hững trang sau đây đối chiếu truyện thơ Quán Âm Thị Kính, một
truyện thơ rất quen thuộc trong đông đảo người Việt Nam, với kinh
sách cùng những truyện cổ tích truyền kỳ mang mầu Thiền về Bồ Tát
Quán Thế Âm, của chung những dân tộc vùng Đông Á như Trung Quốc,
Nhật Bản và Đại Hàn.
Trước tiên là Phật danh Quán Thế Âm, đọc tắt là Quán Âm, người Trung
Quốc phiên âm thành Kuan Yin, người Nhật Bản đọc là Kwannon hay
Kannon. Quán Âm là vị Bồ Tát, đă đạt tới mức nghe bằøng mắt nh́n
bằng tai, ngài lắng nghe người thế đắm ch́m trong biển khổ niệm tên
ngài mà đến tế độ. Trong sách Phật học, Bồ Tát danh này đă từ lâu là
một đề tài tranh biện. Theo Đường Huyền Trang (602-664) người từng
từ Trung Quốc băng qua sa mạc sang Tây Trúc thỉnh kinh th́ Phật danh
đó là một lầm lỗi dịch thuật, đúng ra phải đọc là Quán Tự Tại, dịch
nghĩa chữ Phạn Avalokitesvara. Quán Tự Tại là danh hiệu của một vị
bồ tát được nhắc tới trong câu đầu của bản Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm
Kinh, bản dịch chữ Hán của Đường Huyền Trang gồm 262 chữ. Bát Nhă Ba
La Mật Đa Tâm Kinh là bài giảng cho ngài Xá Lợi Phất về kết quả thực
hành Bát Nhă Ba La Mật Đa của Bồ Tát Quán Tự Tại. Kinh gồm một chuỗi
phủ quyết rồi kết thúc bằng một câu vô đẳng chú. Bản dịch tiếng Việt
Nam của Tuệ Sĩ bắt đầu bằng câu:
Khi Bồ Tát Quán Tự Tại thực hành Bát Nhă Ba La Mật sâu xa, soi thấy
rằng có năm uẩn, và thấy rằng năm uẩn đó không có tự tánh trong
chúng.
và tận cùng bằng câu thần chú:
yết đế, yết đế,ba la yết đế ba la tăng yết đề, bồ đề tát bà ha.
Tuệ Sỹ dịch là:
Này Bodhi, đi qua, đi qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia, Svàha.
Đó là một bản kinh không những tín đồ Chân Tông nhận làm tâm kinh mà
giới Thiền giả cũng hàng ngày tụng đọc.
Đoạn kinh Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh trên soi sáng danh hiệu bồ
Tát Quán Thế Âm. Thiền sư Phạn Kỳ viết:
Bằng tâm không dấy, tất cả lục quan không động, h́nh thanh chẳng c̣n
là h́nh thanh.
Huệ Hồng theo đó viết:
Theo kinh Pháp Hoa, Quán Thế Âm Bồ Tát [...] xem xét tiếng [niệm
danh ngài] tức thời mọi chúng sinh [niệm danh ngài] đều đượïc giải
thoát, là bởi Bồ Tát Quán Thế Âm nh́n thấy tiếng niệm danh và nói
với chúng sinh bằng mắt.
Trong tiếng Việt Nam, sáu chữ: xem, nghe, nếm, ngưỉ, sờ và nghĩ, sáu
chữ nối con người với thế giới bên ngoài đều kèm theo chữ xem, hay
quán theo chữ Hán, thành sáu chữ kép: xem xem, nghe xem, nếm xem, sờ
xem và nghĩ xem.
Phải chăng v́ vậy, cao đồ Qúy Kư (632-683) của Đường Huyền Tăng,
dịch giả bài kinh Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh, từ tiếng Phạn sang
tiếng Trung Quốc, dịch Bồ Đề danh Quán Tự Tại là Quán Âm?
Đằêng khác, theo Trừng Quán (738-839) th́ hai Bồ Đề danh Quán Thế Âm
và Quán Tự Tại viết theo chữ Phạn là hai chữ khác nhau. Gần đây, năm
1927, trong một bản viết tay trên lá bối, mà giới nghiên cứu cho là
viết từ thế kỷ thứ 5, người đọc t́m thấy năm lần Bồ Đề danh
Avalokitasvra, dịch là Quán Âm. Giả thiết có lầm lỗi trong việc sao
chép như vậy đă không c̣n đứng vững, và N.D. Mironov trong bài
Buddhist Misscellanea, Journal of the Royal Asiatic Society sốâ
tháng Avril 1927, kết luận là Quán Thế Âm hay Avalokitasvara là chữ
Phạn nguyên thủy, sau đó mới viết thành Avalokitesvara hay Quán Tự
Tại.
Trên một hướng khác, xét theo thời gian, bộ kinh được coi là ấn tống
sớm nhất trong đó giới học Phật t́m thấy Bồ Đề danh Quán Âm là bộ
Thành Chân Quang Minh Định Ư Kinh, ấn tống từ năm 185.
H́nh tượng Bồ Tát Quán Âm, thờ tại các chùa lớn nhỏ, cũng có nhiều
điểm đáng lưu ư. Riêng một cuốn The Buddha Scroll, đầu đề chữ Hán là
Pháp Giới Nguyên Lưu Đồ, do Thomas Cleary giới thiệu, nhà sách
Shambhala, Boston & London phát hành năm 2000, gồm 96 bức họa h́nh
tượng Phật, trong có muời lăm bức ảnh Bồ Tát Quán Âm khác nhau. Cuốn
tranh này hoàn tất năm 1767 dưói triều vua Càn Long nhà Thanh, vẽ
lại theo một bộ tranh Phật của nước Đại Lư, một nưóc nhỏ trong thời
Nam Triều (738-902) thuộc địa phận tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ngày
nay.
Trong số 15 bức ảnh tượng đó có ba bức Cô Tuyệt Hải Ngạn Sơn Quán
Thế Âm, Phạn Tăng Quán Thế Âm và Lục Tư Quán Thế Âm là h́nh tượng
Phật ông, mười hai bức kia đều là h́nh tượng Phật bà. Câu truyện
Phật Quán Âm là Phật ông hay Phật bà cũng là một câu hỏi lớn trong
giới học Phật. Dựa vào các h́nh tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, nhiều nhà
nghiên cứu cho là nguyên thủy tượng Bồ Đề Quán Âm đều là những bức
tượng Phật ông, tại Ấn Độ, Tây Tạng cùng tại nhiều nơi khác trong
cơi Đông Nam A,Ù cũng như tại Trung Quốc trước đời nhà Đường
(618-907) t́m thấy trong những động Phật tại Đôn Hoàng. Tại Tích
Lan, Cao Miên và Tây Tạng, ảnh tượng Bồ Tát Avalokitesvara ngày nay
đều là h́nh tượng Phật ông. Tới cuối nhà Đường, sang đầu nhà Tống
ảnh tượng Bồ Đề Quan Âm Trung Quốc mới bắt đầu đổi thành những h́nh
tượng Phật bà.
Theo rơi sự biến đổi h́nh tượng Bồ Đề Quán Âm, giới Phật học nh́n
ra sự biến đổâi của Phật Giáo trong thời kỳ truyền bá từ Tây Trúc
qua vùng bờ biển Thái B́nh Dương, đặêc biệt là địa vị của tín nữ
trong việc thành đạo. Gần đây, năm 1930 I.B. Horner xuất bản cuốn
Women under Primitive Buddhism, do nhà Routledge & Kean Paul tại
London phát hành, rồi tới năm 1980, Diana Mary Paul xuất bản cuốn
Women in Buddhism do nhà Lancaster-Miller Publishers tại Berkley
phát hành. Mục đích của cả hai cuốn sách là nghiên cứu về hoàn cảnh
của người phụ nữ đă xuất gia hay c̣n tại gia phải chịu đựng trong xă
hội Phật giáo Ấn Độ. Kết quả công cuộc nghiên cứu này cho thấy là
thủa đức Phật Thích Ca c̣n hành đạo, th́ cả nam và nữ phái cùng có
thể thành đạo. Tiêùp đó là thời kỳ Phật Giáo chia rẽ thành trong
ngoài hai mươi giáo phái, th́ phái nữ vô phương thành đạo, chỉ có
phái nam mới có hy vọng thành Phật. Phải tới đầu kỷ nguyên, qua huệ
nhăn Bát Nhă Ba La Mật Đa, với chủ thuyết không tách biệt không phân
biệt, coi tất cả là Không, người tín nữ mới lại có hy vọng thành đạo
như người thiện nam.
Đằng khác, Suzuki viết trong Thiền Luận, bản dịch của Trúc Thiên,
tập thượng, tr. 116 bản phóng ảnh của cơ sở xuất bản Đại Nam,
California:
Nét đặc thù là vai tṛ của phái nữ được đề cao ở nhiều trựng hợp
khác nhau. Không những các bà có đủ biện tài trí huệ, mà c̣n đứng
ngang hàng với phái nam. Trong số năm mươi ba vị triết gia hoặc đạo
trưởng mà Thiện Tài Đồng tử đến tham vấn, trên đường hành cước, có
nhiều cô nhiều bà sống trong những điều kiện mưu sinh khác nhau,
trong đó có cả gái giang hồ, người nào cũng biện luận đầy minh triết
với vị đồng tử chí tâm cầu đạo. Thật khác hẳn ngày nào phụ nữ chỉ
được miễn cưỡng nhận vào hội tăng già.
Trích dẫn trên cho thấy Suzuki chỉ nói tới hoàn cảnh tín nữ Trung
Quốc khi bộâ kinh Bát Nhă Ba La Mật Đa đă phổ cập sâu rộng trong
đông đảo tín chúng.
Tiến tŕnh này phản ánh qua một số kinh thựng tụng niệm. Kinh
Trường A Hàm, quyển 4, phần 1, kinh Du Hành thứ 2, đoạn 3, bản dịch
của tỳ kheo Thích Thiện Siêu, Phật học Viện Quốc Tế xuất bản năm
1986, có đoạn:
A Nan bạch Phật,
- Sau khi Phật diệt độ, có kẻ đàn bà con gái đến thụ giáo th́ làm
sao?
Phật dậy:
- Chớ cho gặp.
- Giả sử phải gặp th́ sao?
- Chớ cùng nói chuyện.
- Giả thử phải cùng nói chuyện th́ sao?
- Hăy lo nhiếp tâm ư.
Trong lời tựa, tỳ kheo Thích Thiện Siêu cho biết là kinh A Hàm ít
phổ cập trong các nước theo Đại Thừa và phản ảnh trung thực t́nh
trạng xă hội đương thời tại Ấn Độ. Đoạn kinh trích dẫn chứng tỏ rằng
đương thời người nữ gặp khó khăn ngay từ việc gia nhập giáo hội.
Kinh Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa, phẩm Hằng Già Đề Ba, do tỳ kheo
Thích Trí Tịnh dịch sang tiếng Việt Nam từ bản dịch chữ Hán, chùa
Khánh Anh phát hành, có đoạn sau:
Bấy giờ trong đại chúng có một nữ nhân tên Hằng Già Đề Bà từ chỗ
ngồi đứng dậy trịch áo vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay bạch
Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Tôi sẽ hành sáu ba la
mật để tịnh Phật quốc độ đúng như lời dậy của đức Phật trong Bát Nhă
Ba La Mật. [...]
Khi đó đức Phật biết rơ thâm tâm của nữ nhân nên liền mỉm cười, đúng
như cách thức của chư Phật[...]
Ngài A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy qùy gối hữu chấp tay thưa:
- Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên ǵ mà đức Phật mỉm cười? Theo pháp
của chư Phật không bao giờ vô cớ mà cười.
Đức Phật phán:
- Này A Nan! Hằng Già Để Bà này sẽ thành Phật ở đời vị lai trong
kiếp tinh tú, hiệu là Kim Hoa Phật. Này A Nan! Nữ nhân này sau khi
chết sẽ thọ thân nam tử sanh về nước Diệu Hỹ của đức Phật A Súc. Ở
nước Diệu Hỷ đó tu phạm hạnh thanh tịnh.
Đoạn trích dẫn trên cho thấy rằng thời đức Phật
truyền đạo, nữ nhân đă có mặt trong hàng giáo chúng, nhưng muốn được
thành chánh quả phải qua một kiếp thọ thân nam tử. Điều này c̣n thấy
trong kinh Pháp Hoa, quyển IV, phẩm XII, Đề Bà Đạt Đa. Kinh chép
trong đoạn 7, tỳ kheo Thích Trí Tịnh dịch sang tiếng Việt Nam, Chùa
Khánh Anh phát hành:
Bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất nói với Long Nữ [con gái của Long Vương]
rằng:
- Ngươi nói không bao lâu chứng được đạo vô thượng, việc đó khó tin.
V́ sao? V́ thân gái nhơ uế chẳng phải là pháp khí, thế nào có thể
thành vô thượng Chính giác? Đạo Phật xa rộng phải trải qua vô lượng
kiếp cần khổ chứa nhóm công hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành
được. Lại thân gái c̣n có năm điều chướng: một chẳng được làm Phạn
Thiên Vương, hai chẳng đươc làm Đế Thích; ba chẳng được làm Ma
Vương; bốn chẳng được làm Chuyển Luân Thánh Vương; năm chẳng được
làm Phật. Thế nào thân gái được mau thành Phật?
Lúc đó Long Nữ có một hột châu báu giá trị bằng cơi tam thiên đại
thiên đem dâng đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long Nữ nói với Trí
Tích Bồ Tát cùng tôn giả Xá Lợi Phất rằng:
- Tôi hiến châu báu, đức Thế Tôn nạp thọ việc đó có mau chăng?
- Rất mau
Long Nữ nói:
- Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó.
Đang lúc đó cả chúng hội đều thấy Long Nữ thoạt nhiên biến thành nam
tử, đủ hạnh bồ tát, liền qua cơi Vô Cấu ở phương Nam, ngồi ṭa sen
báu thành bậc Đẳng chính giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi món
đẹp, khắp v́ tất cả chúng sinh trong mười phương mà diễn nói pháp
mầu.
Theo khuynh hướng Phật Giáo Đại Thừa, vượt ra khỏi tu viện, thơng
tay vào chợ đời, phổ hiện lư Giác Ngộ trong đại chúng, không nhất
thiết phải ĺa bỏ gia đ́nh, theo đoàn khất sĩ mới cầu được Chánh
Giác. Tâm thanh tịnh là điều cần cho cuộc sống đạo không cần xuất
gia tín mộ. V́ thế cư sĩ chẳng khác ǵ tu sĩ. Tiêu biểu cho nếp sống
đó là Duy Ma Cật, tác giả bộ kinh Duy Ma Cật. H́nh ảnh Long Nữ,
người tín nữ, trong đoạn kinh Pháp Hoa trích dẫn trên đây, vớiù tư
tưỏng thâm diệu, quảng đại và tinh tế cùng một tài hùng biện hiếm
có, biến hóa trên đường thành Chánh Giác thấy rơ trong đoạn sau,
trích từ phẩm Quán Chúng Sinh, kinh Duy Ma Cật, bản dịch của tỳ kheo
Thích Huệ Năng, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản năm 1999:
Bấy giờ trong nhà ông Duy Ma Cật có một Thiên Nữ thấy các vị Trời,
Người đến nghe pháp, liền hiện thân ra tung răi hoa trên ḿnh các vị
bồ tát và đại đệ tử khi hoa đến ḿnh các vị bồ tát đều rơi hết, c̣n
đến ḿnh các đại đệ tử đều mắc lại. Các vị đại dệ tử dùng hết thần
lực phủi hoa mà hoa cũng không rớt. Lúc ầy Thiên Nữ hỏi ngài Xá Lợi
Phất:
- Tự sao mà phủi hoa?
- Hoa này không như pháp nên phủi.
Thiên Nữ nói:
- Chớ bảo hoa này không như pháp. Hoa này nó không có phân biệt, tự
Nhân giả phân biệt đó mà thôi! Nếu ngựi xuất gia ở trong Phật pháp
có phân biệt là không như pháp, nếu không phân biệt là như pháp. Đấy
xem các vị bồ tát hoa có dính đâu? V́ các vị bồ tát đoạn hết tưởng
phân biệt. [...] Ngài Xá Lợi Phất nói:
- V́ sao ngươi không chuyển thân nữ kia đi?
Thiên Nữ nói:
- Mười hai năm nay tôi kiếm măi cái tướùng nữ nhân mà không thể
đặng, phải chuyên đổi cái ǵ? Ví như nhà huyễn thật hoá phép sinh ra
một ngựi huyễn nữ, nếu có kẻ hỏi rằng sao không chuyễn thân nữ đó
đi? Vậy th́ người hỏi đó có đúng chă kẻ
Ngài Xá Lợi Phất nói:
- Không đúng! Huyển hóa không có tướng nhất định c̣n phải chuyển đổi
ǵ nữa.
Thiên Nữ nói:
- Tất cả các pháp cũng như thế, không có tướng nhất định, Tại sao
lại hỏi sao không chuyển thân nữ.
Tức thời Thiên Nữ dùng sức thần thông biến ngài Xá Lợi Phất thành ra
Thiên Nữ và tự hoá ḿnh thành ra giống ngài Xá Lợi Phất, mà hỏi
rằng:
- Tại sao ngài không chuyển thân nữ đi?
Mang h́nh tượng Thiên Nữ, ngài Xá Lợi Phất đáp rằng:
- Ta nay không biết làm sao biến thành thân đàn bà này?
Thiên Nữ nói:
- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu ngài chuyển được thân đàn bà đó thời
tất cả người nữ cũng sẽ chuyển được . Như ngài Xá Lợi Phất không
phải người nữ mà hiện thân nữ, thời tất cả người nữ cũng như thế,
tuy là thân nữ mà không phải là người nữ đâu. V́ thế, Phật nói: tất
cả các pháp không
phải đàn ông không phải đàn bà.
Bấy giờ Thiên Nữ thu nhiếp thần lực, thân ngài Xá Lợi Phất trở lại
như cũ. Thiên Nữ hỏi ngài Xá Lợi Phất:
- Tướng đàn bà bây giở ở đâu?
Ngài Xá Lợi Phất đáp:
- Tướng đàn bà không ở một nơi đâu mà ở tất cả mọi chốn.
Đoạn kinh Duy Ma cật trích dẫn trên cho thấy hai điểm dưói đây:
Một là dưới mắt ngài Xá Lợi Phất, người nữ muốn thành Phật trước đó
phải biến thành người nam. Giới nghiên cứu đào sâu vấn đế này và
thấy rắng tại Trung Hoa cũng như tại Nhật Bản, cho tới thế kỷ thứ
XIX, người nữ bị trói buộc bởi ngũ ám tam ṭng. Tam ṭng trong giới
Phật tử Đông Á giống hễt như tam ṭng theo sách Lễ Kư và sách Khổng
Tử Gia Ngữ: tại gia ṭng phụ, xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử. Chữ
tam ṭng này giới nghiên cứu t́m thấy trong bộ Ngọc Nữ Kinh, một bộ
kinh dịch từ bản gốc chữ Phạn. Như vậy nề nếp tam ṭng cũng thịnh
hành tại Ấn Độ. Ngũ Chưóng, theo lời Xá Lợi Phất dậy trong phẩm Phổ
Môn, kinh Pháp Hoa, gồm có: Phật, Duyên Giác, Thanh Văn, Phạm Vương,
và Đế Thích. Giới Phật học giải thích lư do người tín nữ không thể
tu thành một trong năm thân tướùng này, nếu không hóa thân thành
người thiện nam, là bởi lẽ cả năm h́nh tượng nêu ra đều là h́nh
tượng nam tử. Riêng h́nh tượng Phật gồm ba mươi hai tướng tốt đẹp,
trong số đó có âm mă tàng tướng, mà tỳ kheo Thích Huệ Hưng trong lời
chú kinh Duy Ma Cật dịch là nam căn ẩn kín, một tướng chỉ riêng
thuộc phái nam.
Đằng khác, điều người tín nữ trên đường thành chánh quả phải biến
đổi thành thiện nam cũng c̣n chép trong kinh Vô Lượng Thọ, trong lời
nguyện thứ 35 trong số 48 điều nguyện của Phật A Di Đà, theo bản
dịch của tỳ kheo Thích Đức Niệm và cư sĩ Minh Chánh Phật Học Viện
Quốc Tế xuất bản năm 1998, như sau:
Khi con thành Phật, nước con không có phụ nữ. Nếu có nữ nhân nào
nghe danh hiệu con, thanh tịnh tin tưởng, phát tâm bồ đề, chán ghét
nữ thân, mạng chung liền hóa thân nam tử sanh về nưóc con. Các loại
chúng sanh ở mườùi phương, sanh về nước con đều hóa sanh trong hoa
sen thất bảo. Nếu không được như thế, nguyện không thành Chánh Giác.
Hai là theo kinh Duy Ma Cật, mượn lời Thiên Nữ, tất cả đều không có
h́nh tướng nhất định, theo chữ Không trong ḍng tư tưởng Bát Nhă,
như đức Thế Tôn dậy trong phẩm Phật Mẫu, mà Suzuki tóm tắêt trong
cuốn Thiền Luận tập hạ, và Tuệ Sị dịch, ấn quán Thăng Long xuất bản
năm 1973 tại Saigon, như sau:
[...] tịnh hay bất tịnh, nhiếp tâm hay loạn tâm, nhiễm tâm hay ly
nhiễm tâm, tất cả đều không tự tánh, không thủ trước, không phân
biệt. Đấy được coi là nh́n vạn hữu trong chân như tướng của chúng,
trong đó mọi sai biệt tan biến hết, đồng thời tự hiển lộ tự thân như
thực trong ánh sáng của trí Bát Nhă.
