Tất
cả đều có tài cầm quân, bách chiến bách thắng, từng xử dụng những
đoàn kỵ binh thần tốc, tinh nhuệ. Những tượng đài tưởng niệm của
các vị nầy đều ngồi trên lưng chiến mă. Ngựa gắn liền với chiến
công hiển hách. Những chiến sĩ dọ thám, liên lạc, truyền tin, vận
chuyển dùng Ngựa để ngược xuôi giữa các chiến trường. Ngày nay,
binh chủng Thiết Giáp được gọi là Kỵ binh.
7.
Ngựa Trong H́nh Pháp:
Tứ
mă phân thây (đôi khi gọi là tứ mă phanh thây) tức là cột tứ chi của
tội nhân cho bốn con ngựa kéo về bốn hướng là một h́nh phạt
thời phong kiến. Khi hành h́nh, các nài ngựa sẽ thúc ngựa phi ra bốn
hướng c̣n không có nài ngựa th́ người ta sẽ hét lớn hoặc đánh ngựa
để chúng hoảng sợ bỏ chạy. Từ đó bốn sợi dây sẽ kéo tứ chi phạm nhân
đến khi thân thể của phạm nhân bị xé thành nhiều mảnh. Phạm nhân sẽ
bị bỏ mặc cho máu chảy đến chết.
7. Ngựa Trong đời sống:
-Ngựa được con người xếp loại “khuyển mã chi tình”, nghĩa
là chó và ngựa là giống vật có tình. Thế nhưng con người
lại không chí t́nh.
Chuyện kể trên núi Vân Vụ bên Tàu trồng trà, quanh năm mây phủ. Buổi
sáng người ta cho ngựa nhịn đói lên núi ăn đọt trà no nê rồi giết
chết ngựa, mổ dạ dày ra lấy trà, chế biến thành 1 loại trà qúy gọi
là "Trảm Mă Trà". Ngựa in dấu nhiều nơi trên thế giới từ Hy
Lạp cổ đại, Ai Cập cổ đại, La Mã cổ đại, Trung Cận Đông,
Việt Nam, Trung Quốc, Ả Rập Hồi giáo, Châu Âu Trung cổ, Mông
Cổ…
-Bọ
ngựa: Con vật nhỏ, nổi tiếng với việc ăn thịt bạn t́nh trong khi
giao phối, ngay khi c̣n sống.

Bọ ngựa.
-Nững kiểu búi tóc đuôi ngựa vô cùng quyến rũ, trữ t́nh, quư phái
thịnh hành như sau đây:

-Xe
Thổ Mộ xuất hiện từ khoảng thập niên 80/ thế kỷ 19 có nguồn gốc từ
những chiếc xe song mă sang trọng của Vua chúa, của giới thượng lưu
tại nước Pháp. Người dân Nam Việt đă cải tiến cho thích hợp với địa
h́nh của miền quê sông nước. Xe Thổ Mộ có 2 bánh bằng cây; thân xe
trang trí rất đẹp, được kéo bởi một con Ngựa. Người ta phải đóng
móng ngựa bằng sắt. Mắt Ngựa được che hai bên, chỉ nh́n về phía
trước. Xe có thể chở từ 5-7 người cùng với hành lư nặng nề.

-Có
ḍng họ
Mă như danh tướng Mă Siêu, nhạc sĩ mă Đ́nh Sơn…
-Trong dân gian có cụm: từ thiên lư mă, phi ngựa, cỡi ngựa, lạm
phát phi mă, mă lực, vành móng ngựa. Con đĩ ngựa, đồ ngựa, giở chứng
ngựa… được dùng để ám chỉ phụ nữ có sức mạnh t́nh dục cao, trong
khi đàn ông th́ dùng h́nh ảnh con dê.
