Ngựa trắng
Pegasus ngay khi vừa ra đời, dậm mạnh chân xuống núi Helicon tạo
thành gịng suối Hippocrene khơi nguồn cho thi ca.. Nó xuất hiện
nhiều trong các bức tranh, bài thơ, bài hát, sách báo và phim ảnh.
3.
Cḥm sao Auriga: Theo thần thoại Hy Lạp, con ngựa đầu tiên do Hải
Thần Poseidon tạo dựng và vị vua thứ nhất của xứ Athens tên
Erichthonius là người đầu tiên xử dụng xe ngựa. Do đó, nhà vua và cỗ
xe tứ mă này được đưa lên trời trở thành cḥm sao "Auriga" có nghĩa
là "Người cỡi xe" bất tử

Cḥm
sao Auriga
4.Nhân mă Centaurus: Trong thần thoại Hy Lạp là những quái vật mà
chân và thân là ngựa c̣n tay và đầu là người sống tại vùng núi
củaThessalía ăn thịt sống.

5.
Ngựa Arion, Baios, Hyppocampus: Ngựa của vơ sĩ vô địch Hercules mang
tên Arion do Thủy Vương Neptune tạo ra bằng cách dùng chĩa ba đâm
mạnh xuống mặt đất. Ngựa Arion có chân người, nói tiếng người và
chạy rất nhanh. Thủy Vương cũng tặng hiệp sĩ Achilles một con ngựa
quư mang tên Baios. Thủy Vương Neptune có tài tạo ra những loài ngựa
pha trộn kỳ lạ như giống "Hyppocampus" thân giống rồng hay cá, chỉ
có hai chân trước.

6.
Sleipnir: trong thần thoại Bắc Âu: Loài vật này được mô tả là có 8
chân và sở hữu sức mạnh vô địch, không thứ ǵ có thể khiến nó chạy
chậm lại.
7. Bốn con ngựa của
Apocalypse: trong Thần thoại Kitô giáo: Chúng là biểu tượng của sự
chinh phục, chiến tranh, nạn đói và cái chết. Trong sách Khải Huyền,
4 con ngựa trên
được coi là dấu hiệu của sự phán xét cuối cùng trong suốt Ngày tận
thế. Chúng có màu sắc khác nhau, lần lượt là: trắng, đỏ, đen và
xanh-xám hay xanh lá cây. Những con ngựa này
đă trở thành nhân vật trung tâm trong thuyết mạt thế của đạo Kitô
trong suốt thiên niên kỷ đầu h́nh thành tôn giáo này.

8.Ngựa Thành Troie: Khi hoàng tử Paris của thành Troy (Thành Troy
nằm ở Canakkale, Thổ Nhĩ Kỳ là một trong những điểm du lịch nổi
tiếng) bỏ trốn với Helen, vợ của vua Spartan của Hy Lạp, chiến tranh
đă bùng nổ. Cuộc chiến đă kéo dài suốt 10 năm bất phân thắng bại,
th́ tướng Odyssey của Hy Lạp đă nghĩ ra diệu kế: dỡ thuyền lấy gỗ
đóng thành một con ngựa khổng lồ đưa quân lính vào bên trong rồi
đóng lại, chỉ để một người đứng ngoài đánh lừa quân Troia nói rằng
quân Hy Lạp đă rút lui, để lại món quà này để đền bù cho bức tượng
Athena bị phá hủy. Quân Troie tưởng thật, vui mừng đưa lính ra kéo
con ngựa gỗ khổng lồ vào trong thành tổ chức tiệc mừng chiến thắng
suốt đêm… Khi quân lính no say, bất ngờ quân Hy Lạp từ trong bụng
ngựa gỗ xông ra, mở cửa thành cho đại quân đánh vào chiếm thành dễ
dàng…

Mô h́nh
ngựa gỗ thành Troy được các nhà làm phim sử dụng.
Đại
thi hào Homer đề cập tới sự xuất hiện con ngựa gỗ trong "The Iliad",
và Văn hào Virgil cũng kể lại câu chuyện về sự sụp đổ của thành Troy
trong thi phẩm "The Aeneid."
Câu
chuyện trên như một lời cảnh báo rằng hăy cẩn thận với những món quà
của kẻ thù mang tặng.
Một
cuốn phim vĩ đại của Mỹ mang tên “Con ngựa thành Troie”.
II.Phương Đông:
1.Phù Đổng Thiên Vương:

Tượng
Thánh Gióng
Đời
Vua Hùng Vương thứ Sáu, giặc Ân sang xâm lấn nước ta. Tại làng Phù
Đổng huyện Vơ Ninh, có một gia đ́nh đến 60 tuổi mới sinh con - đă 3
tuổi mà vẫn c̣n nằm trên giường không biết nói.
Một
hôm sứ giả của Vua đến rao truyền t́m người ra dẹp giặc, cậu bé bỗng
nhiên nói với mẹ muốn gặp sứ giả. Cậu bé yêu cầu sứ giả về xin Vua
đúc cho cậu một bộ giáp sắt, một mũ sắt, một roi sắt và một con ngựa
sắt để cậu tùng quân đánh giặc.
Cậu
bé vung vai trở thành người lớn vạm vở mặc giáp sắt, đội mũ sắt, cầm
roi sắt, nhảy lên ngựa sắt phi ngựara chiến trường. Ngựa phun ra
lửa, cậu bé giết giặc đến nổi roi sắt gảy, cậu bèn nhổ bụi tre tiếp
tục chiến đấu.
Sau
khi đánh tan giặc, cậu bé phi ngựa đến làng Ninh Sóc dưới chân núi
Sóc Sơn, cùng ngựa bay lên Trời. Nơi đây vẫn c̣n dấu vết lửa của
ngựa sắt đốt cháy cả một vùng nên đến bây giờ c̣n gọi nơi đây là
làng Cháy. Để nhớ công ơn, vua phong là Phù Đổng Thiên Vương đời đời
nhang khói.
Tượng
của Đức Phù Đổng Thiên Vương ngồi trên lưng ngựa sắt phun lửa.
Dân
gian tôn vinh Ngài là Thánh Gióng.
2.Ngựa Đá Nhà Trần: Việt sử c̣n đề cập đến chuyện con ngựa đá thời
nhà Trần. Trong lúc làm lễ ở chùa Lăng sau khi dẹp tan giặc Mông Cổ,
nhân lúc
thấy
các con ngựa đá đứng chầu trước các miếu có dính bùn, vua Trần Nhân
Tông liền cảm khái hai câu thơ bằng chữ Hán.
Sơn hà thiên cổ điện Kim âu
Xă tắc lưỡng hồi lao thạch mă
Dịch
là:
Xă tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông ngh́n thuở vững âu vàng.
3.Nhứt nhân nhứt mă: Trong một trận chiến chống quan Mông
cổ, tướng Lê
Phụ Trần một
ḿnh một ngựa lao vào trận địa kỵ binh của quân Mông Cổ sắc mặt vẫn
thản nhiên tung hoành như chỗ không người.
Vua Trần
Duệ Tông cũng là
một danh tướng đă từng trên lưng ngựa chiến đấu kiên cường giữa mũi
dáo đường tên và chết tại trận tiền.
4. Đền Bạch Mă Hà Nội:

Đền
Bạch Mă Hà Nội
Đền Bạch Mă ờ Hà Nội là một trong bốn trấn của thành Thăng Long
cùng với Đền Quan Thánh, Đền Kim Liên và Đền Voi Phục. Đền Bạch Mă
trấn giữ phía Đông Kinh thành, hiện thuộc quận
Hoàn Kiếm, Hà
Nội.
Đền Bạch Mă thờ thần Long Đỗ tức là Rún của Rồng, vị Thần gốc
của Hà Nội cổ. Khi Lư
Thái Tổ dời
đô từ Hoa
Lư ra
Thăng Long công việc xây đắp thành nhiều lần đổ vỡ. Vua nằm mộng
thấy từ đền Long Đỗ có một con ngựa trắng đi ra. Theo vết chân ngựa,
vua cho xây lại và đă thành công nên đặt tên đền nơi đây là đền Bạch
Mă.
5.Đền Bạch Mă xứ Nghệ:

Đền
Bạch Mă xứ Nghệ
Đền
được xây dựng từ đầu thời Lê, để thờ Phan Đà, người có công lớn
chống quân Minh. Phan Đà quê Chí Linh, tư chất thông minh, vơ nghệ
tài giỏi, đầu quân trong nghĩa binh Lam Sơn.
Trong một lần đi thám thính nắm t́nh h́nh, ông bị địch phục kích và
chém trọng thương ở bến Nguyệt Bổng. Con chiến mă trung thành đă
mang ông về căn cứ, ông đă trút hơi thở cuối cùng tại đó.
Có
truyền thuyết, lúc ngựa mang ông qua vùng Lai Thành (nay thuộc xă
Thanh Long) một ḍng máu của ông đă chảy xuống và nơi đây mối xây
lên thành nấm mồ lớn. Về sau dân làng lập miếu thờ tại địa điểm nầy.
Vua sắc phong là “Đô Thiên đại đế Bạch Mă thượng đẳng phúc thần”.
6.Ngựa Ô Truy: Kẻ thù số một của Hán Cao Tổ là Sở Bá Vương Hạng Vơ -
khi mới khởi nghiệp, đă thu phục được thần mă Ô Truy. Về sau, khi
thất thế, trước giờ tự vận, Hạng Vơ đem con ngựa quư của ḿnh nhờ
người lái đ̣ đưa nó qua sông để trở về đất Giang Đông. Nhưng khi
thuyền vừa buông chèo, Ô Truy hí lên mấy tiếng ai oán rồi nhảy
xuống sông mất dạng.
7.
Ngựa Đích Lư: Cuối đời Hán có ngựa Đích Lư cũng thuộc loại thần mă.
Nó mang Lưu Huyền Đức nhảy qua suối Đàn Khê thoát nạn trong khi đoàn
quân của Thái Mao truy đuổi theo sau. Ngựa Đích Lư vốn có một xoáy
trắng ngay vầng trán, có người báo với Lưu Bị là ngựa phản chủ. Lưu
Bị trả lời: Ngựa phản chủ là khi nào chủ phản nó, c̣n ta th́ không.
8.
Ngựa Xích Thố: có sắc lông màu đỏ vốn là của tướng Lă Bố. Sau Tào
Tháo giết Lă Bố chiếm Xích Thố và đem tặng cho Quan Vân Trường để
lấy ḷng. Quan Vân Trường được Xích Thố bèn qú lạy Tào Tháo xin cám
ơn. Tào Tháo đỡ dậy mà rằng:
-Ta
thường tặng cho Quan Hầu nhiều thứ quí giá ngọc ngà châu báu, mỹ nữ
mà Quan Hầu không nhận, thế sao chỉ con ngựa nầy mà Quan Hầu lại đa
lễ như vậy?
Quan
Công đă cùng Xích Thố xông pha trận mạc, vào sinh ra tử, sống chết
có nhau. Và cũng chính Quan Công cỡi Xích Thố quá ngũ quan trảm lục
tướng của Tào Tháo trong việc pḥ nhị tẩu vượt ṿng vây về với Lưu
Bị. Khi Quan Công chết, con Xích Thố cũng buồn chết theo.
9.Bạch mă, bạch giáp, bạch bào. Đó chính là Triệu Tử Long một trong
Ngũ Hổ Tướng trong Tam Quốc chí.
10.
Ngựa Tiêu Sương. Vua nước Lương có ngựa rất quư, ngày chạy ngàn dặm,
tên là Tiêu Sương. Khi con ngựa này bị vua Tống đánh cắp đem đi, nó
nhớ chủ cũ, bỏ ăn rồi chết.
11.
Ngựa gỗ của Khổng Minh: Gia Cát Lượng, quân sư của Lưu Huyền Đức đă
chế tạo ra một loại ngựa gỗ thay thế ngựa thật để vận tải quân lương
và cố t́nh tiết lộ kỹ thuật nầy cho Tư Mă Ư. Tư Mă Ư, quân sư của
Tào Tháo đă đánh cắp được kỹ thuật và cũng chế tạo ra loại ngựa gỗ
giống như vậy nhưng bị Khổng Minh đưa vào tṛng phản gián nên đă để
cả đoàn xe lương thực của ḿnh cho quân Thục Hán chiếm.
12.Bạch Long Mă:
Chuyến Tây Du cầu pháp của ngài Huyền Trang xảy ra vào đời Đường
Thái Tông (629). Con đường bộ từ kinh đô Trường An về biên giới phía
Tây Trung Hoa, qua vùng Tân Cương, sa mạc Qua-bích (Gobi), qua 24
nước Trung Á, vượt đèo Thiết Lĩnh núi Hy Mă, đến thành Vương Xá, cả
thảy khoảng 10 ngàn cây số. Trên đường đi Ngài dùng ngựa, có khi tự
mua sắm, có khi được vua chúa dâng tặng... Trong lúc chuẩn bị ra
khỏi địa phận cuối của Trung Hoa để băng qua sa mạc Qua-bích, sau
khi qua khỏi năm phong hỏa đài (trạm gác), được tặng túi nước và chỉ
dẫn đường đi, Ngài và con ngựa đi dần vào sa mạc. Suốt một ngày đi
trong băo cát, Ngài bị lạc đường không t́m ra suối nước, và rủi ro
hơn, lại tuột tay làm rơi túi nước hộ thân. Ngài đă quay ngựa về
hướng Đông, định trở lui t́m trạm gác, nhưng đi một khoảng lại ân
hận, bèn phát thệ “Thà tiến về phương Tây mà chết”.
Suốt
bốn đêm năm ngày giữa băi cát mênh mông nóng bỏng, không một giọt
nước, người và ngựa mệt lả, nằm lịm bên phiến đá. Chợt nửa đêm một
trận gió mát lạnh thổi qua, Ngài hơi tỉnh lại, con ngựa cũng gượng
lên được. Đến sáng đi một khoảng, con ngựa vùng chạy sang lối khác,
nhờ bản năng nó đă đánh hơi được chỗ có cỏ và nước. Quả nhiên t́m ra
con suối Dă Mă, cứu tinh của khách qua sa mạc. Từ đó mất thêm hai
ngày hai đêm mới vượt qua hết chặn đường khốc liệt.
Trong Tây Du Kư : Bạch Long Mă là một chú ngựa
nổi tiếng khắp thế giới, là 1 trong 4 đồ đệ của Tam Tạng, hóa thân
của Hoàng tử Long Cung do phạm tội mà thành.