Dưới ánh sáng của trí Bát Nhă, trong kinh phẩm
Đại Phương Tiện, kinh Bát Nhă Ba La Mật,
có lời Phật dậy:
Này Tu Bồ Đề! Như những loài chim nhiều mầu sắc, đến kế bên núi Tu
Di th́ đều đồng một mầu.
Giới nghiên cứu phật học đồng ư rằng, trong ánh sáng Bát Nhă, chúng
sinh cũng không tự tánh, là thân nữ hay là thân nam về tới nước Phật
hẳn cũng như đàn chim về tới núi Tu Di, thẩy cũng là một, thế nên
người nữ đâu c̣n cần chuyển thân thành người nam trước khi thành
chánh quả.
Thế nên, phải chăng trong ánh sáng Bát nhă đó người con Phật Á Đông
đă chuyển biến h́nh tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, dũng mănh trượng phu
thành h́nh tượng đức Phật bà Quan Âm từ bi hỉ xả? Phải chăng qua
h́nh tượng Phật Bà Quán Âm người Đông Á khác người Ấn Độ, tin rằng
nguời nữ không cần phải hoá thân thành người nam để trở thành đạo.
Người đọc kinh sách Phật học c̣n thấy h́nh ảnh ngươiø nữ thành Phật
trong kinh Thắng Man Sư Tử Hống Nhứt Thừa Đại Phương Tiện Phương
Quảng Kinh, bản dịch chữ Việt Nam và chú giải của tỳ kheo Thích Đức
Niệm, Viện Phật Học Quốc Tế ấn tống năm 1990, tại Sepulveda,
California, Hoa Kỳ. Hai chữ Phương Quảng minh xác bản kinh là một
bản kinh Đại Thừa. Năm chữ Nhứt Thừa Đại Phương Tiện biểu thị thông
danh kinh sách Đại Thừa tam quy nhứt giáo. Danh xưng Thắng Man Sư Tử
Hống là bởi kinh này do phu nhân Thắng Man thuyết, và ba chữ Sư Tử
Hống kế tiếp hàm ư vô úy và quyết định bằng h́nh ảnh sư tử, không hề
sợ hăi, thẳng tiến không chút quanh co. Nói cách khác bộ kinh này
nghĩa lư rơ ràng, một mạch rốt ráo. Kinh này do pháp sư người Thiên
Trúc, tên chữ Phạn là Gunabhadra, phiên âm của người Trung Quốc đọc
theo âm Việt Nam là Cầu Na Bạt Đà La, và người Trung Quốc c̣n dịch
là Công Đứùc Hiền, dịch sang hoa văn vào dưới triều vua Lưu Tống
(420-479).
Trong phần Tự, kinh chép:
[...] Khi ấy vua Ba Tư Năc và Mạt Lợi phu nhân, tin Phật chưa lâu,
nói rằng:
- Thắng Man phu nhân là con gái ta, thông
huệ mọi căn, mẫn cán, dễ lĩnh ngộ, nếu gặp
được Phật th́ quyết chóng thấu hiểu giáo pháp,
tâm đạt không ngại. Vậy nên hợp thời khiến tin
để phát đạo tâm.
Mạt Lợi phu nhân nói:
- Nay chính phải lúc.
Vua và phu nhân viết thư cho Thắng Man, đại lược ca ngợi Phật công
đức vô lượng. Liền sai cung nhân là Hàng Dề La mang thư đến nước A
Du Xà vào thẳng nội cung, kính cẩn tŕnh dâng phu nhân Thắng Man.
Thắng Man được thư , khởi tâm hoan hỷ, đảnh lễ tiếp thọ, đọc tụng
xong, thọ tŕ, sanh tâm ngưỡng mộ hy hữu.
Thắng Man phu nhân hướng trưóc Hàng Đề La nói kệ rằng:
- Ta nghe danh tiếng Phật là bậc chưa từng có trên đời. Lời nói
trong thư là chơn thật, nên ta cúng dường cho ông. Ngưỡng mong Phật
Thế Tôn khắp v́ thế gian mà xuất hiện, cúi xin ngài dủ ḷng thương
xót khiến cho con được trông thấy ngài.
Liền khi Thắng Man khởi niệm này, th́ đức Phật hiện ra trên không
trung phóng hào quang sáng
khắp cả thấy rơ kim thân Phật tuyệt vời không ai sánh kịp. Thắng man
và quyến thuộc đầu mặt sát đất lễ chân Phật, dâng trọn ḷng thanh
tịnh ca ngợi Phật thật vô lượng công đức.
Hính ảnh đầu mặt sát
đất lễ chân Phật, trong giới học Phật biểu thị sự việc phu nhân
Thắng Man lấy tâm Bồ Đề làm chu,û tương ứng với vô lậu tâm, lấy công
đức làm quyến thuộc, khế hợp cùng với như
như pháp thân.
Sang phần chánh tông, phu nhân Thắng Man cung kính tán thán công đức
Phật đoạn dâng lời thỉnh cầu quy y. Nhận lời thỉnh cầu tín kính của
Thắng Man phu nhân, đức Phật phán:
- Ngươi tán thán Như Lai chơn thật công đức, do thiện căn này sẽ ở
vô lượng kiếp a tăng kỳ, trong loài trời người làm Tự Tại Vương,
sanh ra chỗ nào cũng thường được thấy ta, tán thán ta như hiện nay
không khác. [...] Rồi sẽ được thành Phật, hiệu là Phổ Quang Như Lai,
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.
Đoạn kinh Thắng Man trích dẫn trên đây cho thấy là phu nhân Thắng
Man, là một người nữ không xuất gia, do thiện căn nhiều kiếp trước
rồi ra sau nhiều kiếp tu tập sẽ được thành Phật. Tuy nhiên, khác với
việc thành Phật của Hằng Đà Bà Già chép trong kinh Bát Nhă Ba La Mật
Đa cũng như trong việc thành Phật của Long Nữ chép trong kinh Pháp
Hoa, Phật không cho biết trên đươnøg thành đạo, phu nhân Thắng Man
có phải biến thân thành người nam hay không, nhưng Phật cho hay là
phu nhân Thắng Man sẽ làm Vua Tự Tại trong loài trời người. Qua ba
chữ Tự Tại Vương, phải chăng người đọc kinh vẫn phải hiểu làThắng
Man phu nhân trước khi thành Phật cũng phải sống qua nhiều kiếp làm
thân nam? Giải đáp câu hỏi này, tỳ kheo Thích Đức Niệm, trong lời
Huyền Luận Kinh Thắng Man viết:
Sau khi tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xa Ba Đề viên tịch, đức Phật đem xá lợi
của bà đối trước đại chúng mà nói rằng:
- Nếu nói là đại trượng phu th́ Ma Ha Ba Xà Ba Đề là đại trượng phu.
[Bởi lẽ] những ǵ bậc đại trượng phu làm th́ bà đều làm tới cả.
Tỳ kheo Thích Đức Niệm viết tiếp:
Điều này có thể thấy rằng đại trượng phu không
phải chỉ câu nệ tại h́nh thức, mà hay y Phật Pháp thực hành, làm đến
nơi đến chốn những ǵ phật pháp cần làm, không luận nam hay nữ đều
được danh xưng là đại trượng phu.
Như vậy h́nh ảnh Hằng Đà Bà Già, Long Nữ cũng như Thắng Man nghe
Phật nói Pháp, chuyển nữ thân thành nam tử trước khi thành Phật,
phải chăng là hiển thị việc người tín nữ gánh vác Phật Pháp chẳng
khác ǵ những vị dũng mănh trượng phu để thành Phật?
Để t́m ư nghĩa h́nh tượng đức bồ tát Quán thế Âm, người đọc kinh
khởi đầu từ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi ngắn là kinh Pháp Hoa, một
bộ kinh rất phổ cập tại các nước Đông Á. Chữ Liên Hoa nghĩa là hoa
sen, h́nh ảnh của nhà Phật không những chỉ biểu thị cho sự thanh
khiết:
gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
mà trong hoa sen c̣n có hạt sen, trong hạt có nhân sen ba h́nh ảnh
tiêu biểu cho hiện tại, tương lai và quá khứ thu vào một niệm, một
quan niệm về thời gian chung cho nhiều tôn giáo, mà giới nghiên cứu
gọi là thời gianđứng thẳng, vertical time, trong đó Phật quá
khứ, Phật hiện tại và Phật tương lai cùng là một.
Trong kinh có phẩm thứ XXV mang tựa đề Phổ Môn gồm 2062 chữ Hán,
chép lời Phật tả rơ h́nh ảønh Bồ Tát Quán Thế Âm để trả lời câu Bồ
Tát Vô Tận Ư hỏi về Bồ Tát Quán Thế Âm . Chữ Phổ Môn, nghĩa là cửa
chung cho mọi chúng sinh, dường như gốc của thành ngữ cửa
Phật là cửa rộng trong
tiếng Việt Nam. Giới Phật học hiểu chữ rộng không
phải là căn cứ trên kích thưóc, mà là một cửa không hạn định cho mọi
chúng sinh: mỗi chúng sinh đều như nhau, tựa như hai giọt nước trong
biển nước. Phẩm này c̣n được chép riêng thành Quán Âm Kinh hay c̣n
gọi là Kinh Phổ Môn. Trong kinh Phật dậy:
1. Nếu chúng sinh dưới ách khổ năo, niệm danh Bồ Tát Quán Thế Âm th́
ngài sẽ nghe thấu và tới giải thoát. Niệm danh Bồ Tát Quán Thế Âm
th́ nhờ thần uy BoÀ Tát vào lửa không sợ chết cháy, xuống nưóc sâu
không sợ chết đuối, gặp qủy dữ cũng thoát.
2. Người sắp bị nạn dao gậy, niệm Bồ Tát Quán Âm th́ dao gậy gẫy ra
từng khúc, Người bị gông cùm xiềng xích, niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́
gông cùm xiềng xích đều tan ră. Khách buôn lạc vào đường hiểm trở,
niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cũng được thoát khỏi oán tặc.
3. Chúng sinh nào nhiều ḷng dâm dục, niệm Bồ Tát Quán Thế Âm liền
được ly dục. Người nhiều giận hờn niệm Bồ Tát Quán Thế Âm cũng dập
tắt được lửa sân. Kẻ ngu si niệm Bồ Tát Quán Thế Âm cũng ĺa ngu si.
Người nữ muốn cầu con trai sinh con trai phúc đức trí tuệ, cầu con
gái sinh con gái xinh đẹp.
Phật c̣n cho Bồ Tát Vô Tận Ư biết ba mươi hai hóa thân mà Bố Tát
Quán Thế Âm xử dụng để tùy từng chúng sinh niệm danh ngài mà nói
pháp chứng độ chúng sinh đó ra khỏi biển khổ. Trong số những thân
tướng đó đứng đầu là thân Phật, tiếp theo thân Duyên Giác, Thanh
Vân, Phạm Vương, Đế Thích, kể cả thân phụ nữ của Trưỏng Giả, Cư Sĩ,
Tể Quan, Bà La Môn. Phép biến hóa thân tướng của Bồ Tát Quán Thế Âm
cốt để giúp người niệm danh ngài cảm thấy gần gận với ngài khi được
ngài tế độ. Kết cục, Phật khuyên các Bồ Tát phải cùng một ḷng cúng
dàng Bồ Tát Quán Thế Âm. Phẩm Phổ Môn chấm dứt bằng lời Bồ Tát Vô
Tận Ư nguyện cúng dàng Bồ Tát Quán Thế Âm.
Niệm Bồ Tát Quán thế Âm để được báo ứng là một truyện chép trong
sách Thái B́nh Quảng Kư và Lê Qúy Đôn có ghi trong sách Kiến Văn
Tiểu Lục, quyển IX tựa đề Thiền Dật. Truyện như sau:
Vương Huyền Mô nhà Tống, trái quân luật trong khi đi đánh phương
Bắc, chiếu theo quân pháp đáng phải xử tử. Một đêm, Huyền Mô nằm
mộng thầy có người nữ đến bảo:
- Cứ tụng Quán Âm đủ một ngàn lần sẽ thoát nạn.
Huyền Mô nói:
- Tính mạng ta chỉ c̣n trong chốc lát, làm
sao tụng kinh đủ mộât ngàn lần.
Người trong mộng dậy Huyền Mô tám câu như sau:
Nam mô Quán Thế Âm Phật, dữ Phật hữu nhân,
dữ Phật hữu duyên, thường lạc ngă tĩnh, triêu niệm Quán Thế Âm, mộ
niệm Quán Thế Âm, niệm niệm ṭng tâm khởi, tự nhiên Phật bất ly
thân.
Nghĩa là: Nam Mô Quán Thế Âm Phật, cùng Phật có nhân, cùng Phật có
duyên, thựng lạc ngă tĩnh. Sớm niệm Quán Thế Âm, chiều niệm Quán
Thế Âm, niệm từ tâm phát hiện, tất nhiên Phật chẳng ĺa.
Huyền Mô y lời tụng tám câu này đủ một ngàn lần và khi lươi dao đao
phủ gần đến cổ là gẫy nát, nhờ vậy thoát nạn. Kết luận này cho thấy
là đúng như lờiø kinh Pháp Hoa, Bồ Tát Quán Thế Âm luôn luôn lắng
nghe chúng sinh niệm danh hiệu của ngài và sẵn sàng tới cứu nạn. Lê
Qúy Đôn chép truyện truyền kỳ trên đây chứng tỏ rằng không riêng ở
Trung Quốc mà cả tại Việt Nam người ngựi hằng niệm danh Bồ Tát Quán
Thế Âm để mong được độ tŕ ra
khỏi cảnh ngặt nghèo.
H́nh ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện trong lịch sử Việt Nam vào đời
vua Lư Thái Tôn (1028-1054) vị vua thứ hai trong triều nhà Lư, một
triều đại rất sùng đạo Phật. Đại Việt Sử Kư Toàn Thư của Ngô Sĩ
Liên, bản dịch của Cao Huy Dụ, nhà xuất bản Khoa Học Xă Hội, Hà Nọâi
1967 chép:
Mùa đông [năm 1049] tháng 10 dựng chùa Thiên Hựu. Trước đấy vua
chiêm bao thấy Phật Quán Âm ngồi trên ṭa sen, dắt vua lên ṭa. Khi
tỉnh dậy vua đem việc ấy nói với bầy tôi, có ngựi cho là điềm không
lành. Lại có tỳ kheo Thiền Tuệ khuyên vua dựng chùa một cột ở giữa
ao làm ṭa sen của Phật trên cột, giống như đă trông thấy trong
mộng, cho các nhà sư đi quanh tụng kinh cầu an cho vua. V́ thế gọi
là chùa Thiên Hựu.
Đúng như lời Phật dậy trong kinh Pháp Hoa trích dẫn trên đây, Bồ Tát
Quán Thế Âm nói với kẻ niệm danh ngài bằng ngôn ngữ cuả kẻ đó. Người
Đông Á, Trung Quốc Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam đều coi cha là
nghiêm phụ và mẹ là từ mẫu. Phải chăng v́ thế và bởi h́nh tượng Bồ
Tát Quán thế Âm là h́nh ảnh từ bi hỉ xả, nên người Đông Á, từ đời
Đường, khi Phật Gíao đă bắt sâu rễ trong chúng nhân thời h́nh tượng
Bồ Tát Quán Thế Âm cũng chuyển biến thành h́nh tượng Phật Bà? Trải
qua hơn mười hai thế kỷ, h́nh tượng Quán Thế Âm như một vị Phật bà
vẫn hằng thay đổi tùy theo kẻ niệm danh ngài. Sau đây là bốn h́nh
tượng quen thuộc nhất, qua những truyện cổ tích hằng lưu truyền
trong giáo chúng:
1. Diệu Thiện Quán Âm,
2. Bạch Y Quán Âm
3. Nam Hải Quán Âm
4. Mă Lang Phu Quán Âm
Những truyện này tùy theo địa phương thay đổi ít nhiều so với những
bản chép trong sách Bảo
Quyển, của người Trung Quốc. Một điều đáng để ư là khi niệm Bồ
Tát Quán Thế Âm, giáo chúng thường gọi tắt là Phật hay Phật Bà Quán
Âm, thay v́ Bồ Tát Quán Thế Âm.
Sự tích Diệu Thiện Quán Âm là một đề tài nghiên cứu của nhiều nhà
Phật học: tại Nhật có Trủng Bản Thiên Long, Tsukamoto Zenryu (955);
ở khối tiếng Anh có Glen Dudbridge (1878,1982) tiếp tới Rolf A.
Stein (1986) trong khối tiếng Pháp. Tại Việt Nam có Hoàng Trọng
Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư, tập II, không ghi năm in, nhà sách
Như Ư phát hành, chép truyện Bà Chúa Ba như sau:
Ngày xưa, có một ông vua sinh liên tiếp hai người con gái đầu ḷng.
Không có con trai, vua lo lắng không kẻ nối ngôi, ngày đêm cầu khẩn
Trời Phật cho hoàng hậu sinh ra hoàng nam. Nhưng đến khi đứa con thứ
ba ra đời, cũng vẫn là con gái. Vua lấy tên thứ ba mà đặêt cho công
chúa út. Giận các đấng thiêng liêng đă không phù trợ ḿnh đạt được ư
nguyện. Tuổi thọ đă cao, vua muốn cho công chúa thứ ba lấy chồng,
định sẽ truyền ngôi cho pḥ mă.
Trái với hai chị, là Diễu Thanh và Diệu Âm, công chúa Ba không đắm
ḿnh trong cung vàng điện ngọc mà chỉ say mê tiếng kệ câu kinh, rồi
quyết tâm theo đạo Phật. Nàng nhất quyết không chịu lấy chồng, khiến
vua và hoàng hậu nổi giận, bắt giam nàng ở riêng bên vườn sau hoàng
cung.
Một hôm vua cùng hoàng hậu ngự thăm vườn, công chúa Ba chạy đến đón
xa giá. Vua lại phán bảo nàng bỏ ư định tu hành để tính việc trăm
năm song nàng vẫn một mực từ chối, và xin phép vua cha xuất gia đầu
Phật. Vua giả vờ chiều theo ư con, cho nàng đến tu ở chùa Bạch Tước,
đồng thời ra lệnh cho các nhà sư phải khuyên nhủ công chúa Ba trở về
cung để lấy chồng. Nếu việc không thành th́ chùa sẽ bị thiêu cháy và
tất cả sư săi trong chùa đều bị chém đầu.
Các nhà sư sợ hăi t́m đủ mọi cách để làm cho công chúa xiêu ḷng mà
hồi tục, nhưng đều vô hiệu. Vua hay tin liền nổi cơn thịnh nộ ra
lệnh cho đốt chùa để giết luôn cả công chúa v́ đă không tuân lệnh
vua cha, nhưng ngọn lửa vừa ùn ùn nổi lên bao vây cả bốn phía chùa
th́ trời đang tạnh ráo bỗng tuôn mưa xối xả dập tắt ngay. Vua bèn
cho bắt công chúa Ba để xử tử, nhưng trời lại nổi cơn bảo táp dữ
dội, sét đánh văng lưỡi dao của đao phủ nhắm bổ vào cổ công chúa.
Vua vẫn chưa nguôi giận, ra lệnh xử giảo nàng. Quân lính đang sửa
soạn dây treo cổ nàng th́ bỗng đâu một con cọp phóng qua hàng rào
binh sĩ cướp mất công chúa Ba, cơng nàng đưa đến chùa Hương Tích. tu
hành [...] Các thú dữ trong rừng núi được cảm hóa đến nghe kinh, rồi
chia nhau chim hái trái, nai lấy nước, khỉ vo gạo, rồng thổi lửa nấu
cơm...hầu hạ công chúa ngày
đêm.
Vềâ triều, vua cha phát bệng phong ghê gớm. Các danh y được mời đến
đều bó tay trước chứng bệnh nhà vua. Da thịt vua sần sùi lở lói, các
ngón tay ngón chân dần dần rơi rụng, vua cha mất cả hai tay và hai
mắt. Công chúa Ba tu hành đắc đạo, khoác áo ni cô về kinh, thấy vua
cha bị bệnh thê thảm, liền tự moi hai mắt và chặt hai tay làm thuốc
cứu chữa cho vua cha lành mạnh. Sau đó công chúa hóa về Niết Bàn.
Tục truyền công chúa Ba là hiện thân của Phật Bà Quán Âm. Sự tích
này truyền bá khắp thiên hạ. Hàng năm vào tiết đầu xuân thiện nam
tín nữ nô nức đi chẩy hội chùa Hương trong khoảng từ đầu tháng giêng
đến cuối tháng ba âm lịch.
Ngựi đọc truyện truyền kỳ nhận ra qua h́nh ảnh Bà Chúa Ba nhiều
h́nh ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm chép trong phẩm Phổ Môn, kinh Pháp
Hoa. Trước hết là h́nh ảnh bà Chúa Ba khăng khăng cưỡng lời vua cha
và hoàng hậu, không chịu lấy chồng phải chăng là h́nh ảnh
của một người đă ly dục. Chi tiết sét đánh văng lưỡi dao đao phủ khi
chém gần đến cổ bà Chúa Ba, dường như nhắc lại đoạn kinh Pháp Hoa
sau đây:
Nếu lại có người sắp bị hại, xưng danh hiệu
Quán Thế Âm Bố Tát, thời dao gậy của kẻ sát nhân liền gẫy ra từng
khúc, người ấy được thoát nạn.
H́nh ảnh con cọp bất thần xuất hiện cướp bà Chúa Ba giữa pháp trường
đưa về Chùa Hương cũng gợi cho người đọc truyện một đoạn kế tiếp
trong kinh Pháp Hoa:
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, bị gông cùm xiềng
xích, trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thẩy đều
đứt ră, liền được thoát khỏi.
