáo hoàn toàn vô tư trước cảnh
những bà mẹ ngồi bồn chồn, chịu trận chờ cho đến hết.
Nhưng lần này khác, khi tưởng như đă xong th́ đột nhiên xuất hiện
một đám trẻ con cùng có một chút ǵ khác lạ, khiếm khuyết, chừng
mươi đứa, cũng là học tṛ của bà. Tài nghệ dương cầm của chúng trung
b́nh như mọi trẻ khác cho đến khi bà giới thiệu đứa trẻ cuối cùng,
một cô bé tóc bạch kim. Cô ngồi trước dương cầm, vụng về, đầu hơi
cúi xuống rồi tiếng nhạc của cô bắt đầu lơ lửng trong không gian,
bay qua cửa sổ ra ngoài đường phố mùa hè hừng hực nóng. Mọi người đă
quen với những buổi biểu diễn dương cầm như thế này nhưng không ai
chờ đợi được nghe âm nhạc. Có lẽ đến tận lúc cuối cùng của cuộc đời,
bà đă t́m được một người để dậy nhạc.
Dùng
Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc
làm tiêu đề của toàn tập truyện, chắc hẳn Munro không đơn thuần chỉ
chọn cái tên bắt mắt để bán sách mà phải rất đắc ư với câu chuyện.
Tôi đọc ở đâu đó, Munro nghiên cứu rất cẩn thận khi viết lách, liên
hệ giữa thần thoại Hy Lạp và bà giáo dương cầm già tất không phải
chuyện t́nh cờ. Và như vậy những ngụ ư, ẩn dụ, ám chỉ... có thể có,
nằm đâu đó trong truyện; xin để độc giả, qua thẩm định cá nhân, mỗi
người một cách vui thích làm cuộc thám hiểm cho riêng ḿnh.
Alice Munro
đă xuất bản tất cả 14 tập truyện; được
Giải Toàn quyền Canada
(Governor General's Award) 3 lần:
Dance of the Happy Shades
(1968),
Who Do You Think You Are?
(1978)
và
The Progress of Love
(1986);
Giải Giller
2 lần:
The Love of a Good Woman
(1998)
và
Runaway
(2004).
Năm 2009 Munro được
Giải thưởng Quốc tế Man Booker
(Man Booker International Prize) cho toàn bộ tác phẩm, rồi tất
nhiên, năm 2013,
Giải Nobel Văn học.
Văn phong chân thực, giản dị của Munro
Alice Munro được giải Nobel! Tất nhiên dân Canada vui mừng và hănh
diện, nhưng t́nh cảm này không nhất quán v́ cũng c̣n có người, chắc
đọc báo đâu đó, thấy b́nh luận và ảnh Munro ngồi trên đường xe lửa,
đă mỉa mai, nói Clinton là một thị trấn rất nhỏ, thời biểu xe lửa ai
cũng biết, chẳng riêng ǵ những người có tài sản tiếp giáp với đường
xe lửa như Munro, cái ảnh chẳng qua chỉ là trang b́a một cuốn sách
kỷ niệm về Canada in từ thập niên 70.
Đă từ lâu, Alice Munro trở thành một tác giả có tiếng tăm quốc tế
về các hư cấu ngắn, không c̣n bắt buộc phải viết cho thị trường
của các tác giả đang t́m cách đi lên ở trong nước. Đa số những độc
giả truyện ngắn khám phá ra hư cấu của Munro lần đầu tiên trong
các tạp chí bóng mượt của Hoa Kỳ như tờ The New Yorker và Atlantic
Monthly. Nhà xuất bản của Munro là Random House, trụ sở ở
Manhattan. V́ dân số Hoa Kỳ đông gấp mười lần dân số Canada tất
nhiên số độc giả cũng đông, nhưng cốt lơi, Munro vẫn là một tác
giả miệt vườn Canada.