8. Ngựa trong âm nhạc:
Nhiều lắm chỉ xin trích lời ca từ một số bài nổi tiếng:
-Lệnh
vua hành quân trống kêu dồn, quan với quân lên đường, đoàn ngựa xe
cuối cùng, vừa đuổi theo lối sông…
-Ngựa
phi ngoài xa hí vang trời, chiêng trống khua trăm hồi, ngần ngại
trên núi đồi, rồi vọng ra khắp nơị. Phiá cách quan xa vời, chiêng
trống khua trăm hồi, ngần ngại trên núi đồi, rồi dậy ra khắp nơi,
thắm bao niềm chia phôi. (H̉N VỌNG PHU 1, Nhạc và lời: Lê Thương)
-Đường
chiều mịt mù cát bay, tỏa buớc ngựa phi. Đường trường nếp tàn y,
hùng cường vẫn c̣n bay trong gió. Bóng từ xa, sắp dần qua, bóng
chàng chập chùng vuợt núi non cũ. Với hành lương độ đường, chiếc
hùng gươm danh tướng. Dưới tà huy, đếm nhịp đi, vó ngựa phi… Dấn
bước tang bồng giữa nơi núi rừng (-H̉N VỌNG PHU 3, Nhạc và lời: Lê
Thương).
-Tuấn
mã ơi hãy phi mau về báo hung tin cho quân ta được rõ rằng
Võ Đông Sơ đã vùi thây nơi cát bụi quan… hà…” (Bài vọng cổ
Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà).
- Vết
Thù Trên Lưng Ngựa Hoang
Sáng tác: Phạm
Duy
Ngựa
hoang nào dẫm nát tơi bời
Đồng cỏ nào xanh ngát lưng trời
Ngựa phi như điên cuồng
Giữa cánh đồng dưới cơn giông
V́ trên lưng cong oằn
Những vết roi vẫn in hằn
Một hôm ngựa bỗng thấy thanh b́nh
Thảm cỏ t́nh yêu dưới chân ḿnh
Ân t́nh mở cửa ra với ḿnh
Ngựa hoang bỗng thấy mơ
Để quên những vết thù
Ngựa hoang muốn về tắm sông nhẫn nhục
Gịng sông mơ màng mát trong thơm ngọt
Ngựa hoang quên thù oán căm
Từ nơi tối tăm về miền tươi sáng
Ngựa hoang về tới bến sông rồi
Cởi mở ḷng ra với cơi đời
Nhưng đời ngựa hoang chết gục
Và trên lưng nó ôi
C̣n nguyên những vết thù
Lư
Ngựa Ô:
Sáng tác: Y Vân
Khớp
con ngựa ngựa ô
Khớp con ngựa ngựa ô
Ngựa ô anh khớp, anh khớp cái kiệu vàng (ự..)
Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen
Búp sen lá dặm, dây cương nhuộm thắm
Cán roi anh bịt đồng vàng
Là đưa ư a đưa nàng, đưa nàng
Anh đưa nàng về dinh
Là đưa ư a đưa nàng, đưa nàng
Anh đưa nàng về dinh
2. Khớp con ngựa ngựa ô
Khớp con ngựa ngựa ô
Ngựa ô anh khớp đi khắp các nẻo xa
Đi qua suối mộng, trở lại đồi mơ
Đi bên suối đợi, đi sang rừng nhớ
Dắt nhau trông biển hẹn ḥ (ơ)
Là theo í a theo nàng, anh theo nàng
Anh theo nàng một phen (ơ)
Là theo í a theo nàng, anh theo nàng
Anh theo nàng một phen
3. Khớp con ngựa ngựa ô
Khớp con ngựa ngựa ô
Ngựa ô anh khớp duyên bén ta thành đôi
Trong sân pháo nổ, cả họ mừng vui
Em mang áo đỏ, chân đi hài tía
Thắt lưng dây lụa màu vàng (ơ)
Cùng nhau í a tơ hồng, lễ tơ hồng
Lễ tơ hồng cùng nhau (ơ)
Cùng nhau í a tơ hồng, lễ tơ hồng
Lễ tơ hồng cùng nhau.