Sau hết h́nh ảnh bà Chuá Ba móc mắt cắt tay làm thuốc chữa cho vua
cha phải chăng là biểu tượng ḷng đại từ đại bi của Bồ Tát Quán Thế
Âm? H́nh ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm, c̣n thờ tại nhiều chùa lớn nhỏ,
phải chăng không những tượng trưng cho ḷng từ bi hỉ xả vô hạn của
Bồ Tát mà c̣n cho thấy sức tŕ diệu thần thông cùng phương tiện vô
lượng của bồ tát dùng cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh?
Hoàng Trọng Miên không cho biết ông đă ghi chép sự tích Phật Quán Âm
Diệu Thiện trên đây từ nguồn gốc nào. Đối chiếu với những tài liệu
Trung Quốc về sự tích Phật Bà Quán Âm, th́ người Trung Quốc chép sự
tích đức Phật Bà Quán Âm trong Hương Sơn Bảo Quyển. Về t́nh tiết th́
khi Phật Bà Quán Âm hiện ra cứu bệnh cho vua cha th́ hiển tướùng
thành Phật Ngàn Mắt Ngàn Tay. Ngày nay tại Chùa Hương Tích Việt Nam
vẫn c̣n thờ tượng Phật Quán Âm Ngàn Máêt Ngàn Tay, dưới danh hiệu
Đại Bi Quán Thế Âm. Tượng Phật Quán Âm thờ tại chùa Đại Bi Hương Sơn
Trung Quốc cũng là tượng Phật Ngàn Mắt Ngàn Tay.
Trong một truyện truyền miệng khác với một nội dung tương tự như
truyện trên đây, nhưng Phật Bà Quan Âm hiện ra tay cầm cành dương
tay kia cầm lọ nước cam lồ. H́nh tượng này mang tên là Cứu Khổ Quán
Thế Âm. Giới nghiên cứu Phật học đồng ư là h́nh tượng Cứu Khồ Quán
Âm là h́nh tượng Phật Bà, tạc từ thế kỷ thứ VIII, và ngày vía Phật
Bà Quán Âm là ngày 19 tháng hai âm lịch.
Sách Nam Hải Quán Âm Toàn Truyện cũng chép sự tích Phật Bà Quán Âm
tương tự như sự tích Phật Bà Diệu Thiện Quán Âm nhưng đổi địa danh
Hương Sơn thành Phổ Đà. H́nh tượng Phật Bà Nam Hải Quán Âm thường có
Thiện Tài và Long Nữ theo hầu, mặêc dầu theo kinh sách đức Phật Quán
Âm chỉ có gặêp riêng rẽ hoặc Thiện Tài hoặc Long Nữ, và không có
kinh nào chép việc đức Phật Quán Âm đồng thời gặp cả hai Thiện Tài
và Long Nữ.
Long Nữ là một thiên nữ xuất hiện trong các đoạn kinh Pháp Hoa và
Duy Ma Cật trích dẫn trên đây. Thiện Tài là một đồng tử t́m học đạo
với 53 vị triết gia đạo trưởng chép trong kinh Hoa Nghiêm. Giới
nghiên cứu đối chiếu sự hiện diện của Thiện Tài và Long Nữ theo hầu
Phật Bà Nam Hải Quán Âm với sự hiện diện trong tranh Đạo Giáo của
Kim Đồng và Ngọc Nữ theo hầu Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Khác hẳn với h́nh tượng Diệu Thiện Quán Âm, Cứu Khổ Quán Âm và Nam
Hải Quán Âm, h́nh tượng Ngư Lam Quán Âm, hay c̣n gọi là Mă Lang Phu
Quán Âm hoặc Tỏa Cốt Quán Âm có một sự tích phức tạp như sau. Dưới
triều nhà Đường, khi Phật giáo đă thịnh hành tại vùng trung nguyên
Trung Quốc, th́ dân chúng vùng Đông Nam vẫn c̣n chưa có duyên may
thấm nhuần đạo lư. Vào khoảng chừng năm 809 có một cô gái nhan sắc
tuyên bố là cô sẽ kết hôn với người nào trong một đêm có tài học
thuộc ḷng được phẩm Phổ Môn trong bộ kinh Pháp Hoa. Sáng hôm sau,
có hai mươi người đạt được điều kiện này. Cô gái nói là cô không thể
làm vợ tất cả hai chục người, và cô đổi điều kiện là cô sẽ làm vợ
người nào trong một đêm có thể học thuộc ḷng toàn thể bộ kinh Kim
Cương. Sáng hôm sau có ngoài mười người vượt nổi qua thử thách này.
Một lần nữa cô gái đổi điều kiện là cô sẽ thành hôn với ai trong ba
ngày học thuộc ḷng toàn thể bộ kinh Pháp Hoa. Lần này chỉ có một
chàng họ Mă vượït qua nổi thử thách. Chàng họ Mă tức tốc xin làm lễ
đón dâu. Về tới nhà trai, cô dâu bỗng ngă bệnh và xin được vào pḥng
nằm nghỉ. Trước khi họ hàng nhà trai nhà gái ra về th́ cô dâu từ
trần. Chỉ trong chốc lát th́ xác nàng bắt đầu tan rữa nên phải tức
tốc làm đám táng. Vài ngày sau, có một vị sư già tới gặp chàng họ Mă
và xin chàng dẫn tới phần mộ của người vợ vắn số. Tới mộ nhà sư cho
mở mả, và gióng gậy tầm xích trên nắp áo quan. Nắp áo quan bật mở,
thịt người quá cố đă rữa hết chỉ c̣n bộ cốt bó gọn bằng chỉ vàng.
Nhà sư cho mọi ngựi dự đám biết là cô gái chính là hiện thân của
một vị bồ tát xuống thế để cứu vớt người người ra khỏi cơi u minh.
Sau khi rửa sạch bộ cốt, nhà sư buộc bộ cốt vào gậy tầm xích rồi bay
lên trời biến mất. Từ đó người người trong vùng nô nức quay về cửa
Phật .
Thần thoại trên đây, lúc đầu không nối danh Phật Quán Âm vói vợ
chàng họ Mă. Với thời gian, thần thoại lưu truyền trong dân chúng và
trở thành tên Phật Kim Sa Than Mă Lang Phu Quán Âm, tức Phậât Quán
Âm hiện thân thành vợ chàng Mă tại bến nước Cát Vàng. Người đời sau,
trải qua các triều đại nhà Tống nhà Minh và nhà Thanh đều ít nhiều
thêm bớt chép lại thần thoại này. Trong ngôn ngữ Thiền, h́nh ảnh Mă
Lang Phu Quán Âm là h́nh ảnh lấy độc trị độc:
lấy sắc đẹp diệt sắc dục.
Theo một truyền thuyết khác, Mă Lang Phu Quán Âm c̣n có h́nh tượng
mang danh hiệu Duyên Châu Phụ. Tục truyền nàng cũng là một thiếu phụ
có nhan sắc mặên ṃi, săn sàng hiến thân cho bất kỳ ai tới cầu cạnh
nàng. Thế nhưng nếu ai hễ đă giao hoan với nàng th́ từ đó không c̣n
ham muốn sắc dục. Năm 24 tuổi nàng mang tiếng hoang dâm mà từ trần,
xác táng nông bên đường. It lâu sau có một nhà sư từ phía Tây đi
tới, thắêp hương khấn vái bên mộ nàng. Dân làng ngạc nhiên hỏi v́
sao nhà sư c̣n đoái hoài tới một thiếu phụ không chồng sống một đời
dâm đăng. Nhà sư cho hay là nàng đă hành động như vậy là v́ đức đại
bi, và cho hay là nay nàng đă trở thành bồ tát. Nhà sư cho mở mả
thiếu phụ và thấy xương nàng như có chỉ vàng bó liền với nhau.
Truyền thuyết trên đây, theo nhiều nhà b́nh giải, dường như dựng
theo một câu trong phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa:
Nếu có chúng sinh nào nhiều ḷng dâm dục, thường cung kính niệm Quán
Thế Âm Bồ Tát, liền được ly dục.
Tuy nhiên, truyện Duyên Châu Phụ không thấy c̣n chép trong những bảo
quyển phát hành trong những đời sau.
H́nh tượng Kim Sa Than Mă Lang Phu Quán Âm hay Duyên Châu Phụ thường
c̣n gọi là
Ngư Lam Quán Âm. H́nh tượng Ngư Lam Quán Âm vẽ h́nh Phật trong tay
có một giỏ đựng duy nhất một con cá. Căn nguyên của h́nh tượng naỳ
đọc thấy trong chương thứ 49 truyện Tây Du Kư, bộ tiểu thuyết thuật
lại những mối
gian truân của thầy tṛ Đường Huyền Tăng trên đường qua Tây Trúc
thỉnh kinh. Truyện tóm tắt như sau:
Trên đựng thỉnh kinh, Đường Huyền Tăng cùng ba đồ đệ là Chư Bát
Giới, Tôn Ngộ Không và Sa Tăng giúp dân giao chiến cùng Linh Cảm Đại
Vương, một thủy thần hàng năm bắt dân phải cúng đồng nam đồng nữ cho
thần ăn thịt. Linh Cảm Đại Vương thua lớn, lập qủy kế bắt đươc Đường
Tam Tạng. Tôn Ngộ Không phải đằng vân tới núi Phổ Đà câu cứu Phật
Quán Âm. Phật Quán Âm y lời xách giỏ đi giúp ba đồ đệ Huyềân Tăng
giải cứu cho thầy. Tới bên sông, Phật Quán Âm niệm thần chú:
Tử đích khứ. Hoạt đích trụ
nghĩa là: con nào chết th́ đi, con nào sống th́ vào giỏ. Niệm bẩy
lần th́ trong giỏ hiện ra một con kim ngư, đôi mắt sáng ḷa, vẩy vi
vàng chói.
Phật bảo Tôn Ngộ Không:
- Hăy mau xuống thủy phủ cứu thầy.
Tôn Hàng giả nói:
- Bồ Tát chưa bắt được yêu quái, làm sao bọn con cứu nổi thầy?
Phật Quán Âm nói:
- Con yêu ấy ta đă bắt nhốt vào giỏ đây.
Sa Tăng và Bát Giới qùy thưa:
- Con cá đó v́ đâu lại thần thông phép tắc như vậy?
Phật Quán Âm nói:
- Nó vốn là kim ngư ở trong hồ sen của ta, thường ngày nổi lên nghe
kinh đă lâu năm, Sau nó tu nhiều đời, nên có phép luyện búp sen
thành ra trái đấm, thừa nước lớn, thoát ra hồ lội xuống đây. Sáng
hôm nay, không thấy nó, bấm độn biết được việc này vội đan giỏ đi
bắt.
Tôn Hành Giả nói:
- Vậy xin Bồ Tát nán lại đây giây lát, con xin vào xóm làng, gọi dân
ra lậy mừng, tạ ơn bồ tát đă trừ yêu cứu đời.
Phật Quán Âm nói:
- Được! Ngươi đi mau kẻo trễ.
Bát Giới, Sa tăng nghe nói, vội chạy vào xóm la lớn:
- Ai muốn xem Bồ Tát Quán Âm giáng thế th́ ra đây gấp
Trong xóm, gái trai, già trẻ đều chen nhau chạy đến, qú lậy bồ
tát.. Có người vẽ giỏi đă họa h́nh bồ Tát Quán Âm lúc đó và gọi là
Ngư Lam Quán Âm. Tượng h́nh ấy c̣n lưu truyền tới nay.
H́nh tượng phổ thông nhất trong các h́nh tượng Phật Bà Quán Âm là
h́nh tượng Bạch Y Quán Thế Âm. Nhiều nhà nghiên cứu như Henri
Maspero (1928) hay Kenneth Chen (1964) cho rằnh h́nh tượng này
chuyền biến từ h́nh tượng, một vị Phật mặc áo trắng của ngươiø Tây
Tạng. Gần đây Rolf A. Stein căn cứ trên các truyện truyền kỳ của
người Trung Quốc và bác giả thuyết của Maspero và Henri
H́nh tượng Bạch Y Quán Âm phổ cập sâu rộng trong giáo chúng Trung
Quốc v́ø người Trung Quốc tin tưởng rằng Bồ Tát Quán thế Âm, như
Phật dậy trong phẩm Phổ Môn, kinh Liên Hoa:
Nếu có người nữ, giả sử cầu con trai, lễ lậy cúng dàng Quán Thế Âm
Bồ Tát, liền sinh con trai phúc đức trí tuệ.
Niềm tin này giúp người Trung Quốc sống yên ḷng với tập tục bất
hiếu hữu tam vô hậu vi đại nghĩa là bất hiếu có ba điều, không con
nối giơi là một điều hệ trọng. H́nh tượng Phật Bà Quan Âm, trong mắt
người đi cầu tự, mang tên là Tống Tử Quán Âm. H́nh tượng này thường
là h́nh tượng Phật Bà mặc áo trắng tay bế một đứa bé traiù kháu
khỉnh. Sự tích phép thần thông của Phật Bà Quán Âm Tống Tử, mang con
tới cho người niệm danh ngài để cầu tự, chép trong Bạch Y Đại Sĩ Ngữ
Ấn Tâm Đà La Ni Kinh.
Vào khoảng những thế kỷ XVII và XVIII, nhiều giáo sĩ Công Giáo đă
nhầm tưởng coi h́nh tượng Tống Tử Quán Âm là h́nh tượng Đức Bà Maria
bồng chúa Jesus của người Trung Quốc.
H́nh tượng Bạch Y Quán Âm thường là đề tài của nhiều họa sĩ và thi
sĩ, cùng nhiều truyện truyền kỳ không riêng ǵ người Trung Quốc mà
chung cho cả những dân tộc khắp vùng Đông Á. Người Trung Quốc có
cuốn Diệu Anh Bảo Quyển chép nhiều truyện truyền kỳ về Phật Bà Bạch
Y. Trong những truyện này, Phật Bà Bạch Y Quán Âm thường báo mộng
báo cho vai chính trong truyện một sự tốt lành. Việc tốt lành hoàn
tất, vai chính đúc chuông tô tượng hoặc xây chùa tạ ơn.
Tiêu biểu cho loại truyện truyền kỳ kể trên là truyện thái tử Tiềân
Lưu (851-932) nước Ngô Việt thời Ngũ Đại, Trung Quốc, chép trong phổ
kư chùa Thiên Trúc tại Hàng Châu. Trong một giấc mơ, Tiền Lưu gặêp
một thiên nữ áo trắng nguyện sẽ phù hộ thái tử cùng gịng giơi hậu
duệ, bởi lẽ thái tử giầu ḷng từ bi và không hiếu sát. Thiên nữ c̣n
hẹn tái ngộ cùng thái tử tại núi Thiên Trúc hai chục năm sau. Hai
chục năm sau thái tử dựng nên nước Ngô Việt, và tới thăm chùa núi
Thiên Trúc, nh́n thấy tượng Bạch Y Quán Thế Âm, giống như h́nh ảnh
thiên nữ trong giấc mơ ngày trước bèn phát thiện tâm cho xây Thiên
Trúc Khán Kinh Viện. Ngày nay viện này vẫn c̣n là một thắng cảnh tại
Hàng Châu.
Mô thức này hệt như mô thức truyện vua Lư Thái tôn xây chùa Một Cột
trích dẫn trên đây. Một điểm đáng chú ư khác là trong những truyện
truyền kỳ này thường có kèm theo những bài chú hoặc bài kinh ngắn,
tỷ như bài kinh mười câu trong truyện Huyền Mô đờiø Tống mà Lê Qúy
Đôn đă sao chép vào Sách Kiến Văn Tiểu Lục, trích dẫn trên đây.
Những bài chú như bài Bạch Y Quán Âm Thần Chú, Quán Âm Thập Cú Chú,
Quán Âm Mộng Chú ngày nay c̣n là những bài thông dụng. Những bài
kinh ngắn thường đọc kèm với những bài chú nói trên là những kinh
lưu truyền từ thế kỷ thứ V như Quán Âm Bảo Sinh Kinh, Quán Âm Cứu
Sinh Kinh.
Đó là sơ lược h́nh ảnh Phật Bà Quán Âm trong ḷng tin của người Đông
Á. Câu hỏi kếù là tại sao người Đông Á lại biến hóa một đức Phật ông
thành một đức Phật Bà?
Chun Fan Yu giải thích rằng sự biến hóa này là bằng chứng người Đông
Á tin tưởng ở đức Phật Bà Quán Âm. Ḷng tin đó biến hóa đứùc Phật
Quán Thế Âm thành Phật Bà v́ trong tín ngưỡng của đại chúng Trung
Quốc đă có sẵn nhiều vị nữ thần như Thiên Hậu, Bích Hà Nguyên Quân,
Vô sinh Lăo Mẫu v.v... Những nữ thần đó thường không chỉ là những vị
thần linh ứng mà thường là hiện thân hay hóa thân của đức Phật Bà
Quán Âm. Như vậy h́nh ảnh đức Phật Bà Quán Âm gần gận với người
Trung Quốc hơn.
Giải thích trên đây dường như cũng đúng đối với người Việt Nam.
Truyệân Man Nương là một truyện truyền kỳ chép sự tích v́ linh ứng
mà Man Nương thành Phật Mẫu, nay c̣n thờ tại chùa Pháp Vân .
Trong văn học Việt Nam, kể lại sự tích Phật Bà Quán Âm t́m trong
cuốn Di Sản Hán Nôm Việt Nam Thư Mục Đề Yếu của Trần Nghĩa và
Francois Gros, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xă Hội Hà Nộâi, 1993, có những
truyện thơ sau đây:
1. Quán Âm Chân Kinh Diễn Nghĩa, do Gia Liễu Đường xuất bản năm
1916. Truyện
thơ kể sự tích Phật Quán Âm theo thể lục bát, truyện tương tự như
truyện Diệu Thiện Quán Thế Âm.
2. Quán Thế Âm Thánh Tượng, in tại chùa Diên Khánh, Hà Nội, năm
1916. Truyện tương tự như truyện Diệu Thiện Quán Thế Âm, với một chi
tiết khác biệt là công chúa Ba bị chết cháy khi vua Diệu Trang cho
lệnh đốt chùa, sau đó lại được tái sinh về tu tại chùa Hương Sơn.
Vua Trang Vương mắêc bệnh nặng, nhưng cũng được qua khỏi, hội ngộ
cùng hoàng hậu về tu tại chùa Hương Sơn, gặêp lại công chúa Ba. Cuối
cùng công chúa Ba thành Thượng Phật và cùng cả nhà siêu nhập cơi
tiên. cuốn Quán Thế Âm Thánh Tương Chân Kinh cũng giống cuốn Quán
Thế Âm Thánh Tượng nới trên.
3. Quán Âm Quá Hải Kinh, của tỳ kheo Thanh Quyết giám thị chùa Thiên
Trù hiệu san, in năm 1898, bản lưu tại Quán Âm Các chùa Hương Tích.
Sách kể sự tích Phật Quán Âm và khuyến cáo người đời dốc ḷng tu
tỉnh tụng niệm ḥng tránh tai họa trong cơi trần ai.
4. Quán Âm Chú Giải Tân Truyện, Thịnh Văn Đường in năm 1886. Truyện
thơ theo thể lục bát kể sự tích Quán Âm Thị Kính, con gái Măng ông,
người nước Cao Ly, lầy chồng học tṛ tên là Sùng Thiện Sĩ, con nhà
khá giả. Một đêm học khuya, Thiện Sĩ ngủ quên, Thị Kính ngồi khâu
bên cạnh, thấy có sợi râu mọc ngược, cho là điềm không lành, sẵn dao
trong tay nàng tính cắt bỏ sợi râu. Bỗng Thiện Sĩ chợt tỉnh, tưởng
là vợ toan hăm hại, bèn lớn tiếng hô hoán. Thế là Thị Kính bị gia
đ́nh nhà chồng đuổi ra khỏi nhà. Bị oan ức, Thị Kính cải trang thành
con trai, lên chùa Vân TưÏ xin xuống tóc đi tu, được vị sư chủ tŕ
đặt pháp danh là Kính Tâm. Trong làng có Thị Mầu, vốn con gái nhà
giầu, nết lẳng lơ, lên chùa thấy chú tiểu Kính Tâm, đem ḷng say
đắm. Trước sự thờ ơ của chú tiểu Kính Tâm, lại không nén nổi ḷng
dâm dục, Thị Mầu ăn nằm cùng một gia nhân và mang thai. Bị hào lư
trong làng căn vặn, Thị Mầu khai là cha bào thai chính là chú tiểu
Kính Tâm. V́ vâïy vị sư chủ tŕ đuổi Kính Tâm ra khỏi chùa nhưng lại
thương t́nh cho ngụ tại tam quan. Ít tháng sau, Thị Mầu sinh con
trai, đem vứt ngoài tam quan chùa Vân Tự, nói trao trả chú tiểu Kính
Tâm. Thương trẻ lọt ḷng, Kính Tâm ngày ngày bồng trẻ đi xin sữa xin
cơm suốt ba năm ṛng ră. Thế rồi Kính Tâm kiệt sức chết. Khi khâm
liệm mọi người mới hay Kính Tâm là người nữ. Nỗi oan của nàng được
giải tỏ. Đức Thế Tôn bỗng hiện ra truyền cho Kính Tâm được phi thăng
làm Phật Quán Âm.
Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội phát hành năm 1994 cuốn Quán Âm Thị Kính
do Thiều Chửu giải thích. Nội dung t́nh tiết trong truyện tương tự
như nội dung cuốn Quán Âm Chú Giải Tân Truyện tóm tắt trên đây. Năm
1995, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội c̣n phát hành tập thơ nôm Truyện
Đức Phật Bà, Sự Tích Phật Nam Hải Quán Âm Diễn Ca, gồm 1440 câu. nội
dung bản diễn ca theo sát truyệân Nam Hải Quán Âm của Trung Quốc,
chuyển vị Hương Sơn Trung Quốc thành Chùa Hương Việt Nam. Đối chiếu
sâu rộng sự tích Đức Phật Nam Hải Quán Âm Trung Quốc và Việt Nam tạm
để ngỏ để chờ các nhà nghiên cứu.
Đối chiếu cấu trúc truyện Quán Âm Thị Kính với cấu trúc của truyện
vua Trần Anh Tôn thử thách đạo hạnh của Tam Tổ Huyền Quang phái Trúc
Lâm là chủ đích của đoạn kế tiếp.
Câu truyện vua Trần Anh Tôn thử thách đạo hạnh Trúc Lâm Tam Tổ Huyền
Quan chép trong sách Tam Tổ Thực Lực dưới tựa đề Tổ Gia Thực Lực.
Theo giới nghiên cứu văn học, trong lời cuối sách, th́ cuốn sách Tam
Tổ Thực Lực đă bị Tướng Nhà Minh, Hoàng Phúc, vào cuối đời nhà Hồ
lấy đem về Bắc Kinh. Măi đến đời Gia Tĩnh, Tô Xuyên Hầu Lê Quang Bí
(1509-?) đi sứ Minh, gặêp người cháu bốn đời của Hoàng Phúc là Hoàng
Thừa Tổ, t́nh cờ nói về truyện cướp sách và được Hoàng Thừa Tổ trao
trả tập sách. Tô Xuyên Hầu gửi sứ bộ mang về nước chuyển giao cho
Tŕnh Tuyền Hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585).
Tam Tổ Huyền Quang (1254-1334) người làng Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ
Lạng Giang, từ nhỏ đă có khiếu văn chương, năm 20 tuổi đỗ khoa thi
hương, năm sau đỗ khoa thi hội. Từng được trọng dụng trong Viện nội
hàn, tiếp sứ Bắc, và nổi tiếng hay thơ. Nhưng ông xin từ chức đi tu.
Được Trúc Lâm Đại Đầu Đà, tức vua Trần Nhân Tôn trọng vọng, giao cho
Trúc Lâm Nhị Tổ Pháp Loa hướng dẫn. Sau đó ông trở thành Trúc Lâm
Tam Tổ. Thơ Tam Tổ Huyền Quang được người đờiø khen tặêng là ư th́
tinh tế cao siêu và lời th́ bay bướm phóng khoáng. Qua thơ, Tam Tổ
Huyền Quang có nét thi nhân rơ rệt hơn nét tu sĩ. Có người cho rằng
bằng vào thi tài của Tam Tổ Huyền Quang, vua Trần Anh Tôn
(1293-1214) đă phái cung nhân của ngài là Nguyễn Thị Điểm Bích (?-?)
lên núi Yên Tử thử thách đạo hạnh của Tam Tổ Huyền Quang.
Nguyễn Thị Điểm Bích người làng Hoạch Trạch, huyện Đường An, lộ
HồÀng Châu, nguyên là kết quả của mối t́nh qua đường giữa mẹ nàng,
một cô gái nghèo, với một ngựi mà không ai rơ tên tuổi. Điểm Bích
được một nhà hào phú trong làng nhận làm con nuôi. Sau nhờ nhan sắc
và có biệt tài làm thơ nôm Điểm
Bích đưỡc tiến làm cung nhân vua Trần Anh
Tôn.
Sách Tam Tổ Thực Lực chép:
V́ không lung lạc nổi Tam Tổ Huyền Quang. Điểm Bích làm bài thơ nôm
dưới đây:
Vằng vặc trăng mai ánh nước
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh
Người ḥa tươi tốt cảnh ḥa lạ
Mâu Thích Ca nào thửa hữu t́nh.
tâu vua Anh Tôn là thơ của Tam Tồ Huyền Quang và lấy làm bằng chứng
là Tam Tồ Huyền Quang đă giao động trước nhan sắc cũa nàng.
Sau vua Trần Anh Tôn biết Tam Tổ Huyền Quang bị vu oan, giáng Điểm
Bích xuống làm thị nữ, quét chùa trong cung Cảnh Linh
Câu truyện Điểm Bích thử thách đạo hạnh Tam Tổ Huyền Quang không có
chép trong quốc sử, khiến nhiều người nghi ngờ thực giả. Phạm Đ́nh
Hổ (1768-1839) tự Tùng Niên hoặc Bỉnh Trực, hiệu Đông Dă, tục gọi là
Chiêu Hổ, người xă Đan Loan, huyện Đường An, nay là huyện Cẩm B́nh,
tỉnh Hảøi Hưng, tác giả cuốn Vũ Trung Tùy Bút cũng từng có ư nghi
ngờ, nhưng ông c̣n viết thêm:
C̣n nhớ khi mới bẩy tám tuổi, thường theo bà
tiên cung nhân ta sang hầu bà ngoại là bà chính thất quan Thiêm Sư
Vơ Công, người làng Mộ Trạch. Khi các bà ngồi rỗi nói chuyện, có nói
tới nàng Điểm Bích, ta mới biết quả có người đó thâït Bà phu nhân kể
rằng: mộ nàng Bích ở làng Hoạch Trạch; buổi đầu trào Cảnh Hưng, có
kẻ đào lên th́ thấy quan tài vẫn c̣n sơn son y nguyên, mở ra xem,
quan tài đầy nưóc trong veo, hương thơm ngào ngăt, bèn phải đậy lại.
Vin vào đoạn trích dẫn trên nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Thị
Điểm Bích là một nhân vật có thực.
Trong phần Tựa giới thiệu cuốn Quán Âm Thị Kính, Đức Bồ Tát Quán Âm
vốn là một đấng nam nhi, tu hành đă qua chín kiếp, đức Phật Mầâu Ni
hiện xuống trần hóa làm một mỹ nữ tới tống t́nh để xét đạo hạnh đức
bồ tát. Đức Quán Âm trả lời là truyện tơ duyên để dành kiếp khác,
kiếp này người tu hành nên phải lánh điều trăng hoa. Bởi lời đó mà
đức Quán Âm lại phải đầu thai kiếp thứ mười làm Thị Kính, con gái
Măng ông tại quận Lũng Tài, huyện Bắc, Hồ Nam, nước Cao Ly. Nguyên
bản văn vần như sau:
Vốn xưa là đấng nam nhi
Dốc ḷng từ thủa thiếu th́ xuất gia
Tu trong chín kiếp hầu qua
Bụi trần rũ sạch thói tà rửa không
Đức Mầu Ni xuống thử ḷng
Hiện ra một ả tư dung mỹ miều
Lần khân ép dấu nài yêu
Người rằng vốn đă lánh điều trăng hoa
Có chăng kiếp khác họa là
Kiếp này sợi chỉ chót đà buộâc tay
Nào ngờ phép Phật nhiệm thay
Nhớ lời mà lại vin ngay lấy lời
Trở sang kiếp khác vẹn mười
Thử xem đầy đọa một đời xem sao
Cơi trần mượn cửa thác vào
Hóa sinh sinh hóa lẽ nào cho hay
Cao Ly là nước lớn thay
Đại bang thành vốn xưa nay gọi là
Lũng Tài quận ấy bao xa
Hồ Nam huyện Bắc có nhà Măng ông
Gia tư thời cũng bậc trung
Chỉ hiềm trước cửa treo cung c̣n chầy
Vết Kim Liên kể thiêng thay
Báo điềm mộng nguyệt măn ngày treo khăn
Người đọc truyện t́m trong thư viện trường đại học Mc Gill và đại
học Montréal, trong những cuốn sách Phật học cũng như truyện cổ tích
của Đại Hàn viết bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, t́m kiếm trong
những tài liệu liên quan tới Phật Quán Âm, không thấy mộât tài liệu
nào xa gần tương tự với nội dung truyện Quán Âm Thị Kính. Vậy nên
nguyên lai truyện Quán Âm Thị Kính c̣n là một vấn đề để ngỏ chờ giới
nghiên cứu giải quyết.
Truyện đức Phật Mầu Ni hiện ra làm mỹ nữ đễ thử thách bồ tát Quán Âm
Thị Kính, đối chiếu về cấu trúc, có nhiều điểm tương tự như truyện
Tổ Gia Thực Lực chép trong sách Tam Tổ Thực Lục vềâ truyện vua Trần
Anh Tôn sai Nguyễn Thị Điểm Bích lên núi Yên Tử thử thách đạo hạnh
Tam Tổ Huyền Quang phái Trúc Lâm.
Xét những động lực chuyển biến diễn tiến trong hai truyện cho thấy:
· Kẻ bị thử thách cùng là người tu hành, người đi thử thách cùng là
mỹ nữ.
· Người tu hành dầu không bị lung lạc nhưng dường như cùng chưa trọn
vẹn rũ sạch nghiệp chướng: bồ tát Quán Thế Âm Thị Kính c̣n hẹn gặp
lại mỹ nữ trong kiêùp sau, Tam Tổ Huyền Quang c̣n phóng khoáng bay
bướm lời thơ, khiến cả hai cùng bị hàm oan
· Đứa con hoang của Thị Mầu oan uổng buộc tội bồ tát Quán Thế Âm Thị
Kính; bài thơ nôm của Điểm Bích oan uổng buộc tội Tam Tổ Huyền
Quang.
· Phép Phật mầu nhiệm cả hai nhà tu hành hàm oan đều được giải oan.
Khác với sách Tam Tổ Thực Lực không chép việc Tam Tổ Huyền Quan được
giải oan ra sao, truyện thơ Quán Âm Thị Kính tả cảnh Thị Kính được
giải oan thành Phật Quán Âm như sau:
Ai hay phép Phật nhiệm mầu
Có khi nước Trúc ở đâu cũng gần
Giữa trời một đoá tường vân
Đức Thế Tôn bỗng hiện thân xuống đàn
Vần vần tỏ dáng tường loan
Tràng phan bảo cái giao hoan âm thầm
Truyền cho nào tiểu Kính Tâm
Phi thăng làm Phật Quán Âm tức th́
Lại thương đến đứa tiểu nhi
Lên tay cho đứng liền khi bấy giờ
Ḱa th́ Thiện Sĩ lờ đờ
Cho làm chim vẹt đứng nhờ một bên
Độ cho hai khóm xuân huyên
Ra tay cầm quyết bước lên trên ṭa
Siêu thăng thoát cả một nhà
Từ đây phúc đẳng hà sa vô cùng
...
H́nh ảnh Kính Tâm thành Phật mô tả trên đây có hai điều đáng chú ư.
Một là h́nh ảnh này là h́nh tượng Phật Bà Quán Thế Âm bồng hài nhi
trên tay, có con vẹt trắng kế gần, là một h́nh ảnh quen thuộc của
những h́nh tượng Tống Tử Quán Thế Âm hay Nam Hải Quán Thế Âm hay Phổ
Đà Quán Thế Âm hay Bạch Y Quán Âm thường thấy trong các h́nh tượng
Bồ Tát Quán Thế Âm của Trung Quốc. Ngoài ra h́nh tượng đó không có
Thiện Tài và Long Nữ theo hầu mà lại có song thân hiện diện. Sự hiện
diện của song thân Quán Âm Thị Kính gợi lên h́nh ảnh Bồ Tát Địa Tạng
như tác giả truyện thơ Quán Âm Thị Kính đă nhắc tới trong trong lời
Tựa:
Rằng Địa Tạng dốc ḷng tu
Độ cho cũng được thoát tù đấng thân
để tóm tắt truyện bồ tát Địa Tạng tu tập để cứu mẹ ra khỏi hỏa ngục,
theo kinh Địa Tạng.
Điểm đáng chú ư thứ hai là điểm Thị Kính là thân gái mà thành Phật
không cần cải biến thành thân nam tử như Long Nữ trong kinh Pháp
Hoa, hay Bát Nhă hay Thắng Man Sư Tử Hống, dẫu tác giả truyện thơ
Quán Âm Thị Kính không nhắc đến tên Thị Kính mà gọi nàng bằng pháp
danh Kính Tâm mà sư chủ tŕ chùa Vân Tự đạêt cho nàng khi nàng cải
trang làm trai đến chùa xin xuống tóc.
Điểm này phải chăng chứng tỏ là giáo chúng Việt Nam, trước cửa
Không, chẳng c̣n phân biệt nam nữ, cả hai cùng là Phật thân. Thế
nên, tín nữ về mọi mặt trên đường học đạo chẳng khác ǵ thiện nam?
Phải chăng qua hai nhận xét trên đây, truyện thơ Quán Âm Thị Kính
cũng như kiến trúc chùa Một Cột, sơ lược biểu thị đường nét Việt Nam
trong ḍng văn học mang mầu Thiền pha sắc Đạo Giáo, dựng quanh sự
tích Bồ Tát Quán Thế Âm?
Truyện Quán Âm Thị Kính không những chỉ phổ quát trong giới con Phật
mà c̣n là một đề tài nghiên cứu của hai tác giả theo đạo Công Giáo.
Một là Petrus Trương Vĩnh Kư hai là Thanh Lăng.
Theo Dương Quảng Hàm, Trương Vĩnh Kư (1837-1898) người thôn Cái
Mong, xă Vĩnh Thành, huyện Tân Ninh, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc Bến
Tre), tinh thông Pháp văn Hán văn cùng nhiều thứ tiếng ngoại quốc.
Năm 1863 được cử làm thông ngôn trong sứ bộ Phan Thanh Giản sang
Pháp. Lúc về được bổ làm giáo viên, rồi làm đốc học Trường Thông
Ngôn, Collège des interprètes, sau làm giáo viên Trường Cai Trị,
Collège des stagiaires ở Sài G̣n. Năm 1886 Đại Sứ Paul Bert triệu
ông ra Huế cho xung vào Cơ Mật Viện, để giúp việc giao thiệp của hai
chính phủ Pháp và Nam. Được ít lâu ông xin lui về nghỉ ở Nam Kỳ để
chuyên việc trước tác đến lúc mất. Tác phẩm:
Chuyện đời xưa (1866), Chuyện khôi hài (1882), Misscellées ou
Thông Loại khoá tŕnh (No. 1-12, 1888-1889), Grammaire de la langue
annamite (1883), Petit dictionnaire francais annamite (1884), Cours
dhistoire anamite, 2 vol. (1875-1877), Voyage au Tonkin en 1876,
Chuyến đi Bắc kỳ nănh (No. 1-12, 1888-1889), Grammaire
Trong tờ Thông Loại KhóaTŕnh số 6, tháng 6 năm 1888, Petrus Trương
Vĩnh Kư chép truyện Quan Âm như sau:
Quan-âm là con ông Măng-ông ở nước Cao-quận Long Tài, huyện Hồ-nam,
thành Đại-bang, tên thủa nhỏ là Tiểu Kính Tâm, lớùn lên làm bạn với
chàng Thiện-sĩ là con Sùng ông, là con ḍng cân đai, chuyên nghề văn
thi, vợ chồng vềø ăn ở với nhau như bát nước đầy, vợ th́ kim chỉ,
chồng th́ bút nghiên. Bữa kia Thiện-sĩ đọc sách khuya, mỏi lưng liền
nằm kề trên vế nàng mà ngủ. Nàng ngó thấy râu mọc ngược dưới cầm, vô
t́nh nàng lấy làm xấu mới lấy dao màhớt phứt đi. Động chàng giựt
ḿnh thức dậy, thấy nàng cầm con dao th́ sanh ḷng nghi vợ muốn cắt
họng mà giết ḿnh đi. Liền vọt miệng la lên, ông bà chạy đến hỏi th́
nàng cũ–âm là
thiệt mà khai, cho mời cha nàng tới làm tờ để giao con lại. Nàng oan
ức khóc mùi, ra lạy tạ từ giă ra về.
Nghĩ ḿnh vô duyên bạc phận, nên mới giả trai lên chùa mà đi tu. Vào
chùa lạy sư bạch tỏ nguồn cơn, xin nương cửa Phật, độ tấm thân. Đêm
ngày niệm Phật tụng kinh, chẳng c̣n mộng tưởng sự đời nữa, ở chùa
thầy đặt tên lại là Diệu Thường.
Vậy mà chưa yên phận, nạn này vừa hết lại tới nạn khác. Trong làng
kia gần chùa có phú ông có một đứa con gái tên là Thị Mầu, vô ra đi
cúng chùa, liếc thấy Diệu Thường tốt trai lịch sự, th́ phải ḷng. mà
thấy lân la trọc ghẹo hoa hoa cũng vô t́nh, đêm ngày tưởng nguyệt mơ
hoa, sóng t́nh nổi lên túng mới trai gái với thằng Thương đầu mà có
chửa ra, củ trướng càng ngày càng hiện lớn, cha mẹ hay đặng mới tra
hỏi. Nó
có tích oán ve Diệu Thường không được, nó nhè đó khai xả vô cho bơ
ghét. Làng xóm tới tra hỏi đầy nhà đông dầy dầy, hỏi nó cứ khai
rằng:
Xưa nay ở chốn thâm quê,
Dẫu ong hay bướm chưa hề biết ai
Phải khi lên chốn thiền trai
Kính Tâm tiểu ấy gặp ngoài cửa bia
Quá yêu chót lỡ nguyện thề
Nhị hoa phú mặc bướm kia ra vào
Làng dạy đ̣i tiểu Kính Tâm ra đôi co. Sư vâng lụm cụm tay lần hột
miệng niệm kinh, dẫn tiểu ra, hỏi th́ Diệu Thường thưa rằng: ḿnh đă
quyết đi tu; c̣n như trau dạ trần ai, th́ xin có đức Như Lai trên
đầu, cứ thề thốt hoài. Làng cứ lời Thị Mầu khai mà xử, đem tiểu tăng
ra mà đánh đ̣n; cứ la oan măi, mười phương Phật chín phương trời,
chẳng thấu đâu là đâu, ôm bụng mà chịu.
Thị Mầu tới kỳ, đẻ ra một thằng con trai, ẵm đến giao cho nàng nuôi
lấy. Nàng Quan Âm cũng cắn răng mà chịu. Tay bồng con người miệng
niệm kinh.
Lật bật tháng lụn ngày qua, thằng nhỏ tuổi đă lên ba. Quan Âm cứ một
ḷng nhịn nhục oan mặc ḷng, Trời Phật cảm đức người, nên mới định
rước hồn nàng về. Khi thay đồ mà liệm th́ văi mới biết là con gái
giả trai đi tu. Vào bạch sư hay, sư mới cho mời làng vào mà khám
nghiệm cho tường. Quả nhiên làm vậy, mới biết là người chân tu. Làng
đ̣i Thị Mầu với cha mẹ Thị Mầu ra; mà bắt tội phao phản cho người.
Khi chết nàng đă có viết thư trần t́nh cầm nơi tay. Sư mở ra đọc cho
thiên hạ nghe. Thị Mầu chưng hửng sững sờ; lại bày gian ra, thiên hạ
đàm tiếu nhạo cười. Thiện Sĩ và cả nhà cũng hỡi ôi, biết người ngay
mà ḿnh gian, ăn năn th́ việc đă rồi.
Ấy là gương nhơn đức nhịn nhục hiền lành, làm cho ta biết, hễ ngay
th́ ra ngay, mà gian th́ ra gian, v́ lưới trời lồng lộng, thưa mà
chẳng lọt vậy.
Petrus Kư không nói rơ đă viết truyện Quan Âm Thị Kính căn cứ theo
văn bản nào. Nhưng, sáu câu lục bát trích dẫn, giống hệt sáu câu
tương ứng trong bản Quán Âm Thị Kính do Thiều Chửu chú thích, ngoạïi
trừ ba chữ viết chính tả khác nhau. Sáu câu đó trong bản Thiều
Chửu như sau:
Xưa nay ở chốn thâm khuê
Dù ong hay bướm chưa hề biết ai
Phải khi lên chốn thuyền trai
Kính Tâm tiểu ấy gặp ngoài sau bia
Quá yêu đă chót nguyện thề
Nhị hoa phó mặc bướm kia ra vào.
Mọi t́nh tiết trong áng thơ do Thiều Cửu chú giải và bản văn xuôi
của Petrus Kư đều giống nhau, ngoại trừ một vài chi tiết tỷ như,
theo Pétrus Kư, Tiểu Kính Tâm là tên gọi Quán Âm Thị Kính khi c̣n
nhỏ, và Diệu Thường là Phật danh của Thị Kính khi cải trang đi tu và
theo bản thơ th́ Kính Tâm là pháp danh do sư cụ đặt cho thị Kính:
360Kính
Tâm tên đặêt từ nay gọi thường
Như vậy phải chăng có thể kết luận rằng Petrus Trương Vĩnh Kư đă
thuật lại truyện Quan Âm theo bản Quán Âm Thị Kính mà sau đó Thiều
Chiểu đă chú giải?
Chín mươi chín năm sau, Thanh Lăng trở lại truyện Quan Âm Thị Kinh
với mục đích Thử Thiết
Lập Một Hồ Sơ về Hai Người Con Gái, Một
Con của Phật, Một con của Chúa. Hồ sơ này xuất bản nhân dịp kỷ
niệm ngày giỗ thứ mười của Thanh Lăng, 17 tháng 12 năm 1998.