Có một thời tôi sống ở vùng hồ Huron, một trong năm Đại Hồ của
Canada chụm lại với nhau, hồ bát ngát, gió thường tung sóng cao như
biển. Một căn nhà gạch đỏ gọn ghẽ ở cuối đường, đánh dấu ranh giới
của thị trấn, bên kia là cánh đồng chạy thoai thoải xuống sông
Maitland, có thể như căn nhà thời thơ ấu mà Munro đă tả, những cây
ngô đă khô xào xạc trong cơn gió nhẹ, đây đó thêm mấy hàng cây
phong. Lạ hơn là đôi khi giữa cánh đồng đột nhiên mọc lên một tiệm
ăn rất sang, French cuisine; có một tiệm ở bên cạnh suối
nước, có cả đập nước để sinh điện, điện c̣n thừa bán cho công ty
điện lực Ontario. Tôi thường đi thử những tiệm ăn này mỗi cuối tuần,
tôi hỏi mấy chốc họ vỡ nợ. Bạn đồng hành trả lời họ không trông đợi
ở ḿnh, họ chờ mấy fat cats có cottages ở dọc ven hồ.
Đó là xứ sở của Munro và cũng là sân chơi của những ông bự béo
hay béo bự, phần lớn đến từ Toronto, hơn hai giờ lái xe,
nhưng những người này không là mẫu cho nhân vật của Munro. Nhân vật
của Munro là những người b́nh thường của vùng này, ở quanh Wingham,
nơi Munro sinh ra và lớn lên, hay Clinton, nơi bà sống sau này. Ở
đây, khi ánh sáng và bóng tối bắt đầu trộn lẫn trên cánh đồng đă cầy
lên chờ mùa đông sắp đến, có thể họ lén lút làm t́nh trong các ruộng
ngô, hay là những con người hung dữ nóng nẩy chạy rượu lậu, cuộc
sống và hy vọng có thể bị nghiền nát trong khoảnh khắc một cuộc đối
thoại.
Mặc French cuisine hay Stratford Festival không xa,
hàng năm tŕnh diễn những vở kịch cổ điển hay đương đại, từ tháng Tư
đến tháng Mười, thu hút khách thập phương, bầu không khí trong
truyện ngắn của Munro luôn luôn là bầu không khí tỉnh lẻ nếu không
nói miệt vườn.
Văn phong của Munro chân thực, giản dị – như Wingham, nhưng rộn
ràng với những cảm xúc chính xác, đă được giảm nhẹ đi. Dẫu vậy,
nhiều khi hăy c̣n quá nhạy cảm cho một số người. Như truyện Giờ
Chết (The Time of Death).
Đến ba thế hệ của một gia đ́nh hăy c̣n hằn học với Munro chỉ v́
chuyện một ông chú của họ qua đời, bỏng nước sôi khi mới được 18
tháng, giống như đứa bé Benny trong truyện. Như đă nói ở trên, Munro
rất thận trọng làm nghiên cứu. Trong thư khố của tuần báo địa
phương, có đến hai trường hợp đứa bé bị chết bỏng nước sôi; câu
chuyện xẩy ra năm 1877 đăng trên tờ Huron Expositor giống truyện của
Munro một cách kỳ lạ. Tuy vậy, theo một sử gia địa phương,
“Khi
tôi đọc Alice Munro, tôi không thể đọc bà ta như những người khác,
tôi nh́n thấy rất nhiều Wingham ở trong đó, mặc dù tôi biết đó là
truyện hư cấu.”
Gần đây Alice Munro nói có ư định viết tiểu luận và đă viết một vài
bài, tôi có đọc một bài bà viết nhưng bây giờ không nhớ ở đâu, c̣n
lại tất cả các tác phẩm khác đều là truyện ngắn; vậy th́ tại sao
Munro được Giải Nobel? Câu trả lời dễ, gọn và an toàn nhất là Alice
Munro được giải Nobel là v́ bà là một
“bậc thầy của truyện ngắn hiện đại”
như
Viện Hàn lâm Thụy Điển đă tuyên dương. Rất
lương thiện,
tôi
cũng có thể nói đó cũng là quan điểm của tôi.