Ngẫu Hứng Lư Ngựa Ô:
Sáng tác: Trần
Tiến

Đêm
phương Nam nằm nghe ḍng sông nước chảy
Nghe
một tiếng ầu ơ nửa đêm băo giông
Đêm
phương Nam nằm nghe đường xa vó ngựa
Nghe
một thuở hồng hoang ngựa qua bến sông
Đêm
phương Nam nh́n lên mây bay khói toả,
Nh́n
ḥn đá lăn Nghiêng, nghiêng,
Nghiêng
nghiêng câu ca dao,
Nghiêng
nghiêng mái chèo
Dưới
bóng cây bóng cây ngô đồng, có con ngựa dừng chân, Có hai người yêu
nhau
Khớp
khớp khớp khớp con ngựa ô ngựa ô ngựa ô
Ngàn
năm thương nhớ đất nước có bao bài ca t́nh yêu ngựa ô
Để anh
đón nàng Ơ hơ, ơ hơ, ơ hơ, ơ hờ
Cho ai
yêu thương nhau bên nhau măi măi
Có
tiếng vó khớp con ngựa ô ngựa ô ngựa ô
Ngàn
năm thương nhớ đất nước có bao bài ca t́nh yêu ngựa ô
Để anh
đón nàng Ơ hơ, ơ hơ, ơ hơ, ơ hờ
Cho ai
yêu thương nhau bên nhau suốt đời
Khớp
khớp khớp khớp con ngựa ô
Ô ô ô
để anh khớp Khớp khớp khớp con ngựa ô
Ô ô ô
để anh khớp Khớp ô ô khớp Khớp con ngựa ô ngựa ô
9. Ngựa trong thành ngữ, tục ngữ:
-Một
con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ.
-Mă đáo
thành công.
-Ngựa
non háu đá.
-Cỡi
ngựa xem hoa.
-Ngựa
chứng là ngựa hay.
-Ngựa
quen đường cũ.
-Ngưu
tầm ngưu, mă tầm mă.
-Đầu
trâu mặt ngựa.
-Thẳng
như ruột ngựa.
-Ngựa
lồng cóc cọt cũng lồng.
-Da
ngựa bọc thây.
-Đơn
thương độc mă.
-Thiên
binh vạn mă.
-Chiêu
binh măi mă.
-Một
ḿnh một ngựa.
-Nhất
ngôn kư xuất, tứ mă nan truy: (Một lời nói ra bốn ngựa khó t́m.)
-Tái
ông mất ngựa.
-Bóng
câu qua cửa sổ.
-Mặt
như mặt ngựa.
-Đường
dài mới biết ngựa hay.
-Thay
ngựa giữa ḍng
-Ngựa
về ngược
-Voi
dày ngựa xé
-Tứ mă
phân thây
-Được
đầu voi, đ̣i đầu ngựa.
-Hàm chó, vó ngựa, cựa gà, ngà voi.
-Gái có chồng như ngựa có cương.
-Ngựa
nào gác được hai yên.
-Chữ tốt xem tay, ngựa hay xem xoáy.
-Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn;
-Ngựa
le te cũng đến bến giang, voi đủng đỉnh cũng sang qua đò.
-Dần
Ngọ Tuất tam hợp.
10. Ngựa Trong Điển Tích:

-Tái
ông thất mă:
"Tái
ông thất mă" nghĩa là ông già ở biên giới mất ngựa".
Sách
của Hoài Nam Tử chép:
Một
ông lăo ở gần cửa ải Nhạn Môn (nơi giáp giới với Phiên Quốc (Hồ) mất
con ngựa. Mọi người đến chia buồn. Ông lăo nói:
-Mất
ngựa biết đâu là 1 cái phúc!
Mấy
tháng sau, ngựa trở về dẫn theo một con ngựa tốt. Mọi người đến chúc
mừng. Ông lăo nói:
-Được ngựa biết đâu là 1 cái họa!
Được
ngựa tốt, con ông lăo mê cỡi bị té găy chân. Mọi người đến chia
buồn. Ông lăo nói:
-Què
thế biết đâu lại là 1 cái phúc!
Cách
một năm có giặc Hồ, lệnh Vua bắt thanh niên đi đánh giặc. Quân lính
mười người chết hết chín. Con ông lăo v́ què, nên khỏi đi lính.
"Tái
ông thất mă" là một thành ngữ chỉ sự họa, phúc xoay vần, khó mà biết
trước được. Trong cái phúc thường có cái họa, trong cái họa thường
có cái phúc.
-Con
ngựa thành Troie:
Theo
thần thoại, quân Hy Lạp muốn chiếm thành, đă dùng một con ngựa gỗ
trong bụng chứa nhiều quân mai phục đánh lừa quân Troie vào bên
trong thành đánh úp, hạ thành trong đêm. Sau này “Con ngựa thành
Troie” dùng để chỉ việc làm có nội ứng bên trong.