Tác phẩm cuối cùng này của Thanh Lăng đối chiếu Truyện Quán Âm Thị
Kính do Phi Nham Đĩnh Gia Thuyết đính chính và chú thích, Tân Việt
xuất bản năm 1953 với Truyện Tiêu-Du-La (Theodora). Truyện này là
một truyện viết bằng chữ nôm, gồm 1533 chữ, trích trong số gần 500
truyện các thánh Công Giáo, do Geronimo Majorica, J.S. (1591-1656),
nguời Ư, biên soạn vào khoảng năm 1632-1638 tại Kẻ Rùm Nghệ An. Kư
hiệu B13 hoặc 14395 Mass, Or., lưu trữ tại Thư Viện Quốc Gia Paris,
Pháp. Bộ sách Truyện Các Thánh này gồm 1673 trang do Vũ Văn Kính
cộng tác cùng Thanh Lăng dịch âm sang chữ quốc ngữ. Bản dịch chưa
được xuất bản và bản nôm cũng không được nhắc tới trong bộ Di Sản
Hán Nôm Việt Nam Thư Mục Đề Yếu của Trần Nghĩa và Francois Gros.
Trích lời sách Truyện Nước Annam Đàng Ngoài Cho Chí Đàng Trong,
Lisboa, 1822 của Philiphê Bỉnh, một nhà chép giáo sử Việt Nam, rời
Đàng Ngoài năm 1795 tới Lisboa, Bồ Đào Nha năm 1797 và sống tại đó
tới năm 1830, Thanh Lăng cho hay là Majorica biên soạn 48 tác phẩm
bằng tiếng Việt, với sự cộng tác của một nhà sư mà ông gọi là Ḥa
Thượng Chùa Thành Phao. Một trong những tác phẩm đó là bộ Truyện Các
Thánh. Tung tích Ḥa Thượng chùa Thành Phao không mấy rơ rệt, quê
quán cùng tên thật cùng năm sinh năm mất của Hoà Thượng không ai
biết. Riêng Philiphê Bỉnh cho hay là Hoà Thượng là tác giả bài kinh
chữ nho tục gọi là kinh Phục Dĩ, hayVăn Tế Cầu Hồn, hay nôm na là
kinh Cầu Cỗ.
Về tác giả cuốn truyện thơ Quan Âm Thị Kính, Thanh Lăng không biết
chắc là ai, và phỏng đoán là một tác giả thuộc thế hệ của Nguyễn Du,
Phạm Thái cùng Nguyễn Huy Lượng. Thanh Lăng c̣n trích dẫn Nguyễn Huệ
Chi, không cho biết từ tài liệu nào, thuật lại rằng tác giả Quan Âm
Thị Kính là Nguyễn Cấp, đậu khôi nguyên khoa thi Hương Qúy Dậu
(1813), từng làm tri phủ Thiên Trường vào những năm 1829, v́ vợ bị
t́nh nghi liên can đến một vụ án, nên Nguyễn Cấp bị kết án oan uổng
vào tội xử giảo. Trốn khỏi ngục, ông từng lưu lạc sang Trung Quốc,
rối bị trục xuất về nước, sau đó được Nguyễn Công Trứ lúc ấy làm
tham tán quân vụ Lạng Giang (1833-1835) che chở. Trong khi sống lén
lút, Nguyễn Cấp đă viết ra truyện Quán Âm Thị Kính. Thanh Lăng đặt
câu hỏi:
Vậy người con Phật Thị Kính là do ông [Nguyễn Cấp] lần đầu tiên sinh
hạ, hay ông chỉ là người giám hộ c̣n để lại một hồ sơ lư lịch của
người con gái này?
Tự Điển Văn Học Việt Nam cũa Lại Nguyên Ân và Bùi Văn Trọng Cường,
do nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1995, cho biết tiểu sử Nguyễn Cấp,
tác giả Quan Âm Thị Kính, với những chi tiết giống hệt như bản của
Nguyễn Huệ Chi và cũng không cho biết xuất xứ. Điểm đáng chú ư là
sách Quốc Triều Hương Khoa Lục có chép tiểu sử của Nguyễn Đ́nh Cấp,
giải nguyên khoa thi hương năm Quư Dậu là Nguyễn Đ́nh Cấp, ghi rơ là
ông bị cách chức tri phủ Thiên Trường v́ báo cáo man, và không ghi
ông bị xử giảo.
Thư viện Quốc Gia Pháp tăi Paris có bản Quán Âm Thị Kính do Nguyễn
Ngọc Xuân dịch sang quốc ngữ và phát hành tại Hà Nội năm 1922,
nhưng không cho biết tác giả bản nôm này là ai. Sách Di Sản Hán Nôm
Việt Nam Thư Mục Đề Yếu cho biết có 3 bản Quán Âm Chú Giải Tân
Truyện do Thịnh Văn Đường in vào năm 1868, 1878, và 1886, cùng hai
bản khác không rơ năm in, cũng không cho biết tác giả là ai.
Trở lại bản Quan Âm Thị Kính của Phi Nham Đinh Gia Thuyết đính chính
và chú thích, Thanh Lăng cho hay bản này có 788 câu thơ lục bát. Bản
Quán Âm Thị Kính do Thiều Chửu chú giải, có 796 câu thơ lục bát. Bản
do Nguyễn Ngọc Xuân dịch giống hệt bản do Thiều Chữu chú giải, nhưng
dài hơn bốn câu. Người viết hiện không có bản do Đinh Gia Thuyết
đính chính và chú thích nên không trực tiếp đối chiếu bản đó với bản
do Thiều Chửu chú giải. Tuy nhiên qua những câu Thanh Lăng trích
dẫn, thời thấy những câu này hệt như những câu tương ứng trong bản
do Thiều Chửu chú giải. Như vậy, phải chăng có thể nói được rằng
Pétrus Trương Vĩnh Kư, Nguyễn Ngọc Xuân, Thiều Chửu và Đinh Gia
Thuyết đều dùng chung một văn bản? Người viết hiện có phóng ảnh bản
Quan Âm Chú Giải Tân Truyện do nhà Thịnh Văn Đường khắc lại và in
năm Tự Đức Mậu Th́n 1868 mang mă số B 71 của Thư Viện Quốc Gia
Paris. Việc phiên âm bản nôm này đang tiến hành, kết quả sơ khởi cho
thấy bản Quốc Ngữ của Nguyễn Ngọc Xuân và Thiều Chửu, dường cùng là
những bản phiên âm từ bản nôm này. Đi t́m bản Quan Âm Thị Kính bằng
chữ nôm, của Nguyễn Cấp, theo phát hiện của Nguyễn Huệ Chi, là một
vấn đề của giới văn bản học.
Khởi đầu việc đối chiếu thánh tích Tiêu-Du-La hay Theodora với
truyện Quán Âm Thị Kính, Thanh Lăng đưa ra bản dịch thánh tích
TiêuDu-La như u–Du-La
Tháng Chín, ngày mùng hai: Bà Thánh Tiêu-Du-La truyện:
Bà thánh này là gương cho kẻ phạm tội được xem mà quê người sinh ra
ơ ûthành A-lê-san-ri-a, trong nước Y Chi Tô, là con nhà sang trọng.
Đến khi đă lớn lấy chồng, cũng là người sang trọng, mà ở cùng nhau
lâu năm, th́ một ḷng một ư, Song le ma quỷ thấy hai vợ chồng thờ
phụng Đức Chúa Trời cùng yêu nhau làm vậy, th́ nó giục ḷng thằng
kia dỗ bà ấy làm lỗi nghĩa vợ chồng. Đến khi phạm tôïi đoạn th́ bà
ấy lo buồn lắm, thiếu một ít nữa mà chết. Nhưng mà Đức Chúa Trời đă
chọn người làm thánh cả, th́ mở ḷng lấy tội làm bậc mà lên thiên
đàng. Chồng thấy vợ khó mặt th́ chẳng biết ư, lại an ủi hết sức cho
bớt được sự lo. Nhưng mà vợ thấy chồng hiền lành làm vậy, càng hổ
ngươi đau đớn lắm mà chẳng dám ngửa mặt lên xem trời, nghĩ là chịu
phạt khốn chẳng bằng tội ḿnh làm. Bỗng chốc có một ngày ấy, cắt tóc
đi cùng mặc áo đàn ông mà đi nhà thờ ngoài thành mười tám dặm đường,
là nơi thầy tu hành trên rừng vắng vẻ, mà xin vào đấy dâng ḿnh cho
Đức Chúa Trời. Song le các thầy nghĩ đàn ông th́ muốn thử ḷng mà
chẳng cho vào nhà thờ ban đêm, để ở ngoài ngơ, th́ người chịu sự ấy,
chẳng nề liều ḿnh cho sư tử ăn thịt. Đến sáng ngày, thầy cả bảo
người rằng: Mày muốn ở th́ phải làm mọi việc hèn trong nhà này, làm
bếp, kín nước, coi sóc cùng làm nhiều việc khác. Người chịu làm việc
ấy cho được đền tội ḿnh làm vậy tám năm, Người chịu lụy trong nhà,
mà vui mặt liên, cho các thầy thấy làm vậy th́ hăi mà khen. Chồng
thấy vắng mặt vợ th́ lo buồn, phần th́ nghi sự trái cho người, phần
th́ chẳng dám nghi sự ǵ, v́ biết vợ là kẻ thật thà, có nết na. Ban
đêm thấy thánh thiên thần bảo rằng, sáng ngày th́ mày vào nhà thờ mà
gặp ai trước hết, th́ nh́n mặt người ấy cho tỏ. Cùng một ngày ấy,
thầy cả bảo người vào thành mua đí ǵ, chồng liền gặp trước hết mà
chào nhau. Song le vợ biết mặt chồng mà chồng chằng biết mặt vợ, v́
bởi ăn chay gầy guộc th́ đă khác mặt. Nhưng (ǵ) mà thánh thiên thần
lại bảo người rằng: "Chớ lo sự vợ làm chi, v́ nó giữ nết chẳng có
lỗi ǵ đâu"
Phiêu-rô-la chẳng những giữ phép trong nhà thầy, lại giữ phép hơn
nữa, hay ăn chay đánh tội cùng lấy áo lông ngựa lót thịt, chịu nhăm
ḿnh liên, cho nên bảy ngày ăn chay một lần mà thôi, hằng khóc lóc
ăn năn tội xưa. Mà Đức Chúa Trời cũng cho thiên hạ biết, người có
công nghiệp đẹp ḷng Đức Chúa Trời. Như một lần ấy có con rồng ở
trong hồ ấy hay ăn thịt người ta, chẳng ai dám kín nước nơi hồ ấy,
mà thầy cả khiến người đi kín nước nơi hồ ấy, th́ người vâng. Đến
khi thấy con rồng th́ cưỡi nó mà đi kín nước giữa hồ. Đoạn bà ấy
bước lên khỏi nước th́ nó liền chết. Người ta thấy làm vậy th́ kính
người lắm, mà quỷ thấy thiên hạ khen cùng biết người hay giữ đạo.
Nên có một lần ma quỷ hiện đón người mà đe người rằng: Ngày sau tao
làm mày mất tiếng tốt mà chớ. Vậy thày cả dạy người đem ca-mê-lô đi
mà mua gạo cho các thầy ăn, ví bằng chẳng có về đến nhà th́ đỗ nhà
thờ ở giữa đường. Khi người mua gạo về th́ đă tối, mà phải vào nơi
nhà ấy mà ngủ đỗ ban đêm, th́ nằm tầu ca-mê-lô ở, coi sóc giữ nó,
Bấy giờ gái kia nghĩ là đàn ông liền t́m mà giục làm sự chẳng nên,
th́ người mắng lắm. Nó liền hổ ngươi mà đi t́m kẻ khác, ác nghiệp
cùng. Đến khi có thai th́ nó chờ đến ngày sinh mà đem con đến trước
mặt các thầy, mà cáo thầy ấy là kẻ người ta khen xưa có nết, rầy làm
điều xấu hổ cho các thầy làm vậy. Người nghe sự ấy lẽ th́ chối, song
le muốn chịu khó cho được phúc hơn nữa, th́ ở lặng chẳng chối, nên
các thầy giận xua người ra mà trao thằng bé ấy cho nuôi. Bấy giờ
người chịu xấu hổ làm vậy, nhưng mà chẳng dám ĺa nơi nhà thờ, làm
một chút lều ngoài ngơ mà ở nơi các thầy ra vào, chịu nhiếc nhục xấu
hổ. Thằng bé th́ xin sữa chiên mà nuôi, ḿnh th́ ăn những rau cỏ
trên rừng, đói khát liên, nước mắt chảy ra, cho nên gầy guộc vơ vàng
lắm. Bởi người đi nắng th́ đen như mựïc, mà quỷ thấy người mạnh sức
làm vậy, th́ nó làm nhiều chước cho bỏ lều mà về nhà quê. Có khi xui
ḷng nhớ sự sang trọng nhà ḿnh xưa, cùng tưởng chồng ḿnh hăy c̣n
trông vợ về, mà chồng những khóc chẳng có khi nào đừng, v́ chẳng
biết tin vợ ở đâu. Có khi ma quỷ lấy h́nh sư tử muốn ăn thịt người.
Có khi lấy h́nh quan trọng cưỡi ngựa có nhiều quân quốc hầu hạ, mà
khiến kính lậy ḿnh, th́ người chẳng nghe, mà quỷ liền đánh lắm, cho
nên nằm đất như chết vậy. Có kẻ thấy làm vậy th́ nghĩ là chết thật,
xin thầy cả dạy kẻ đi cất xác, song le Đức Chúa Trời lại cho giăn,
th́ thầy cả mới thương, v́ ở ngoài ngơ ấy được bẩy năm trọn, những
chịu khó cực làm vậy. Các thầy lại cho vào nhà thờ cùng con với, mà
dạy ở một pḥng chẳng cho đi đâu. Người ở làm vậy được hai năm. Đoạn
người biết ngày ŕnh khỏi xác, th́ một ngày ấy nói cả tiếng cùng
thằng nhỏ ấy. Thầy cả dậy kẻ đi nghe lời người nói, thấy nói rằng:
Con tôi đă đến ngày cha ŕnh sinh th́, phó con cho cha ở trên trời,
v́ là cha thật kẻ mồ côi, cùng phó cho thầy cả giữ nhà này, mà con
xem các thầy bằng anh vậy, chớ muốn cho người ta khen con. Đức Chúa
Trời khen th́ hơn. Con muốn sự ấy th́ chịu người ta làm xấu hổ mới
được, chớ mê ngủ cùng ăn uống, yêu mặc áo xấu xa, chớ yêu sự thế
gian, sốt chớ làm biếng đọc kinh lần hạt, chớ cáo sự trái cho anh em
bao giờ, ai nói con sự ǵ th́ thưa có nết, mà cúi đầu xuống xem dưới
đất; thấy ai phạm sự ǵ lỗi, th́ chớ chê cười làm chi. Muốn khỏi sự
phiền, th́ khóc lóc cùng Đức Chúa Trời. Thấy ai chẳng giữ đạo, th́
nguyện cho người ấy, năng đi viếng kẻ liệt, làm việc các thầy như
tôi tá vậy. Bao giờ mà quỷ cám dỗ con, th́ nguyện xin sức bề trên mà
cho khỏi nó. Đoạn linh hồn trọng ấy ra khỏi xác, sinh th́. Con thấy
làm vậy nghĩ là cha ḿnh th́ khóc lóc cả tiếng, mà các thầy đă nghe
lời khi trước, th́ bảo thầy cả cho được hay. Song le Đức Chúa Trời
tỏ mọi sự người ra cho thầy cả biết, cùng cho thấy phúc đức đă được
trên trời. Bấy giờ thầy cả nói sự ấy cùng các thầy, liền vào pḥng
mà làm phúc cho người. Thiên hạ mới biết là đàn bà, th́ thương mà
kính người lắm, khen phúc đức cùng tiếc để bẩy năm chịu những sự
khốn khó, mà chẳng ai thương. Các thầy mọi nhà thờ chung quanh, mắng
tiếng sự ấy liền đến, mà hôn cùng cất xác. Khi ấy thầy cả cắt một
người đi bảo chồng cho được hay, th́ người đă biết trước, mà thánh
thiên thần đă bảo, mà thấy kẻ mười bẩy năm trông xem mặt, mà rầy đă
chết, th́ khóc lóc than thở những lời thương khó, cho nên kẻ ở đấy
thấy người khóc lóc th́ cầm nước mắt chẳng được. Đoạn người xin phó
ḿnh cho nhà Đức Chúa Trời, mà ở một pḥng bà ấy đă sinh th́. Đoạn ở
đây cho đến trọn đời. Thằøng bé kia nghe lời bà thánh Phiêu-rô-la
dạy, th́ nên người mà ngày sau cai các thầy. Ơn Đức Chúa Trời cho kẻ
yếu đuối sức mọn th́ được ăn năn tội nên, giữ nết làm vậy, cùng khỏi
hết chư rằng: “Ngày sau
Từ Đức Chúa Giê-su ra đời đến bà thánh này khỏi bốn trăm mười bẩy
năm.
Thanh Lăng đối chiếu truyện Quan Âm Thị Kính, bản của Phi Nham Đinh
Gia Thuyết với Truyện Thánh Tiêu-Du-La hay Theodora và đề ra mười
lăm điểm tương ứng, tóm tắt như sau.
1. Quê Quán:
Quan Âm Thị Kính quê quán tại nước Cao Ly:
27Cơi
trần mược cửa thác vào
Hóa sinh sinh hóa lẽ nào cho hay
Cao Ly là nước lớn thay
Đại bang thành vốn xưa nay gọi là
Lũng Tài quân ấy bvao xa
32Hồ Nam huyện Bắc có nhà Lăng Ông
Tiêu-Du-La quê quán tại thành Alexandria, nước Ai Cập
2. Cha Mẹ Gia Cảnh:
Quán Âm Thị Kính: "có nhà Măng Ông, gia tư th́ cũ: “có trung".
Tiêu-Du-La là "con nhà sang trọng"
3. Hôn Nhân:
Quan Âm Thị Kính lấy anh học tṛ tên Thiện Sĩ, con trai nhà họ Sùng,
theo đúng tục lệ Việt Nam.
Tiêu-Du-La lấy chống cũng là người sang trọng, vợ chồng ăn ở cùng
nhau một ḷng một ư.
4. Biến Cố Chính Gây
Đổ Vỡ:
Quán Âm cầm dao toan cắt sợi râu mọc ngược cho chồng đang ngũ gật,
Thiện Sĩ chợt tỉnh dậy kêu la Thị Kính toan ám hại ḿnh:
Thất thần nào kịp hỏi han
Một lời la lối rằng toan giết chồng.
Tiêu-Du-La bị Ma Quỷ quyến rũ vào ṿng ngoại t́nh: Ma
qủy thấy hai vợ chồng thờ phụng Đức Chúa Trời cùng yêu nhau làm vậy
th́ nó giục ḷng thằng kia dỗ bà ấy làm lỗi nghĩa vợ chồng.
5. Diễn Biến Sau Biến
Cố Chính:
Thị Kính cố t́nh minh oan nhưng rồi cũng bị nhà chồng buộc tội ngoại
t́nh: 166Nay Trương mai Lư thế gian hiếm ǵ.
Tiêu-Du-La bị lương tâm cắn rứt muốn tự tử mặc dầu chồng không hay
biết tội lỗi của nàng và vẫn một ḷng chiều chuộng.
6. Cải Trang Thành Con
Trai Bỏ Nhà Ra Đi:
Bị trả về nhà cha mẹ ruột, Thị Kính một ḷng:
271Xuất
gia quyết một gan liền
Phụ t́nh đới nguyệt bước lên dặm đường
Quần chân áo chít dịu dàng
Giả h́nh nam tử ai tường căn nguyên.
Tiêu-Du-La: Bỗng chốc
có một ngày ấy cắt tóc đi cùng mặc áo đàn ông mà đi nhà thờ ngoài
thành 18 dăm đường là nơi thầy tu hành trên rừng vắng vẻ.
7. Đi Tu Tại Miền Đất Xa Xôi:
Sau nhiều ngày đường Thị Kính tới nơi:
313Chân
Tời đất khách đă lâu
Chiêm bao lẩn thẩn ở đâu quê nhà
Hỏi thăm dặm liễu dần dà
Ngờ đâu văn tự chẳng là ở đây
Bốn bề phong cảnh lạ thay
318Bồng lai th́ cũng thế này mà thôi.
Tiêu-Du-La đi nhà thờ ngoài thành mười tám dặm đường là nơi thầy tu
hành trên đường vắng vẻ mà xin vào đấy dâng ḿnh cho Đức Chúa Trời.
8 . Thử Thách Trước Khi Nhận Cho Tu:
Sư Cụ hỏi Thị Kính lư do xin xuống tóc đi tu:
331Sư
rằng này đạo từ bi
Rộng đuờng phổ độ hẹp ǵ trần duyên
Nhưng sao đương độ thiếu niên
Nh́n xem phong thể cũng nên con người
Cớ chi nhà lối xa khơi
336Đem ḿnh đài các vào nơi lâm tuyền?
Thế rồi Thị Kính cũng được sư cụ nhận đặt pháp danh là Kính Tâm và
nhận cho ở chùa tu hành:
368Kính
Tâm tên đặt từ nay gọi thường.
Tiêu-Du-La cũng qua một cuộc thử thách:
Các thầy ngỡ đàn ông th́ muốn thử ḷng mà chẳng cho vào nhà thờ, ban
đêm để ở ngoài ngơ th́ người chịu sự ấy chẳng nề liều ḿnhcho sư tử
ăn thịt. Đến sáng ngày, thầy cả bảo người rằng: mày muốn ở th́ phải
làm mọi việc hèn trong nhà này: làm bếp, kín nước, coi sóc mọi việc.