Munro viết về đời sống thôn dă vùng hạt Huron cùng những người sống
trong vùng: chính ḿnh, kinh nghiệm của ḿnh khi lớn lên, rồi gia
đ́nh và những người chung quanh. Thật sự, toàn là những người b́nh
thường, không có ǵ đặc sắc, sinh hoạt đời thường lặp đi lặp lại, tẻ
nhạt. Nhưng viết về con người b́nh thường trong hoàn cảnh b́nh
thường, sống đời sống b́nh thường không bao giờ dễ; chỉ dưới ng̣i
bút thần diệu của một nhà văn bực thầy ta mới có thể thấy được những
con người, hoàn cảnh hay đời sống đó không những có thể tin được mà
c̣n sống động một cách thần kỳ.
Đọc đi đọc lại vài truyện nhiều lần, tôi nhận thấy truyện của Munro
mở ra từ từ dễ dàng nhưng cấu trúc hết sức tinh tế và chính xác, một
cử chỉ nhỏ bất ngờ của nhân vật thường làm thay đổi sắc thái của cả
câu chuyện. Munro kể lúc ban đầu viết truyện ngắn chỉ là tạm thời,
sửa soạn cho truyện dài về sau. Rồi bà viết truyện dài, nhưng không
bao giờ vừa ư nên lại cắt ra thành những truyện ngắn. Nhưng những
truyện ngắn chừng mươi, mười lăm trang này chi tiết cô đọng như
những truyện dài 200 trang. Theo biên tập viên của bà ở The New
Yorker,
“Truyện
ngắn của Munro dường như rất đầy đủ, có tất cả các tính chất của một
cuốn tiểu thuyết.”
Và thêm,
“Bạn cắt một câu tưởng như thừa ở đầu truyện
để rồi về sau nhận ra câu đó là cần thiết.”
Người đi sau phải học người đi trước, nếu không ta sẽ tiếp tục phát
minh lại cái bánh xe và văn minh của nhân loại sẽ đứng yên một chỗ;
Munro tất nhiên phải học những nhà văn đi trước nhưng văn phong của
Munro có nét vẻ riêng của Munro. Có người nói Munro là
“Chekhov
của chúng tôi.”
Nhưng tại sao phải như vậy? Tại sao Munro không thể chỉ đơn thuần là
Munro?
“Boys and Girls” và thân phận
Một truyện của Munro mà tôi đặc biệt ưa thích là
Trai và Gái (Boys and Girls).
Văn viết uyển chuyển. Tâm lư sâu sắc. Diễn biến tế nhị.
“My
father was a fox farmer.”
Munro vào truyện, rơ ràng, chính xác, không những không che dấu
nguồn gốc khiêm nhượng, miệt vườn của ḿnh mà c̣n như có vẻ
ngạo mạn, thách đố.
Alice Munro thường dùng cái thế giới mà bà biết rơ nhất, miền
tây-nam Ontario, làm nền trong các tác phẩm.
Trai và Gái
là truyện xẩy ra ở vùng này trong đó
Munro kể lại những năm thơ ấu của ḿnh vào thời kỳ kinh tế suy
thoái.
Một gia đ́nh
sống trong một trang trại nuôi cáo, gồm cha làm nghề nuôi cáo, mẹ
nội trợ và hai chị em, cô chị 11 tuổi là người kể chuyện. Truyện tả
sự trưởng thành của hai chị em, nhất là cô chị, với tất cả những bối
rối gai góc của nó. Hai chị em thường phụ giúp cha, thằng bé em lóng
ngóng làm việc lặt vặt nơi chuồng cáo, c̣n cô là người quán xuyến
hết mọi việc.
Cô cảm thấy vai tṛ của ḿnh trong trang trại được đảm bảo; cha cô
có lần nói chuyện với khách, chỉ cô giới thiệu,
“Tay
đàn ông phụ việc tôi mới thuê,”
khiến cô đỏ mặt v́ vui sướng.