-Bóng ngựa qua cửa sổ
Thường được nghe là bóng câu, chỉ thời gian trôi nhanh. Xuất phát từ
câu nói Mạnh Tử:
“Nhân thiên địa chi gian, nhược bạch câu chi quá khích, hốt nhiên
chi dĩ.”
(Nghĩa là người ta sống trong khoảng trời đất cũng như ngựa trắng
qua cửa sổ trong chốc lát).
Hán Thư cũng có chú thích rằng bạch câu là con ngựa non, dùng để chỉ
sự lướt nhanh cửa bóng mặt trời.
Da
ngựa bọc thây
Mă
Viện đă trả lời Hán Quan Vũ (trong Hậu Hán Thư) rằng:
-“Đại trượng phu nên chết ở chiến trường, lấy da ngựa bọc thây mà
chôn, chứ sao lại nằm yên trên giường, trong tay bọn đàn bà trẻ con
mà được ư.”
-Thẳng như ruột ngựa:
Khi
nói về tính bộc trực người ta nói “thẳng như ruột ngựa", bởi ruột
ngựa dài 22m, ngắn hơn ruột trâu ḅ, cũng uốn khúc như trâu ḅ nhưng
ống tiêu hóa của chúng có manh tràng, thực chất là một túi bịt
đáy dài 1 m, đường kính 0,20 có thể chứa được 30 lít thức ăn trong
quá tŕnh tiêu hoá. Trong manh tràng có nhiều vi khuẩn giữ vai tṛ
lên men thức ăn, giúp tiêu hoá được dễ dàng, ở ngựa không có tập
tính nhai lại, do dạ dày không có 4 ngăn như trâu ḅ. Manh tràng làm
thành một một túi xếp thẳng trong khoang bụng nên ngựa được mệnh
danh là thẳng như ruột ngựa. Ngựa có thể nhịn được đến 2-3 ngày,
nhịn thức ăn từ 3 tháng đến 1 năm, chúng chỉ ăn toàn cỏ vẫn sống
được nhưng không béo khoẻ.
-Một
con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ:
Dân
gian mượn chuyện con vật có thật, để nói đạo làm người. Câu thành
ngữ đă nêu truyển thống tương thân, tương ái của cộng đồng người.
-Vành móng ngựa:
Xưa kia ở La Mă, nhà nước trừng trị phạm nhân bằng cách dùng ngựa xé
xác. Đó là cách thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Về sau người
ta lấy vành móng ngựa để làm biểu trưng cho uy lực của pháp luật. Do
đó trong các phiên ṭa, bị cáo phải đứng trong vành móng ngựa. Thành
ngữ trước vành móng ngựa được hiểu là trước toà án, trước pháp luật,
chịu sự trừng phạt của pháp luật.
-Ngựa trắng có cánh:
Trong thần thoại Hy Lạp, h́nh ảnh ngựa trắng có cánh biết bay, tượng
trưng cho cảm hứng trong sáng tạo thi ca.
-Ngựa Hươu: do câu "Chỉ lộc vi mă". Triệu Cao đời Tần bên Tàu ỷ
ḿnh lập Hồ Hợi lên làm vua (tức Tần Nhị Thế), một hôm mang con hươu
vào cung chỉ cho Vua nói là con ngựa. Vua bảo Tể Tướng nói sai.
Triệu Cao ngoảnh mặt hỏi các quan, các quan v́ sợ Triệu Cao nên đều
nói đó là con ngựa. Nghĩa bóng chỉ người điêu ngoa, gian trá, tráo
trở.
-Ngựa Tre: tích đời Hậu Hán. Có quan Thái Thú là Quách Cấp thanh
liêm chính trực, làm Thái Thú tại Tĩnh Châu. Sau đổi đi nơi khác,
một thời gian được chiếu chỉ triều đ́nh cho về lại Tĩnh Châu. Dân
chúng kết con ngựa tre mang ra thành rước Quách Cấp vào.
Nghĩa bóng: rước được vị quan thanh liêm chính trực về địa phương
của ḿnh.