9. Cuộc Sống Nơi Tu Tŕ.
Chú tiểu Kính Tâm dốc ḷng tu tập, dẫu đôi khi c̣n thoảng vướng ḷng
trần:
369Vâng
lời nương cảnh thượng phương
Khêu đèn Bát Nhă gióng chuông tham thuyền
Chân kinh ghi chữ tâm truyền
Trực ṭa Long Nhiễu vui miền Hổ Khê
Đ̣i cơn tưởng nỗi hương quê
Người đi ngàn dặm ḷng về năm canh
Sự ḿnh ḿnh ngỏ với ḿnh
Nặng t́nh cũng phải nén t́nh làm khuây
Này gươm trí tuệ mài đây
Bao nhiêu nỗi khổ cắt ngay cho rồi
Hương xông pháp giới ngùi ngùi
380Thông rung trống kệ trúc hồi mơ kinh
Thế rồi run rủi, Tiểu Kính Tâm gặp Thị Mầu, con gái một phú ông,
tính nết vốn lẳng lơ đa t́nh, những ước mơ cùng Tiểu Kính Tâm:
407Nếu
không phải kiếp Châu Trần
Th́ xin một trận phong vân cũng nhờ.
Tiểu Kính Tâm đạo hạnh hững lờ với Thị Mầu, khiến Thị Mầu:
419Trong
nhà sẵn đứa thương đầu
Quyền uy một chút dễ hầu ai hay
Thế rồi bụng Thị Mầu mỗi ngày một to, bị cha mẹ tra hỏi, rồi bị làng
bắt vạ.
Tiêu-Du-La sống tám năm trong ḍng khổ tu, ăn chay, đánh tội, chịu
lụy, khóc lóc ăn năn tội xưa. Đă có một lần gặp mặt chồng cũ, song
le vợ biết mặt chồng mà chồng chẳng biết mặt vợ. Tuy nhiên,
Tiêu-Du-La cũng được một lần tôn vinh. Dó là dịp Tiêu-Du-La đi kín
nước tại hồ giữa rừng hoang mà lại có rồng dữ, nhưng con rồng dữ đưa
lưng cho Tiêu-Du-La cưỡi, đưa ra tận giữa hồ kín nước, rồi lại đưa
vào bờ, vào đến bờ th́ rồng lăn ra chết, khiến người quanh vùng
không c̣n lo rồng làm hại, và Tiêu-Du-La được tôn vinh
10. Bị Vu Cáo Thông Dâm
Bị làng bắt vạ, Thị Mầu khai:
493Phải
khi lên chốn thuyền trai
Kính Tâm tiểu ấy gặp ng̣ai sau bia
Quá yêu đă chót nguyện thề
Nhị hoa phó măc bướm kia ra vào.
Lời khai này khiến tiểu Kính Tâm bị làng đánh đ̣n, nhưng tiểu vẫn
chẳng mở miệng nói sự thực cốt giữ trọn đường tu, dầu thân thể bị
hành
hạ,ï thanh danh bị ô nhục,
531Thằng
roi đứa nọc tức th́ truyền mau
Làm cho chín khúc cũng đau
Đào nhăn nhó mặt liễu cao có mày.
Thầy bề trên sai Tiêu-Du-La mang tiền cỡi lạc đà đi mua gạo đường
xa. Tối đến phải ngủ trọ dọc đường ngay trong tầu lạc đà. Một nàng
lẳng lơ t́m đến cám dỗ thầy ḍng trẻ. Bị thầy ḍng mắng mỏ, cô gái
mất nết trao thân cho một tên lưu manh.
11. Trục Xuất Khỏi Nơi Tu Tŕ
Sợ tiểu Kính Tâm chết dưới trận roi làng, sư cụ mở lượng từ bi bảo
lănh:
547Áo
xiêm xem đă tơi bời
Thương thay sư mới cất lời van lơn
Thưa rằng làm phúc nào hơn
Mở ḷng Bồ Tát dẹp cơn lôi đ́nh
Khoán làng xin nộp phân minh
Dại khôn xin hăy thử t́nh một phen
Về chùa sư cụ bảo Kính Tâm:
562Rằng
con đă mắc tiếng người chê bai
Tam quan ra ở mái ngoài
Kẻo e miệng thế mỉa mai đến thầy.
và Tiểu Kính Tâm:
569Vâng
lời ra ở tiền môn
để
571Nương
ḿnh bên cụm cúc hoa
Một hai trồi trúc năm ba khóm tùng
với:
576Quyển
kinh trăm lá ngọn đèn một hoa
làm thú giải phiền và suy ngẫm:
591Chữ
rằng nhẫn nhục nhiệm ḥa
Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu
Rồi tới ngày:
597Tiểu
đương tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ khóc lên giật ḿnh
Ngoảnh đi th́ dạ chẳng đành
Nhận ra th́ hóa ra t́nh chẳng ngay
Gớm thay mặt dạn mày dầy
612Trân
trân rằng trả con đây mà về
Trước cảnh đó, tiểu Kính Tâm đă lựa chọn:
613Cơ
thuyền kể đă khắt khe
Khéo xui ra đứa mà rê riếu ḿnh
Nhưng thời trong dạ hiếu sinh
Phúc thời làm phúc dơ đành chịu dơ
Cá trong vại nước bơ vơ
Thời nay chẳng cứu c̣n chờ khi nao
Chằng sinh cũng chịu cù lao
620Xót t́nh măng sữa nưng vào trong tay.
Lựa chọn này của tiểu Kính Tâm, khiến sư cụ cũng phải nghi ngờ ḷng
trong trắng của tiểu:
621Bữa
sau sư cụ mới hay:
Dạy: như thế ấy th́ thầy cũng nghi
Nếu như khác máu du th́
624Con ai mặc nấy can ǵ đa mang
và t́nh đời:
639Đến
đâu ai cũng chê cười
Tiểu kia tu có trót đời được đâu.
tiểu Kính Tâm vẫn lo nuôi con nhện chu tuyền.
Về phía Tiêu-Du-La, người con gái mất nết, sinh nở xong mang tới cửa
nhà thờ ném con trả thầy Tiêu-Du-La. Thầy ḍng Tiêu-Du-La im lặêng
không một lời gỡ tội v́ thế bị đuổi ra khỏi tu viện:
Các thầy giận xua người ra mà trao thằng bé ấy cho mà nuôi. Bấy giờ
người chịu xấu hổ làm vậy, nhưng mà chẳng giám ĺa nơi nhà thờ, làm
một chút lều ngoài ngơ mà ở nơi càc thầy ra vào chịu nhiếc nhục xấu
hổ. Thằng bé ấy th́ xin sữa chiên mà nuôi, ḿnh th́ ăn những rau cỏ
trên rừng, đói khát liên, nước mắt chẩy ra làm cho nên gầy guộc vơ
vàng lắm ...
Bẩy năm ḍng dă, nuôi con người trong túp lều đầu ngơ nhà thờ, thầy
ḍng Tiêu-Du-La c̣n tiếp tục bị ma quỷ đến trích thuật dụ dỗ:
Quỷ nó thấy người sức mạnh làm vậy th́ nó làm nhiều chước cho người
bỏ lều ấy mà về nhà quê, có khi xúi ḷng người nhớ sự sang trọng nhà
ḿnh xưa cùng tưởng chồng ḿnh hăy c̣n trông vợ về mà chồng những
khóc lóc chẳng có khi đừng, v́ chẳng biết vợ ở đâu, có khi ma quỷ
lấy h́nh sư tử muốn ăn thịt người, có khi lấy h́nh quan sang trọng
cỡi ngựa có nhiều quân quốc hầu hạ mà khiến người kính lậy ḿnh th́
người chẳng nghe mà qủy liền đánh lắm cho nên nằm đất như chết vậy.
12. Thư Minh Oan Và Lời Trối Trăngï
Ṭ ṿ nuôi nhện đến ngày nhện sởn sơ, th́ cũng là ngày tằm đă kéo
hết tơ. Biết ḿnh đă tới ngày tận số, tiểu Kính Tâm
667Gọi
con từ giă mọi đường
Bút hoa mới viết ba hàng văn nguyên
Phong thư dạy dỗ cần quyền
670Cầm tay rồi đoạn t́m lên quê nhà
rồi liền đó:
673Dứt
lời thoát đă chia tay
Hương hồn đă sẵn xe mây rước về.
Tiểu Thị Kính viên tịch, lá thư minh oan tới tay sư cụ. Sư cụ cho
người đưa thư này về song thân Thị Kính. Tinnày loan ra, Thị Mầu xấu
hổ liều ḿnh như vợ thầy Trang.
T́nh tiết trong truyện Tiêu-Du-La, tương ứng với đoạn Quán Âm Thi
Kính trên đây, chuyển tiếp theo một hướng khác. Thầy ḍng Tiêu-Du-La
ŕnh biết ḿnh đến phút sinh th́, goị người con nhện đến bên trối
trăng. Thầy không một lời nói tới bản thân, mà chi một mực nhắm vào
đứa con qua ba diều di chúc. Một là: phó con cho cha ở trên trời, v́
là cha thật kẻ mồ côi, cùng phó cho thầy cả giữ nhà này mà con xem
các thầy bằng anh em vậy. Hai là: Chớ muốn cho người ta khen, Con
Đức Chúa Trời khen th́ hơn. Con muốn được sự ấy, th́ chịu người ta
làm xấu hổ mới được, chớ mê ngủ cùng ăn uống, yêu mặc áo xấu xa, chớ
yêu sự thế gian sốt, chớ làm biếng đọc kinh lần hạt. Ba là: Chớ cáo
sự trái cho anh em bao giờ, ai nói con sự ǵ th́ thưa có nết mà cúi
đầu xuống xem dưới đất, thấy ai phạm sự ǵ lội th́ chớ chê cười làm
chi. Muốn khỏi sự phiền th́ khóc lóc cùng Đức Chúa Trời. Thấy ai
chẳng giữ đạo th́ nguyện cho người ấy. Năng đi viếng kẻ liệt, làm
việc các thầy như tôi tá vậy. Dứt lời th́ linh hồn trọng ấy ra khỏi
xác sinh th́.
13. Thân Nữ Hoàn Thân Nữ.
Từ lúc biết tin
681Kính
Tâm chầu Phật đi rồi
Sư cụ nghĩ thương t́nh, cho người xem sóc cứ theo lẽ thường, văi bà
mới hay tiểu Kính Tâm chính là người nữ.
689Săi
vào nói với làng ngay
Quả nhiên xóm nọ thôn này đổ ra
Thiện nam tín nữ lăo bà
Đều rằng tu thế mới là chân tu.
Với Tiêu-Du-La, các thầy vào pḥng mà làm phúc cho người: thiên hạ
mới biết là đàn bà, th́ thương mà kính người lắm, khen phúc đức cùng
tiếc để bẩy năm chịu những sự khốn khổ mà chẳng ai thương, các thầy
mọi nhà thờ ở chung quanh mắng tiếng sự ấy liền đến mà hôn cùng cất
xác.
14 Tôn Vinh.
Kính Tâm không c̣n là một chú tiểu bị mọi người chê cười, mà được:
750Đức
Thế Tôn hiện toàn thân xuống đàn
Vần vần tỏ dáng tường loan
Tràng phan bảo cái giao quan âm thầm
Truyền cho nào tiểu Kính Tâm
Phi thăng làm Phật Quan Âm tức th́
Thầy ḍng Tiêu-Du-La bỗng trở thành thánh nữ Tiêu-Du-La, làm gương
cho kẻ phạm tội được xem. Sách Truyện Các Thánh ghi: từ Đức Chúa Giê
Su ra đời cho đến bà thánh này khỏi bốn trăm bẩy mươi bốn năm.
15. Ban Thưởng Cho Thân Nhân.
Khi Đức Thế Tôn hiện thân xuống đón tiểu Kính Tâm phi thăng làm Phật
Quán Âm th́ cả nhà Thị Kính, cùng đứa tiểu nhi cũng được thăng
thoát:
785Lại
thương đén đứa tiểu nhi
Lên tay cho đứng liền khi bấy giờ
Ḱa như Thiện Sĩ lờ đờ
Cho làm chim vẹt đứng nhờ một bên
Độ cho haio đám xuân huyên
790Ra tay cầm quyết bước lên trên ṭa
Người chồng cũ của Thánh Tiêu-Du-La được mời tới gặp mặt vợ: Thầy
cả cắt một người đi bảo cho chồng đuợc hay th́ người đă biết trước
mà thánh thiên thần đă bảo mà thấy kẻ mười bẩy năm trông xem mặt mà
rầy đă chết th́ khóc lóc than thở những lời thương khó cho nên kẻ ở
đấy thấy người khóc lóc th́ cầm nước mắt chẳng được. Đoạn người xin
phó ḿnh ở nhà Đức Chúa Trời mà ở một pḥng bà ấy đă sinh th́.
Đứa con hoang mà thánh nữ Tiêu-Du-la nuôi nấng sau đó trở thành thầy
cả bề trên.
Tiếp theo phần đối chiếu truyện Quàn Âm Thị Kính với truyện thánh nữ
Theodora, mà Thanh Lăng dịch ngược sang tiếng Pháp từ tên nôm
Tiêu-Du-la, theo quy tắc ngữ học chữ nôm dùng phiên âm các tên
thánh. Thanh Lăng dùng hai cuốn tự điển, một là cuốn Dictionnaires
des Saints, hai là cuốn Dictionnaire Petit Robert, phần Histoire et
Géographie, cả hai cùng không đề cập tới thánh nữ Theodora. Ngoài
ra, Thanh Lăng tiếp tục tham khảo cuốn Fleurs des Saints, một cuốn
truyện các thánh. Sách này có đề cập tới thánh nữ Theodora, nhưng
thánh tích không chút tương đồng với truyện thánh Theodora, mà Thanh
Lăng gọi là Theodora
Việt Nam, chép trong sách của Majorica và do Hoà Thượng chùa
thành Phao chép lại bằng chữ
nôm.
Tiếp tục công tŕnh nghiên cứu của Thanh Lăng, là mục tiêu của phần
kế tiếp. Từ phát hiện của Thanh Lăng dịch ngược tên thánh Tiêu-Du-La
thành Theodora, người viết cảo luận, qua máy điện toán của thư viện
trường McGill, đă t́m ra được cuốn Women
of the Gilte Legende: A Selection of Miđle English Saints Lives của
Larissa Tracy, do nhà xuất bản D.S. Brewer, Cambridge, phát hành
năm 2003. Sách này tŕnh bày truyện tám vị thánh nữ công giáo, trong
số đó tác giả chọn lựa năm vị thánh nữ cùng cải trang thành đàn ông,
và trong số năm vị nữ thánh đó có ba vị bị cáo gian về tội thông dâm
trong thời gian cải nam trang, và tu tŕ trong tu viện. Cả ba vị
thánh nữ này cùng im lặng chịu đựng h́nh phạt và việc hàm oan này
chỉ được phơi bày sau khi các vị thánh đó đă về nước Chúa. Ba vị nữ
thánh đó là Thánh Theodora, Thánh Marina và thánh Margaret Pelagia.
Larissa Tracy cho biết sách Gilte Legende, viết bằng tiếng Anh cổ,
xuất xứ từ sách Legenda Aurea của Jacobus de Voragine nguyên bản
bằng tiếng La tinh. Giới nghiên cứu sách công giáo thời trung cổ cho
hay Jacobus de Voragine (1231-1298) là Tổng Giám Mục tại Genoa, Ư
Đại Lợi (1292-1298), được phong thánh vào năm 1897. Trong khoảng
thời gian từ 1470 tới 1530 sách Golden Legend từng là một trong
những cuốn sách được xuất bản nhiều nhất tại Âu Châu, sau hai cuốn
Cựu Ước và Tân Ước. Ngày nay giới nghiên cứu về văn bản cho biết có
hàng ngàn cuốn Golden Legend c̣n tàng trữ tại các thư viện hay tu
viện lớn. Sách Golden Legend được dịch sang tiếng Ư, Pháp,
Provencal, Catalan, Đức, Ḥa Lan, Anh, Bohémien, Irlandais, Ả rập
cùng nhiều thứ tiếng khác.
Larissa Tracy cho biết Jacobus de Voragine đă viết sách Legenda
Aurea từ những tác phẩm của các Thánh Ambroise và Thánh Jerome, và
tư liệu chính là sách Ecclesiatical History của Eusebius, sách
Tripartite History của Cassio-dorus và sách Scholastic History của
Peter Comestor, cùng những truyện truyền miệng trong dân gian. Ngoài
ra c̣n nhiều sự tích các thánh khác do chính ông viết ra.
Đề sách Legenda Aurea, dịch sang tiếng Anh là Golden Legend , tiếng
Pháp là La Légende Dorée, cùng hàm nghĩa là sách quư như vàng, tương
tự như sách chép truyện truyền kỳ Trung Quốc mang tựa đề là Bảo
Quyển.
Nhiều người dịch sách tự ư đưa vào trong sách dịch thêm nhiều truyện
vốn không có trong nguyên bảnTrong nguyên bản chỉ có 182 truyện,
sang tới bản in năm 1470 có 280 truyện. Bản dịch tiếng Pháp năm 1480
có 440 truyện, bản dịch tiếng Anh của Caxton gồm 448 truyện. Bản chữ
nôm của Marjorica viết trong khoảng 1632-1638 gồm ngoài 400 truyện.
Bởi thế có sự tích thánh này chép trong bản dịch này có thể không
t́m thấy trong bản dịch khác.
Ảnh hưởng của Legenda Aurea rất lớn mạnh tại Âu Châu trong hai thế
kỷ XIII và XIV. Sách này là nguồn cảm hứng cho nhiều họa sỉ nổi
danh: ngày nay có người đă t́m ra được trong ngoài 6000 họa phẩm,
không kể hàng ngàn bức họa bằng kính mầu tại các nhà thờ. Ngoài ra
c̣n nhiều văn bản và kịch bản dựa trên sách này. Sau đó suốt sáu
trăm năm kế tiếp, sách của Jacobus de Voragine ch́m trong quên lăng
tại Âu Châu. Trong quên lăng đó Majorica và Ḥa Thượng Thành Phao đă
có công đưa Truyện Các Thánh, qua chữ Nôm, vào ḍng văn học Truyền
Thống Việt Nam. Hiện nay, trong thế kỷ XXI, đang có phong trào t́m
đọc và dịch lại sách Legenda Aurea tại Âu Châu.
Sự tích ba thánh nữ Theodora, Marina và Margaret Pelagia do Larissa
Tracy dịch sang tiếng Anh đều dịch từ bản tiếng Anh cổ, mang số mă
MS Harley 630 của British Library và bản mang số mă MS Harley 319
của Dublin Library. Bản dịch này là một phần trong luận án tiến sĩ
của Larissa Tracy tại Trinity College, Dublin.
Sự tích của ba Thánh Nữ này có nhiều chi tiết khác nhau, măc dầu có
chung một cốt truyện dựng trên hai điểm chính:
· vai nữ chính cải trang thành đàn ông để đi tu,
· bị cáo gian tội thông dâm và được giải oan sau khi về nước Chúa và
thành thánh.
Truyện ba nữ Thánh này như sau.
TRUYỆN THÁNH MARINA
Thánh nữ Marina là một trinh nữ, con gái độc nhất của một nhà quí
tộc. Sau khi mẹ chết, cha nàng cải trang nàng thành đàn ông và cùng
ông vào tu trong đền thánh. Mọi người đều nghĩ nàng là trai. Thân
phụ nàng xin thầy cả bề trên cho này cùng tu vói ông v́ ông không
c̣n đầu con nào khác. Cả hai cha con cùng được nhận và
nàng thành sư huynh Marinus.
Marina sống một cuộc sống thánh thiện, theo trọn đức vâng lời. Khi
nàng hai mươi bẩy tuổi, cha nàng đau nặng và cảm thấy sắp đến lúc
sinh th́. Ông gọi con gái tới trối trăng, bắt nàng hứa là không bao
giờ cho ai biết nàng là con gái. Thế rồi ông về nước Chúa. Marina
tiếp tục cuộc đời tu hành cùng các sư huynh, không ai ngờ nàng là
gái giả trai.
Nàng thường cùng các sư huynh đánh xe ḅ vào rừng đốn củi rồi tải về
đền thánh. Như thường lệ, mỗi lần đi đốn củi, mấy thầy ḍng đều về
trọ qua đêm tại nhà một giáo hữu. Giáo hữu có một người con gái đang
mới mang thai cùng một vệ binh nhà vua. Khi không c̣n giấu diếm nổi
nữa, người con gái mất nết đoan kết với cha nàng là sư huynh Marinus
là cha bào thai. Cha mẹ người con gái mất nết tin con, đau sót cùng
đến gặêp thầy cả bề trên tŕnh bày sự việc. Thầy cả bề trên, phần
xấu hổ phần đau đớn cho gọi sư huynh Marius lên hỏi tội tầy trời
này. Sư huynh Marinus nhẫn nhục trả lời: "Tŕnh cha, con cầu xin
Chúa thương xót con đă phạm tội". Thầy cả bề trên nghe vậy, nổi giận
và ra lệnh đuổi sư huynh Marinus ra khỏi đền thá huynh
Sư huynh Marinus dựng một túp lều ngoài cổng đền thánh và ở dó suốt
ba năm, hàng ngày các thầy trong đền thánh vứt cho sư huynh một mẩu
bánh Khi đứa trẻ ra đời, người ta bồng lên đền thánh trao cho sư
huynh bề trên, người ra lệnh trao cho sư huynh Marinus và bắt sư
huynh phải nuôi dưỡng quư tử do sư huynh đă sinh ra. Sư huynh
Marinus nhẫn nhục kiên tŕ nuôi dưỡng đứa trẻ, hôn hít, nựng nịu và
cám ơn Chúa đă ban cho người mọi sự. Sau hai năm, các thầy trong
ḍng tu, cảm kích về đức nhẫn nhục và kiên tŕ của thầy Marinus,
cùng xin sư thầy cả trên tha thứ và cho thầy trở về đền thánh. Sau
rồi thầy cả bề trên cũng mềm ḷng thuận theo lời cầu xin của chư
huynh, nhưng vẫn giao cho sư huynh Marinus mọi công việc khó nhọc
nhất trong đền thánh. Sư huynh Marinus vẫn dốc ḷng nhẫn nhục kiên
tŕ đảm nhiệm mọi việc giao phó cho tói ngày sinh th́.