13.
Con ngựa Kiền Trắc và Thái tử Tất- Đạt- Đa:

Thái
tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm là tên phiên âm từ tiếng Phạn Siddhārtha
Gautama của Phật Thích-ca Mâu-ni. Tất-đạt-đa có nghĩa là "người đă
hoàn tất ư nghĩa cuộc sống”. Như vậy Tất-đạt-đa Cồ-đàm là tên của vị
Phật lịch sử, từng sống trên trái đất, người sáng lập Phật Giáo.
Ngài cũng được gọi là Phật Tổ Như Lai. Năm 29 tuổi, sau khi Công
chúa Da-du-đà-la hạ sinh một bé trai, thái tử Tất-đạt-đa quyết định
ĺa cung điện, cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau.
Kiền-trắc là một con ngựa bạch cao lớn đưa Thái tử vượt thành xuất
gia. Thái tử cỡi trên lưng ngựa bay qua sông. Xa-nặc bám theo sau
đuôi ngựa.
Đêm đó
ba thầy tṛ đi hơn mười dặm đường, đến địa phận thành Tỳ-xá-ly
(Vesali), qua sông Anoma (Nesa njară) th́ trời vừa sáng. Tại đây
dừng ngựa, ngài cắt tóc, giao áo măo cho Xa-nặc đem về. Đó là chuyến
đi cuối cùng của Kiền-trắc. Sau đó con ngựa lâm bệnh từ trần. Sau
khi chết Kiền-trắc tái sinh thành học giả –qua hành tŕnh tu luyện
đạt được sự giác ngộ và tái sanh về cơi Trời.

VINH HỒ
Sưu tầm