-Ngựa Hồ, Chim Việt: tích nói dân Hồ phương Bắc mang triều cống
Vua Hán Vơ Đế một con ngựa qúy nổi tiếng là "Thiên Lư Mă". Vua cho
nuôi tại vườn Thượng Lâm. Thế nhưng ngựa bỏ ăn, khi thấy gió Bắc
thổi tới là ngựa hí lên vui mừng sau buồn bỏ ăn mà chết. C̣n chim
Việt là do tích Vua Phương Nam cống nhà Vua cặp chim quư nhưng chim
chỉ đậu cành hướng Nam. Do đó, trong thơ cổ có câu:
Việt điểu sào Nam chi
Hồ mă tê Bắc phong
Nghĩa là: Chim Việt đậu cành cây phương Nam
Ngựa Hồ hí lên khi thấy gió Bắc.
Nghĩa bóng chỉ ḷng tưởng nhớ quê hương

-Trú Mă Pha: do chuyện kể giữa Lưu Bị và Tôn Quyền cùng thi cưỡi
ngựa, khi Lưu Bị đi làm rể tại Đông Ngô. Đây là ngọn núi nơi cất
chùa Cam Lộ bên Đông Ngô. Sau vụ việc cưỡi ngựa này, nơi đây đổi tên
là Trú Mă Pha.
-Bóng Câu Qua Cửa Sổ: nhanh như ngựa phóng qua cửa sổ. Ư nói thời
gian qua rất nhanh. Cùng nghĩa với chữ "Câu Ảnh". Trong Tống sử có
câu:
"Nhân sinh như bạch câu quá khích"
(nghĩa
là: đời người như con ngựa trắng chạy qua lỗ hở).
11. Ngựa Trong Địa Danh Lịch Sử: Núi Mă Yên, Quỷ Môn Quan, Ải
Chi Lăng:
Bạch
Đằng Giang hai lần nhuộm máu quân thù. G̣ Đống Đa mồ chôn mấy vạn
quân Thanh. Núi Mă Yên, Chi Lăng nơi Liễu Thăng bị chém đầu và hơn
một vạn quân Minh bị giết trong trận chiến đánh đuổi giặc Minh vào
thế kỷ thứ 15 (1407-1427) dưới sự lănh đạo của B́nh Định Vương Lê
Lợi và Quân sư Nguyễn Trăi đă giải ách nô lệ cho dân Việt.

Núi Mă Yên (giống như cái yên ngựa cao độ 200m) ảnh Tuyết Nhung.
Xă Chi Lăng thuộc tỉnh Lạng Sơn là nơi có nhiều di tích lịch sử
nổi tiếng như Quỷ Môn Quan, Núi Mă Yên, Ải Chi Lăng - con đường độc
đạo ngh́n năm giữ nước.
Núi
Mă Yên c̣n gọi là G̣ Mă Yên gần Ải Chi Lăng, thuộc xă Chi Lăng,
huyện Chi Lăng. tỉnh Lạng Sơn (cách Hà Nội 105 km) trên quốc
lộ từ Hà Nội đi Lạng Sơn.
Toàn
bộ ải Chi Lăng như một thung lũng nhỏ, h́nh bầu dục dài khoảng 4km,
chỗ rộng nhất ở giữa khoảng 1km. Phía tây có dăy núi đá vôi Cai Kinh
dựng đứng và phía đông có dăy núi Bảo Đài, Thái Ḥa trùng điệp. Con
sông Thương ngoằn ngoèo chảy dọc theo thung lũng. Những ngọn núi
thấp rải rác dọc thung lũng, nằm ven đường cái quan như: núi Hàm
Quỷ, núi Phượng Hoàng, núi Kỳ Lân, núi Mă Yên. Đóng khóa hai đầu của
thung lũng, nơi hai ṿng cung núi đất phía Đông và núi đá phía Tây
khép lại, là lũy Ải Quỷ phía Bắc và núi Ngơ Thề phía Nam, ôm kín
trong ḷng một ải quan.
Từ
khi Ngô Quyền giành được độc lập, Lạng Sơn trở thành địa đầu Tổ
quốc. Địa thế hiểm yếu được người xưa ghi lại như sau:
"Hàng ngh́n ngọn núi la liệt, hàng ngh́n khe suối quanh ṿng, khí
núi độc, đường đất hiểm trở, đi lại khó khăn...".