Chư huynh lên xin chỉ thị thầy cả bề trên để tống táng sư huynh
Marinus. Thầy cả bề trên ra lệnh cho chôn sư huynh Marinus ngoài
khuôn viên vườn thánh, v́ Marinus đă phạm trọng tội, nên không được
chôn cất cùng chỗ với chư huynh
khác.
Theo thông lệ, phải rửa ráy xác sư huynh Marinus, lúc đó mọi người
mới hay sư huynh Marinus là thân gái. Chư huynh ngạc nhiên vội chạy
lên tŕnh thầy cả bề trên: "Tŕnh cha xin cha xuống xem sự lạ của
Chúa" Thầy cả bề trên ngỡ ngàng trước lời tŕnh. Đến khi nh́n rơ
thấy thi thể sư huynh Marinus là thi thể phụ nữ, th́ người vội quỳ
gối ăn năn , xin Marina tha thứ cho người v́ những h́nh phạt người
đă bắt Marina phải chịu đựng. Nước mắt dàn dụa ngày nói:"Ớ nữ tỳ
thánh thiện của Chúa tôi, tôi thực lầm lớn đă dám cất lời dạy bảo
một đấng trinh nữ thánh thiện. Xin tha tội cho tôi, tôi thực có tội
với Chúa và với người! Người đă nói 'Tŕnh cha con đă phạm tội'.
Nhưng bởi ta nhầm lẫn, nên đă nói rằng xác người phải mang vù:
“Tŕnh nơi uế tạp.
Trinh nữ thánh thiện! Người xứng đáng ngự nơi cao trọng thanh tịnh
nhất trong đền thánh này, v́ người là niềm vui, ngưởi là đấng tôn
sùng của chúng tôi". Thế nên, chư huynh rửa rấy tẩm liễm xác Marina
rồi rước sang nhà nguyện. Lúc đó chuông nhà nguyện không người kéo
bỗng reo vang cho tới khi thánh thể chôn sâu trong ḷng đi.”
Thiếu phụ đă cáo gian thánh nữ Marina bị quỷ hành, phải tới trước mộ
thánh Marina thú tội mới lành bệnh. Nhiều người tới bên mộ thánh nữ
đồng trinh Marina cầu nguyện khen ngợi Chúa. Nhiều phép lạ đă thực
hiện. Ngày thánh Marina về với Chúa là ngày 14 tháng bẩy. Đến đây
chấm dứt truyện thánh Marina.
Giới nghiên cứu t́m thấy nhiều dị bản Truyện Thánh Marina tàng trữ
tại nhiều thư viện lớn trên thế giới. Theo Moubarak, trước khi sinh
th́ thánh Marina viết một bức thư gửi chư sư huynh. Thư rằng: "Tôi
là một người nữ. Tôi vào ḍng tu cùng cha tôi. Tôi bị cáo gian. Tôi
tự nguyện nuôi hài nhi này. Xin chư sư huynh đừng cởi bỏ y phục của
tôi". Tiếp tới làrằng:
TRUYỆN THÁNH THEODORA
Theodora là một phụ nữ ḍng quư tộc tại Alexandria, dười triều hoàng
đế Zeno. Nàng thành hôn với một nhà cự phú và nhờ ơn Chúa sống trong
nhung lụa. Ghen với nàng được ơn Chúa, quỷ Satan xui khiến một nhà
cự phú khác say mê nàng, gửi quà cáp t́nh thư để quyến rũ nàng. nàng
quyết không nhận thư cùng quà cáp. Nhà cự phú say mê nàng không nản
ḷng tiếp tục chinh phục nàng, khiến nàng như có phần siêu ḷng. Sau
hết, nhà cự phú đó khiến một người khéo nói tới găp nàng, xin nàng
thương hại và thuận t́nh cùng ông đó. Khi nghe nàng nói là nàng
không thể nào phạm tội trước mắt Chúa, th́ người mối nói rằng "Tôi
biết rơ là Chúa nh́n thấy mọi điều chúng ta làm lúi rằng thiên bạch
nhật. Khi tối, tắt ánh sáng mặt trời th́ Chúa không nh́n thấy ǵ xẩy
ra nữa Theodora nói với người mối: "Người không nói thực" Người mối
nói: "Tôi nói thực." Theodora tin lời ngưởi mối và hẹn găp nhà cụ
phú vào buổi tối và nàng sẽ cho người ấy thoả nguyện. Được lời người
mối, nhà cự phú vui mừng khôn xiết. Đúời hẹn dến gặp nàng, hợp hoan
rồi ra đi.
Khi Theodora tỉnh giấc, nàng khóc tấm tức, tự tát vào mặt, thổn
thức: "Khốn nạn cho tôi, khốn nạn cho tôi v́ tôi đă để mất linh hồn
và làm nhơ nhọ tên tuổi". Chồng nàng về tới nhà và thấy vợ đau đớn
khóc lóc mà chẳng biết duyên do. Chàng lên tiếng dỗ dành, nhưng nàng
chẳng muốn nghe. Ngày hôm sau nàng đến tu viện các nữ tu và hỏi mẹ
bề trên rằng đêm tối Chúa có nh́n thấy con người phạm tội hay không.
Mẹ bề trên cho nàng hay là chẳng có việc ǵ là có thể giấu Chúa được
v́ Chúa nh́n thấy, Chúa biết rơ mọi việc người ta làm, ngày cũng như
đêm. Theodora càng khóc tức tưởi và nói: "Xin mẹ cho con cuốn Tân
Ước để con chọn lựa con đường con đi". Nàng mở cuốn Kinh Thánh và
đọc ba chữQuod scripsi scripsi, nghĩa là điều
ǵ viết ra là đă viết ra. Nàng quay về nhà, rồi nhân buổi chồng
đi vắng, nàng cải trang thành đàn ông và đi tới một đền thánh cách
nhà chừng bẩy dặm, và xin đi tu. Người ta hỏi tên nàng khai là o
Nàng tuân hành mọi điều sai phái và làm tất cả mọi
việc giao phó, ai ai cũng đều hài ḷng với công việc nàng làm. Một
năm sau, cha bề trên sai nàng đánh xe ḅ ra tỉnh mua dầu. Trong thời
gian đó, chồng nàng nghĩ là nàng bỏ nhà đi theo người khác. Thiên
thần của Chúa hiện xuống nói với ông: "Sáng mai dậy sớm ra đứng tại
ngă tư đường các Thánh Tử V́ Đạo Phero và Phao Lồ và người mà mi gặp
đó là vợ mi". Theodora cỡi lạc đà đi trên đường, nhận ra chồng và tự
nhủ: "Khốn nạn cho ông chồng tốt của tôi, làm sao cho tôi chuộc lại
nổi tội lỗi tôi đă phản bội chàng?" Khi chàng đi đến gần nàng th́
nàng lên tiếng chào: "Cầu Chúa tôi cho ngài được an lạc". Nhưng
chồng nàng không nhận ra được nàng. Chàng chờ thêm một lúc lâu rồi
chán nản bỏ về. Có tiếng nói với chàng: "Người lên tiếng chào mi sớm
nay chính là : vợ mi".
Thánh nữ Theodora đầy ơn phúc nên tạo ra nhiều phép lạ: thánh nữ cứu
người bị thú dữ cắn xé ra từng mănh, nhưng lời cầu nguyễn cũa thánh
nữ đă khiến người này sống lại, và thánh nữ đuổi theo con thú dữ,
nguyền rủa nó và con thú lăn ra chết. Ma quỷ ghen với thánh nữ v́
thánh nữ được hưởng ơn phúc, hiện ra và nói rằng: "Ngươi là một mụ
đàn bà đốn mạt ngoại t́nh, ngươi bỏ chồng tới đây làm rộn ta. Với
quyền phép của ta, nếu ta không làm cho ngươi chối bỏ Chúa của ngươi
th́ chẳng xứng với tên Satan mà chúng gọi ta". Thánh nữ làm dấu, quỷ
bèi rằng: ?Ngươi
Một ngày nọ, cỡi lạc đà trên đường từ tỉnh về, Theodora phải vào trọ
trong một lữ điếm, một cô gái hầu trong lữ điếm tới gặp và nói rằng;
"Ngủ với em đêm nay". Theodora từ chối, cô gái bỏ đi ngủ với người
khác và mang thai. Khi bụng nàng đă khá to, người ta hỏi nàng có
thai với ai th́ nàng nói là nàng có thai với thầy ḍng Theodore. Khi
nàng sanh, cha mẹ nàng gửi hài nhi tới thầy bề trên nhà ḍng. Thầy
bề trên trách mắng thầy Theodore và thầy nhẫn nhục xin tha tội. Thầy
bề trên giao hài nhi cho thầy Theodore, đuổi thầy ra khỏi nhà ḍng
để trông nom nuôi nấng hài nhi, kết quả tội lỗi do thầy gâi rằng;
Suốt bẩy năm ṛng ră, Theodora nuôi hài nhi bằng sữa thú. Quỷ ghen
tức với đức kiên nhẫn của nàng, hiện h́nh thành người chồng cũ của
nàng và nói vơiù nàng: "Ḿnh làm ǵ ở đây? Ta khổ sở thương nhớ
ḿnh. Về với ta, ḿnh là nguồn sống của ta. Dẫu ḿnh có ngoại t́nh
ta cũng tha thứ cho ḿnh". Nàng ngỡ bóng ma đó là chồng nàng và trả
lời: "Em không thể trở về với chàng v́ em chót thất thân cùng hiệp
sĩ con trai Sir John, em đă chót phạm tội với chàng". Rồi nàng bắt
đầu cầu nguyện. Con quỷ biến mất và nàng biết là Satan đă hiện h́nh
thành chồng nàg:
Một lẫn khác, quỷ hiện lên dọa nàng, biến h́nh thành ba con ác thú.
Có tiếng người nói với bầy thú: "Ăn thịt ác phụ này". Nàng cầu
nguyện th́ ác thú biến mất. Một lần khác, cả một đoàn hiệp sĩ hiện
ra, dẫn đầu là một ông hoàng, cả đoàn người nào cũng như người nấy
quỳ lậy nàng. Rồi một hiệp sĩ lên tiếng: "Theodora người hăy quỳ lậy
trước hoàng tử". Nàng trả lời: Tôi chỉ có quỳ lậy Chúa tôi mà thôi.
Khi người hiệp sĩ thuật lại lời đó th́ hoàng tử ra lệnh mang nàng ra
hành hạ tàn nhẫn, tới khi đoàn hiệp sĩ tưởng nàng đă chết th́ tất cả
bỏ đi. Lại một lần khác, nàng đang đi th́ thấy vô số vàng. Nàng làm
dấu Chúa, trao ḿnh cho Chúa rồi quay đi. Một lần khác nữa, nàng
nh́n thấy một ngư ?Ăn mang một rổ đầy mọi thứ thịt tới bảo nàng:
"Chúa của chúng ta, người đă từng đánh đ̣n mi nay gửi thịt này cho
mi đây và truyền là mi phải nhận và phải ăn mớ thịt này, v́ mi đă
phạm trọng tội mà chẳng ai biết". Nàng làm dấu chúa và người đó :
“Chúa
Bẩy năm trôi qua, thầy cả bề trên, cảm kích đức kiên tŕ của thầy
Theodore, giảm tội cho thầy và cho thầy cùng con nhỏ vào sống trong
đền thánh. Hai năm sau, khi đă chu toàn mọi việc trao phó, nàng gọi
con vào pḥng riêng đóng kín cửa. Khi thầy cả bề trên biết truyện
này, thầy phái một thầy kín đáo ŕnh nghe nàng nói ǵ với con. Nàng
ôm con vào ḷng, hôn con nói rằng: "Con yêu dấu, ta sắùp đến lúc
sinh th́, và ta trao con cho Chúa để Chúa sẽ là cha con và cứu vớt
con. Con phải cố gắng tu tập và phục vụ chư huynh". Nói đoạn nàng
trao thần khí và yên ngủ trong tay Chúa, năm đó là năm 470 sau năm
Chúa giáng sinh. Đứa nhỏ thấy vậy đau đớn khóc ló rằng:
Đêm đó, thầy bề trên nằm mộng thấy một lễ phong thánh rất lớn, với
đầy đủ thiên thần, tiên tri, thánh tử v́ đạo cùng các thánh khác.
Giữa những vị thánh đó có môt người nữ vẻ mặt sung sướng không sao
tả xiết. Chư thánh đều suy tôn thánh nữ này, rồi thầy cả bề trên
nghe thấy như có lời truyền: "Đây là Theodora, người từng bị cáo
gian tộâi thông dâm. Đă tới lúc thanh tẩy tội ngoại t́nh xưa của
Người". Thầy cả bề trên bừng tỉnh, xúc động và đi sang pḥng các sư
huynh, th́ thấy thánh Theodora đă sinh th́. Thầy cả bề trên vào
pḥng thánh Theodora, cho thay y phục và thấy rơ Theodora là một ngư
?Đây là.
Thầy cả bề trên cho gọi cha của người đàn bà đă cáo gian Theodora và
nói rằng "Xem đó, người mà con gái ông tố cáo nay đă chết. Khi thay
áo để khâm liệm mới hay người đó là một người nữ". Ai ai biết truyện
cũng đều xúc động. Rồi Thầy cả bề trên lại nghe thấy thiên thần của
Chúa nói: "Dạy mau lấy ngựa phi về thành, gặp người nào th́ đưa
người ấy về đây". Thầy cả bề trên y lời và gặp một người chạy về
phía ông. Thầy bề trên hỏi người đó định đi đâu. Người ấy trả lời:
"Tôi đi nh́n măt vợ tôi mới chết". Thầy cả bề trên chùo người đó lên
cỡi chung ngựa và phi vềâ đền thánh. Tơi nơi, người đó khóc ḍng.
Rồi đám tang Theodora được cử hành trọng thể. Người chồng cũ của
Theodora xin ở lại đền thánh trong pḥng của vợ và sau đó người sinh
th́ và về với Chúa. Tu tŕ thánh thiện, nên tới khi thầy cả bề trên
qua đời th́ đứa con Theodora nuôi dưỡng được chọn làm thầy cả bê
trên cai quản đền thánh. Đến đây chấm dứt truyện thánh nữ Theodora.
Jacobus de Voragine không cho hay ông chép truyện thánh Theodora từ
sách nào. So với truyện thánh Marina, th́ truyện thánh Theodora có
nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên lư do khiến hai vị nữ thánh này
bước vào nhà tu hoàn toàn khác nhau. Thánh Marina là một trinh nữ,
cải trang vào vào nhà tu tuân theo ư thân phụ. Thánh Theodora tự ư
cải trang vào nhà tu để chuộc tội ngoại t́nh phản bội chồng. Điểm
khác biệt thứ hai là thánh nữ Marina lúc sinh th́ để lại thư minh
oan và thánh nữ Theodora im lặng về nước Chúa. So với truyện thánh
Tiêu-Du-La của Majorica thời hai truyện dường như một ngoại trừ một
vài chi tiết.
Truyện thứ ba dựng trên hai nét chính: cải trang thành người nam để
vào tu viện rồi bị vu oan tội thông dâm là:
TRUYỆN THÁNH MARGARET PELAGIA
Margaret hay c̣n tên là Pelagia là một trinh nữ quư phái giầu sang.
Nàng được nuôi dưỡng theo nền nếp qúy tộc, khiến lời ăn nếp ở theo
đúng khuôn phép. Nàng trân trọng giữ ǵn tiết hạnh và đức chân thật,
từ chối mọi đường việc gặp gỡ người nam. Nhưng rồi có một nhà qúy
phái trẻ tuổi muốn cưới nàng làm vợ và hai họ sửa soạn một đám cưới
sang trọng. Tới ngày cưới, tân lang và tân giai nhân sánh bước tới
trước pḥng tân hôn trang hoàng lộng lẫy th́ trinh nữ thánh thiện
này, theo ư Chúa, bỗng chợt nghĩ tới nỗi tai hại của sự mất trinh
tiết. Nàng quỳ xuống đất, nước mắt ḍng ḍng so sánh những phần
thưởng dành cho người giữ vẹn trinh tiết và những nỗi buồn khổ theo
sau lễ cưới, khiến nàng thấy mọi vui thú của hôn nhân là vô nghĩa.
Đêm đó, nàng giữ ḿnh xa chồng, rồi tới nửa đêm nàng cắt tóc, cải
trang thành người nam, trốn tới đền thánh, tụ xưng là Pelagian, xin
nhập ḍng tu. Tại đền thánh, nàng gắng gỏi tu tŕ khiến đẹp ḷng
thầy cả bề trên. Nàng cư xử thánh thiện hợp theo đạo Chúa.
Khi thầy cả bề trên một ḍng nữ tu gần đó về
nước Chúa, theo lởi khuyên của thày cả bề trên bên đền thánh,
Pelagian dẫu có thác từ, cũng phải vâng lời nhạân chức thầy cả bề
trên ḍng nữ tu đó. Dưới sự coi sóc của Pelangian, các nhữ tu về
phần xác cũng như phần hồn cũng đều được hàng ngày dùng đủ. Ma quỷ
ghen ghét tài đức của Pelagian bèn nghĩ cách làm nhơ danh người bằng
vài hành động tội lỗi. Ma quỷ khiến một tu nữ phạm tôi ngoại t́nh,
ph́nh bụng, chẳng bao lâu không dấu diếm nổi nữa. Mọi nữ tu đồng
trinh đều lấy làm xấu hổ, và các thầy cả bên đền thánh cũng không
biết xử trí ra sao. Bởi Pelagian lại là cha tinh thần và thân cận
với người nữ tu đó, nên ai ai cũng ngỡ rằng Palagian đă tạo nên
nghiệp chướng này. Thế là Pelagian bị cất chức, chẳng biết v́ nông
nỗi nào, và bị nhốt xuống hầm kín.
Thầy ḍng ác nghiệt nhất đền thánh được trao việc trừng trị
Pelagian. ngày ngày chỉ cho Pelagian một mẩu bánh khô và chút nước.
Từ khi bị giam cầm, Pelagian bị chư sư huynh quên lăng. Pelagian chỉ
c̣n biết nhẫn nhục kiên tŕ chiu đựng mọi bất công, nhưng vẫn dốc
ḷng cám ơn Chúa và giữ ḿnh theo gương các thánh.
Sau hết, biết ḿnh sắp đến giờ sinh th́, Pelagia viết thư gửi thầy
cả bề trên cùng các sư huynh như sau: "Con vốn ḍng quư phái, tên
thật ngoài đời là Margaret. Bởi ḷng con muốn tránh cạm bẫy thế gian
nên con đổi tên là Pelagian. Con thật t́nh là người nữ. Con không cố
t́nh nói dối bởi con từng chứng tỏ là con có đức hạnh như người nam,
và con có thể phạm trọng tội như con đă bi vu cáo, và đă từng bị
trừng phạt. Nên con xin cha bề trên, cùng tất cả những ai không biết
cho con là người nữ, để cho chị em nữ tu thánh thiện chôn xác con,
để cái chết của con rửa sạch tên tuổi con, và để chị em nữ tu biết
rằng con là một trinh nữ, mà họ đă coi con như kẻ mắc tội thông
dâm". Khi thầy cả bề trên biết truyện này, các thầy ḍng cùng càc tu
nữ, chạy tới căn hầm giam Pelegia, và các nữ tu biết là Pelagia hằng
là trinh nữ, chưa từng có người nam nào động chạm tới. Tất cả đều
xám hối đă cư xử lầm lỗi với Pelagia, rồi làm lễ an táng cùng thờ
phượng Pelagia cùng các thánh đồng trinh. Đến đây kết thúc truyện
thánh Pegalia
Giới nghiên cứu cho biết là ngoài sách của Jacobus de Voragine,
không có sách Truyện Các Thánh nào khác chép sự tích Pelagia, và
Jacobus de Voragine cũng không cho biết là ông chép truyện thánh
Pelagia từ tư liệu nào. So với truyện các thánh Marina và Theodora,
thánh Pelagia trốn vào tu viện không phải do phụ thân quyết định như
thánh Marina hay để chuộc tôi như thánh Theodora, mà để trốn việc
lấy chồng. Thánh nữ Pelagia cũng cải trang thành người nam để đi tu,
rồi được cử cai quản một nữ tu viện để rồi bị một người nữ tu mất
nết vu cáo tội thông dâm. Khác với thánh Theodora và cũng như thánh
Marina (theo một dị bản), thánh Pelagia dùng thư để minh oan khi
biết ḿnh sắp đến giờ sinh th́.