Như một bản nhạc gồm hai giọng chạy theo nhau, quyện lấy nhau.
Hai cuộc đời triển khai theo nhịp sống của trang trại; phụ giúp cha
trông nom, cho cáo ăn uống rồi giết cáo để lấy da. Cuộc đời tưởng
như không có ǵ thay đổi, nhưng mùa đông này cô nhận ra rằng mẹ cô
không muốn cô cả ngày lúi húi dưới chuồng cáo mà muốn cô giúp bà với
việc trong nhà.
Một trong những nét nổi bật nhất của câu chuyện là sự tương phản gợi
ra bởi ư tưởng
“cậu
bé”
và “cô gái”,
luôn luôn phản ảnh trong mọi khía cạnh của thế giới người kể chuyện.
Truyện
tiếp tục kể chi tiết về thời gian trong cuộc sống của cô khi cô qua
khỏi thời thơ ấu, bỏ lại đằng sau sự tự do, nhận ra rằng ḿnh là một
“cô gái” và cuối cùng, một phụ nữ. Đứa trẻ bắt đầu hiểu rơ phân loại
xă hội đ̣i hỏi những tác động nghiêm trọng. Do đó trở thành một “cô
gái” trên đường đến phái nữ là một thời gian đầy khó khăn cho nhân
vật chính bởi v́ cô quan niệm phụ nữ thuộc giai cấp thấp hơn (“đỏ
mặt v́ vui sướng”
chỉ v́ được bố gọi là tay
đàn ông).
Ban đầu, cô cố gắng chống lại nỗ lực của cha mẹ cố đào tạo cho cô
những sở thích, thói quen, hành vi và công việc của một phụ nữ. Tuy
nhiên, kháng cự này vô ích. Cô gái kết thúc câu chuyện rơ ràng là xă
hội đă dành riêng một chỗ đứng cho cô, một cô gái; một cái ǵ đó làm
cô lo sợ, ngại ngùng.
Mặc dù Munro không là người quan tâm đến nữ quyền một cách rơ ràng
và thuyết phục, câu chuyện có thể được xem như một dụ ngôn, chứng
minh hùng hồn công việc người phụ nữ cần làm để thay đổi vị trí xă
hội của họ.
Cuộc đời trôi đi, cho đến một hôm cô biết cha cô có ư định giết một
con ngựa để nuôi cáo; không suy tính trước, cô thả con ngựa. Đây
cũng là lần đầu tiên trong đời cô không vâng lời cha, không những
không đóng cửa trang trại mà c̣n mở rộng cho ngựa chạy ra. Thằng bé
em đi theo bố suốt buổi để đuổi bắt rồi giết ngựa, trở về, quần áo
dính máu, nó đă nghiễm nhiên chiếm chỗ của cô; không những thế nó
c̣n mách lẻo với bố là cô đă giúp cho ngựa chạy.
Cô không ngạc nhiên về việc bố bắt lại được con ngựa nhưng ngạc
nhiên thấy ông không tức giận và không trừng phạt cô; như cam chịu,
đôi chút cởi mở, ông nói, “Nó chỉ là một cô gái.” Ngạc nhiên hơn nữa
là phản ứng của cô gái trước câu nói của bố: “Tôi không phản đối
điều đó, ngay tự trong thâm tâm tôi. Có lẽ điều đó là đúng thật.”
Bữa cơm gia đ́nh tối hôm đó là một bức tranh đẹp tuyệt vời.
“I didn’t protest that, even in my heart. Maybe it was true.”
Chấm hết, một ngày không tốt mấy cho nữ quyền.
Bài phỏng vấn của Thanh Hà có thể t́m thấy ở địa chỉ:
http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20131231-nu-hoang-truyen-ngan-alice-munro

NGUYỄN ĐỨC TƯỜNG

|



|
|