Không chủ tâm đối chiếu chi tiết truyện các thánh Marina, Theodora
và Pelagia với sự tích Quán Âm Thị Kính, nhưng qua những trang trên
đây, người đọc cũng đă thấy truyện thánh Theodora có nhiều điểm
tương đồng với truyện Quán Âm Thị Kính, hơn hai truyện thánh Marina
và Pelagia. Người đọc c̣n nhận thấy, ngoài những điểm tương đồng
giữa truyện thánh Theodora và truyện Quán Âm Thị Kính, như Thanh
Lăng đă bàn trên đây, c̣n một điểm tương đồng quan trọng khác là
Quán Âm Thị Kính phải cải nam trang, phải lên chùa di tu rồi chịu
nỗi oan do Thị Mầu vu cáo cũng để chuộc lại một lầm lỗi. Lầm lỗi này
không phải là một tội phạm như danh từ dùng trong truyện các thánh
công giáo, lầm lỗi này là khẩu nghiệp theo ngôn ngữ cửa Không. Bản
Quán Âm Thị Kính do Thiều Chửu chú giải chép:
11Lọ là đức hạnh tuyệt vời
Đức Quán Âm ấy truyện đời c̣n ghi
Vốn xưa là đấng nam nhi
Dốc ḷng từ thuả thiếu th́ xuất gia
Tu trong chín kiếp hầu qua
Bụi trần rũ sạch thói tà rửa không
Đức Mầu Ni xuống thử ḷng
Hiện ra một ả tư dung mỹ miều
Lần khân ép dấu nài yêu
Người rằng vốn đă lánh điều trăng hoa
Có chăng kiếp khác gọi là
Kiếp này sợi chỉ chót đà buộc tay
Nào ngờ phép Phật nhiệm thay
Nhớ lời rồi lại vin ngay lấy lời
Trở sang kiếp khác vẹn mười
26Thử cho đầy đọa một đời xem sao.
Như vậy, Đức Phật Quán Âm Thị Kính cũng như thánh nữ Theodora v́
muốn chuộc tội, khác với thánh nữ Marina v́ lời trối trăng của thân
phụ và khác với thánh nữ Pelagia v́ ḷng ước muốn trọn đời đồng
trinh mà cùng nhẫn nhục chịu đựng hàm oan cho đến chết.
Điểm thứ hai trong phần đối chiếu truyện thơ Quán Thế Âm với Truyện
Thánh Theodora là bức thư trần t́nh của Tiểu Kính Tâm sau khi từ
trần. Trong truyện thánh nữ Theodora, người về nước chúa không một
lời minh oan. Phải chăng v́ vậy mà Thanh Lăng đề nghị là coi bức thư
trần t́nh của Tiểu Kính Tâm gửi về song thân là do người đời sau
thêm vào. Giả thiết trên của Thanh Lăng không phải là thiếu khả năng
thuyết phục. Thật vậy, nguyên văn bức thư đó như sau:
Ơn sơn hải một chút chi chưa báo, ở sao đành mà đi có sao đành? Phận
liễu bồ mười đấy cũng là không, sống cũng tủi dẫu chết th́ cũng tủi.
Trăm sự nhớ bỗng xẩy ra muôn kiếp; một tấm ḷng xin gửi lại mươi
hàng.
Thị Kính này: hổ phận nữ lưu, nhờ nền phúc ấm. Từ kết tóc sớm trao
dây tú mạc, ba thu vừa mới ấm chăn loan; v́ cắt râu nên nổi sóng
ngân hà, một phút nào ngờ tan nhịp thước. Ṭa Ngưu nữ đôi nơi cách
trở; khóm xuân huyên hai đóa bồi hồi. Chốn phấn hương thẹn với nước
non, đặt gánh hiếu phải xa rời phận khách; miền bát nhă t́m vào mây
khói, nương bè từ cho thoát khỏi sóng mê. Đuốc quang minh mong đốt
cháy thành sầu; bể khổ hạnh bỗng chẩy lên bến giác. Cảnh Vân tự mừng
vui miền Thứu Lĩnh. Rảy cành dương chằng bợn chút trần ai; ả Thị Mầu
dâm dật truyện Vu Sơn, gầy vóc liễu đă cam ḷng dạ sở. Thủa làm vợ
để chồng ngờ thất tiết; lúc giả trai cho gái đổ oan t́nh. Nên nghĩ
ơn chín chữ cù lao, xa xôi chốc đă sáu thu, cách trở bận ḷng khi
đán mộ. Nghĩ đến nỗi đôi nơi ly biệt, nuôi nấng gọi là một chút,
viếng thăm gặp mặt lúc thần hôn. Muôn phần bội bạc đă cam rồi, trăm
lậy nghiêm tư xin ở lại.
Lời thư là dọng văn biền ngẫu, khác hẳn lởi thơ sáu tám mộc mạc của
áng thơ diễn ca Truyện Quán Âm Thị Kính. Người đọc truyện có thể
nghĩ như Thanh Lăng là bức thư là tác phẩm của một người sở trường
về lối văn cử nghiệp, và áng thơ diễn ca là tác phẩm củơa một người
sở trường về thể thơ đại chúng.
Đằng khác, đối chiếu truyện Quán Âm Thị Kính với truyện Pelagia,
cùng theo dị bản truyện thánh Marina th́ t́nh tiết Thị Kính có thư
minh oan gửi về cha mẹ tương ứng với t́nh tiết thánh nữ Pelagia có
thư minh oan với thầy cả bề trên, người từng nhận cho thánh nữ vào
đền thánh tu tập và cũng như thánh Marina có thư trần t́nh cùng các
thầy cùng tu. Như vậy điều hiển nhiên là nhiều t́nh tiết trong
truyện Quán Âm Thị Kính tương đồng với t́nh tiết trong cả ba truyện
ba thánh nữ Marina, Theodora và Pelagia.
Khó có thể giải thích minh sác được sự tương đồng giữa bốn truyện
trên đây. Nhưng phải chăng có thể tin được rằng sự tương đồng này
biểu thị ḷng sùng kính Phật, Thánh của con người đều tương tự như
nhau, không phân biệt, ngôn ngữ tôn giáo cùng chủng tộc? Sự tương
đồng này phải chăng cũng giống như sự tương đồng giữa những t́nh
tiết biểu thị cái nh́n của con người vềâ truyện mẹ ghẻ con chồng,
qua trong ngoài 3000 truyện loại truyện Tấm Cám, hay Lọ Lem, của
nhiều ngôn ngữ nhiều sắc dân khắp năm châu, do kết quả côơng tŕnh
khảo cứu của giới nghiên cứu truyện dân gian cho biết là khó bề truy
cứu ra được nguyên lai?
Nh́n vào ḍng văn học đại chúng, người đọc thấy truyện Quán Âm Thị
Kính chuyển biến thành chèo cổ Quan Âm. Chèo bản này nguyên chép
bằng chữ nôm, Quảng Thịnh dịch sang quốc ngữ, in lần thứ hai vào năm
1924 tai nhà in Ngô Tử Hạ, Hà Nộâi. Vở chèo theo sát truyện Quán Âm
Thị Kính.
Ngôn ngữ trong vở chèùo là biến dạng của ca dao.Trong bài giáo đầu
có đoạn hát nguyên văn là một bài sẩm như sau:
Ông giăng khuyết ông giăng lại tṛn, con gái tơ quá lứa cái má ṃn,
má ṃn không xinh. Lắng tai nghe tiếng nói, tiếng nói hữu t́nh. Con
chim lồng khôn nhẽ cất ḿnh, cất ḿnh bay cao. Gớm cho là cái số
hoa, hoa đào, gỡ ra rồi lại buộc vào, buộc vào như chơi...
Trong chuyển biến từ truyện thơ sang chèo, tác giả vở chèo, ngoài
vai giáo đầu, đă cho một vài vai phụ lên tiếng để tạo ra nét hư
lộng,
burlesque, của vở chèo.
Tỷ như đoạn Thiện Sĩ ra mắt Trưởng giả, cha của Thị Kính:
Thiện Sĩ nói:
Dám thưa cụ, tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa, nghe cụ có gái hiền
ḥa, tôi sang làm bán tử cho cụ.
Trưởng giả nói:
Sao mày khôn mấy, ở nhà mày không chết, mà mày sang bán cái chết cho
tao?
Thiện Sĩ nói
Dám thưa cụ, tôi muốn sang làm con dể cụ.
Ngoài ra tác giả vở chèo, để tăng nét hư lộng, đưa lên sân khấu một
vài vai hềâ. Tỷ như vai Cu Cậu, trong cảnh tế tơ hồng ngày cưới
Thiện Sĩ và Thị Kính.
Cu Cậu đọc chúc
Duy ... Tơ Hồng nguyệt lăo thiên tiên, có muốn lấy tiền th́ xuống
tầu tây, giời th́ cho lúa tốt như mây, duyên tơ hồng đỏ se vào gốc
dạ. Giầu gặp sang đôi bên hỷ hả, lễ nhạn nay Tấn đă hợp Tần, thiên
chi địa chi tơ hồng nguyệt lăo chứng chi, phu thê ḥa hợp cho được
bách niên giai lăo ... Cẩn cáo
Lại sưóng tế:
Bái ... bái... bái... bái...hưng ...hưng...hưng...hưng
Lại nói
Lễ tân hôn đă đủ rồi, hôn đi cho tao, vợ chồng vẹn chữ vu quy, để
cậu về pḥng trong nghỉ mát.
H́nh ảnh Thị Mầu trên sân khấu cũng mô tả bằng lời ca dao:
Thị Mầu nói:
Chị em ôi, có ai lên chùa nghe tôi kể hạnh th́ đi. Hạnh tôi kể rằng:
chốn Phật Tổ từ bi quảng đại, chốn lam thuyền rộng mát thảng thơi,
tu hành tôi nhờ đức Phật Như Lai, thuyền Bát Nhă
cứu người trần khổ.
Lại nói
Chị em ôi, người ta lên chùa từ bao giờ, tôi lên chùa từ thủa mười
ba, thấy sư mười bốn, ối a, có văi già mười lăm, mà tôi muốn cho một
tháng đôi rằm, trước là lễ Phật, ối a, để sau thăm sư già, mà tôi
lên chùa lễ Phật trở ra, lễ vua Tam Thế, ối a, đề có cha Ngọc Hoàng,
Ngọc Hoàng. Chẳng giấu ǵ, tôi tên gọi Thị Mầu, con gái phú ông,
tuổi mười tám gieo cầu chửa xứng. Tiết tháng tư bác tôi sai đội gạo
lên chùa, bạch sư cụ sai người ra cất lấy,. Lễ này phúc đẳng hà sa.
Tuy nhiên, nét hư lộng dần dần đổi sang nét bi
thảm trong cảnh thị mầu trả con,
Thị Mầu trả con than:
Cấm đoán tôi chi, thầy mẹ ôi cấm đoán tôi chi, mười lăm mười tám
chẳng cho đi lấy chồng. T́nh tính tinh. Con ôi, mẹ sinh con chẳng
nuôi con được, t́nh mẹ con xa cách biết làm sao, mẹ đặt con xuống,
như dao cắt ruột mẹ ra. Trăm sầu ngh́n thảm chất đà nên non:
Ca
Cắt ruột mẹ ra, ối con ôi, ấy mấy trăm sầu ngh́n khổ chất đà nên
non. nay đă vuông tṛn, ong về vườn cũ, bướm c̣n bướm c̣n ngẩn ngơ.
Thiếp xin chàng đừng trông ngóng đợi chờ, nh́n xem diện mạo thực là
ai đây, thiếp xin chàng sơi miềng trầu này.
Trong vở chèo, Thị Kính giữ vai chính trên sân khấu, xuất hiện cảnh
cuối. Lời Thị Kính trối trăng với con trước khi xuôi tay như sau:
Thị Kính lại nói
Con ơi, cha nuôi con đă được sáu thu, nay cha mừng con đă u ơ biết
nói, đêm qua thấy căm căm gió thổi, hay Giời Phật đă vời cha về Tây
Trúc Quốc. Cha viết cho con một bức thư này, con đem vào bạch sư
hay, hoặc người kiếm tuần trai sám hối.
Vở chèo kết thúc bằng cảnh sư cụ đọc nguyên
văn bức thư Thi Kính gửi cha mẹ trước khi nhắm mắt.
Truyện Quán Âm Thị Kính, biến thể thành những truyện thơ nôm quen
biết giữ nguyên mô thức một người nữ cảøi dạng thành nam để đi học
đi thi, để minh oan cho gia đ́nh. Hai truyệân tiêu biểu là, truyện
thứ nhất là:
Truyện Phương Hoa
Họ Trần và họ Trương là hai nhà quyền quư thủa đó. Phương Hoa là gái
họ Trần, tài sắc vẹn toàn, đă đính hôn cùng Cảnh Yên trai họ Trương.
Gian thần họ Tào tới hỏi Phương hoa làm vợ. Bị khước từ họ Tào khép
Trương Công vào tội phản vua bán nước, xử chém và tịch biên tài sản.
Cảnh Yên phải đưa mẹ cùng gia đ́nh trốn tránh lánh nạn. Bẩy năm sau,
Phương Hoa ḍ ra tung tích nhà họ Trương, và t́m cách giùp đỡ. Một
ngày kia, nàng hẹn Cảnh Yên tới lâm viên trao tiền bạc áo quần.
Chẳng may bị gian nhân Hồ Nghi biết chuyện, lẻn tới chỗ hẹn, chém
chết cô hầu của Phương Hoa, cướp của. Cảnh Yên tới sau, giẫm phải
vết máu, bị bắt bỏ ngục vềâ tội giết người. Quá đau sót Trương phu
nhân qua đời. Phương Hoa thay Cảnh Yên lo liệu ma chay. Rồi nàng xin
cha mẹ lên kinh mở hàng buôn bán kén chồng. Tại kinh đô, nàng cố
công dùi mài kinh sử, lấy tên là Cảnh Yên đi thi. Kết quả nàng đậu
tiến sĩ. Vào thi hội, giữa triều đ́nh, nàng cởi bỏ mũ áo cân đai bên
ngoài, hoàn thành gái, tâu lên vua nỗi oan của gia đ́nh họ Trương.
Kết cục họ Tào bị tru di tam tộc, Hồ Nghi bị xử chém. Cảnh Yên được
đặc cách đỗ tiến sĩ, cùng Phương hoa xum vầy.
Truyện thứ hai là:
Truyện Nữ Tú Tài
Triều Tống bên Trung Quốc, có cô gái tên Phi Nga, cảøi trang thành
trai, lấy tên là Tuấn Khanh, và kết bạn cùng Ngụy Soạn Chi và Đỗ Tử
Trung. Cả ba người cùng đi thi đỗ tú tài. Tuấn Khanh ngầm bắn một
mũi tên, để chọn một trong hai bạn làm chồng. Tử Trung bắt đưộc mũi
tên, nhưng sau đó mũi tên lọt vào tay Soạn Chi. Tuấn Khanh nói có
chị là Phi Nga hứa làm mối cho Soạn Chi. Đến khoa thi hội, Tuấn
Khanh sợ bị lộ không đi thi. Soạn Chi và Tử Trung đều đỗ cao. Nghe
tin thân phụ bị vu cáo làm phản, Phi Nga lại cải trang thành Tuấn
Khanh đi cứu bố. Tới kinh, nàng chỉ gặêp Tử Trung, và được Tử Trung
giải oan cho thân phụ. Biết Tử Trung chính là người bắt được mũi tên
ngầm kén chồng ngày trước, Phi Nga hoàn gái lấy Tử Trung làm chồng
và làm mối một cô bạn gái cho Ngụy Soạn.
Nh́n vào ḍng văn học cận đại, người đọc truyện thánh Nữ Marina
không khỏi liên tưởng tới cuốn truyện ngắn Yeltl The Yeshiva Boy,
của Isaac Bashevis Singer (1904-1991) nguyên văn viết bằng tiếng Do
Thái, Yiddish, xuất bản năm 1962, và Marion Magid cùng Elisabeth
Pallet dịch sang tiếng Anh năm 1988. Truyện ngắn này đă được Leach
Napolin chuyển tác thành một vở kịch tŕnh diễn tại Chelsea Theater,
Brooklin, New York năm 1984, và sau đó Barbara Streinsand dùng làm
truyện phim Yentl năm 1988, phim này chiếm nhiều giải Oscar. Isaac
Bashevis Singer gốc người Do Thái, sinh trưởng tại Ba Lan, cho tới
đầu thế chiến II di tản sang Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ ông tiếp tục viết
bằng tiếng Do Thái. Phần lớn tác phẩm của ông đă được dịch sang
tiếng Anh. Ông là con một vị giáo sĩ đạo Do Thái, rabbi, cháu nội
một rabbi, cha vợ cũng là rabbi. Thế nên, việc đọc kinh thánh Tora
là hoạt động quan trọng đối với toàn thể gia đ́nh ông. Ông đoạt giải
Nobel về văn chương năm 1978.
Cuốn truyện ngắn Yentl the Yeshiva Boy là tác phẩm Isaac sáng tác
khi ông mới vào nghề viết văn, nhưng là tác phẩm được đại chúng ưa
thích nhất. Câu truyện xẩy ra tại nước Do Thái trong thập niên 1950,
nhưng có một số t́nh tiết tương đồng với truyện thánh nữ Marina thời
trung cổ. Nội dung truyện ngắn tóm lược như sau:
Yentl là môt cô gái Do Thái, mồ côi mẹ và ông bố cô lấy việc đọc
kinh thánh Tora là việc hệ trọng . Do đó Yentl cũng ham đọc kinh
thánh, nhưng luật Do Thái thủa đó không cho con gái vào trường ḍng
học thành rabbi. Cô cải trang thành người nam, lấy tên là Anshel đểâ
được nhận vào trường rabbi. Trong thời gian tu học, Yentl gặp
Avigdor, một bạn cùng học, và yêu Avigdor mà không dám thổ lộ. Trớù
trêu là Avigdor có một cô bạn gái, tên là Hadass, nhưng v́ khác biệt
tôn giáo nên cuộc hôn nhân không thành. Avigdor giới thiệu Hadass
với Yentl, và chàng cưới một bà góa làm vợ. Yentl biết là Avigdor và
Hadass vẫn c̣n yêu thương nhau. Nàng hỏi cưới Hadass, cốt giữ Hadass
cho Avigdor. Gia đ́nh Hadass nhận lời. Nhưng chỉ trong ít ngày cuộc
hôn nhân giữa Avigdor và bà góa tan vỡ. Đồng thời Yentl thú nhận với
Avigdor là nàng chính là một cô gái giả trai và bỏ đi biệt tích sau
khi ly dị với Hadass. Hadass thành hôn cùng Avigdor liền sau đó. Cặp
vợ chồng này có một đứa con trai, ngày làm lễ cắt b́ cho hài nhi, ai
cũng bảo đứa bé giống Anshel, tên giả trai của Yentl, và ai cũng
ngạc nhiên v́ Avigdor đặt tên con là Anshel.
Đối chiếu truyện Yentl với truyện thánh nữ Marina, ngưới đọc thấy
Yentl cũng như thánh nữ Marina đều cùng chịu ảnh hưởng của thân phụ
mà cải trang giả trai vào tu viện. Việc tu tập của Yentl cũng như
của thánh nữ Marina đều gặp khó khăn v́ t́nh yêu của một cô gái với
một thầy tu giả trai. Cái thai hoang của cô gái mất nết trong truyện
thánh nữ Marina tạo ra sự hành hạ thánh nữ. Tương ứng với cái thai
hoang này là mối t́nh thầm lặng của Yentl với Avigdor dầy ṿ Yentl.
Đằng khác, người đờøi coi đứa con của Avigdor và Hadass là con của
Ashel, một cô gái giả trai. Sau hết thánh nữ Marina cho biết ḿnh
giả trai khi sinh th́, và Yentl cho biết ḿnh giả trai để đi biệt
tích. Sự tương đồng này phải chăng là t́nh tiết giả trai để đi tu
tập thời trung cổà đă biến thểà thành việc giả trai đi học trường
rabbi, như trong truyện Yentl? Phải chăng v́ sự tích thánh nữ Marina
đă đi vào tiềm thức đại chúng, từ thời trung cổ tới nay, khiến sự
tương đồng này đă dễ nối kết được tác phẫm với độc giả? Phải chăng
v́ lư do này mà vở kịch cũng như phim Yentl đă chiếm được sự hâm mộ
của khán giả?
Trên một hướng khác, nút chính trong truyện Quán Âm Thị Kính cũnh
như trong ba truyện ba thánh nữ Marina, Theodora và Pelagia là có
một người đàn bà mất nết vu oan cho môt người tín nữ giả trai đi tu
tập, rồi khi sinh con th́ mang con đến cho người nữ hàm oan nuôi
dương. T́nh tiết này là một t́nh tiết đối xứng với t́nh tiết trong
một truyện cổ tích về Đức Phật Thích Ca. Truyện kể rằng có một thiếu
phụ độn bụng vu cáo đức Phật là cha bào thai. Thế rồi nhờ một đàn
chuột do Trời Đế Thích sai xuống cắn rách cái bụng độn, làm lộ âm
mưu của ngựi đàn bà, xấu hổ thiếu phụ đó bỏø chạy, gặp chỗ đất nứt
ra, rớt xuống địa ngục. Truyện đàn chuột của Trời Đế Thích trích dẫn
trên đây mở đầu bài kệ số 176 trong kinh Pháp Cú.
Đối chiếu riêng chuyển biến, giữa hai nút chính trong truyện cổ tích
về đứùc Phật Thích Ca và trong truyện Quán Âm Thị Kính cho thấy rằng
cái thai giả vu cáongười nam rồi
kẻ vu cáo sa xuống địa
ngục, trong truyện đức Phật Thích Ca chuyển biến thành cái thai
thật vu cáo người
nữ để rồi người nữ bị
vu cáo vào niết bàn,
thành Phật, trong truyện Quán Âm Thị Kính. Người đọc truyện thơ Quán
Âm Thị Kính không khỏi thấy, như dưới ánh sáng Bát Nhă, nh́n từ bờ
bên kia, thật giả phải chăng là một; nam nữ phải chăng là một; địa
ngục hay niết bàn phải chăng cũng là một?