Lên
Lạng Sơn, khi qua ải Chi Lăng, đứng nh́n về phương Nam có một khoảng
thung lũng bị thắt lại do một bên là núi đá trườn ra, lại có một
trái núi mọc giữa, suối chảy sát chân núi. Lợi dụng địa h́nh này nơi
đây, tiền nhân đă đắp một tường thành đất ngang qua để chặn bước
tiến quân thù. Từ đó có tên Ải Chi Lăng. C̣n có tên là Cửa Quỷ v́
trên vách đá của dăy núi Cai Kinh, có một h́nh thù trông giống như
mặt quỷ khổng lồ hung tợn từ trên lao xuống. Tại ḷng ải này, mỗi
khi có quân giặc đi qua đều bị quân ta mai phục từ trên núi bắn tên
nỏ, bẫy đá lăn xuống như mưa, địch thiệt hại rất nhiều.
Do
vị trí địa h́nh đặc biệt, nơi có con đường huyết mạch từ biên giới
phía Bắc vào nước ta, nên qua các triều đại từ Đinh, Lư, Trần, Lê...
thời nào ải Chi Lăng cũng lập nên những chiến công.

Đá Liễu Thăng cụt đầu,
thắng tích của Chi Lăng
Tại Quỷ Môn Quan có hai khối núi đối nhau và ở giữa có độ rộng
30 bước.
Mă Viện đánh Việt Nam đi qua đấy dựng bia, tạc rùa đá. Đời nhà
Tấn, quân Tàu qua đó bị giết rất nhiều nên có câu:
Quỷ Môn
Quan, Quỷ Môn Quan!
Thập
nhân khứ, nhất nhân hoàn.
Nghĩa
là:
Ải cửa
Quỷ, Ải cửa Quỷ!
Mười
người đi, một người về.
Xưa
kia, sứ bộ Việt Nam trên đường thiên lư sang Trung Hoa đều dừng tại
Quỷ Môn Quan trước khi tiến đến Ải
Nam Quan. Như vậy, Quỷ Môn Quan chính là một phần của Ải Chi
Lăng.
Từ thế
kỷ 14, Tể tướng nhà
Trần là Phạm
Sư Mạnh (học tṛ giỏi của nhà giáo Chu Văn An) đỗ Thái học sinh
(Tiến sĩ) đời vua Trần Minh Tông dừng chân trước Ải Chi Lăng trên
đường tuần thú xứ Lạng đă cảm tác bài “Chi
Lăng Động” xin trích nguyên văn 2 câu sau:
Lâu phong bạt mă cao hồi thủ
Chi Lăng quan hiểm dữ thiên tề
Nghĩa là:
Trước gió gh́ cương ngựa, lên cao ngoảnh đầu nh́n.
Chi Lăng ải hiểm tựa lên trời.
Năm
1804 thời nhà Nguyễn, thi hào Nguyễn Du lúc lên trấn Nam Quan nghênh
tiếp sứ Tàu sang phong sắc cho vua Gia Long, khi qua Ải Chi Lăng có
làm bài thơ sau:
Quỷ Môn
Đạo trung
Quỷ Môn
thạch kính xuất vân côn
Chinh
khách nam quy dục đoạn hồn
Thụ thụ
đông phong xuy tống mă
Sơn sơn
lạc nguyệt dạ đề viên
Trung
tuần lăo thái phùng nhân lăn
Nhất lộ
hàn uy trượng tửu ôn
Sơn ổ
hà gia đại tham thụy
Nhật
cao do tự yểm sài môn.
Nguyễn
Du
-Quỷ
Môn quan: Ở phía nam xă Chi Lăng, đường hẹp, núi dốc, địa h́nh hiểm
trở, có 1 ngọn núi trông như đầu quỷ, cho nên mới gọi ải đó là Quỷ
Môn Quan.
-Xong sứ mệnh, Nguyễn Du trở về kinh, năm ấy là năm Giáp Tí (1804),
tác giả mới 40 tuổi, nhưng đầu đă bạc trắng.
Dịch
nghĩa:
Đường
đá ở núi Quỷ Môn từ chân mây đi ra,
Lữ khách về nam trông thầy mà kinh hồn.
Gió đông thổi qua hàng cây vào đám ngựa đi tiễn.
Trăng tà lặn sau dăy núi, ban đêm nghe tiếng vượn hú.
Ta đang độ tuổi trung niên mà đă có vẻ già, rất ngại chuyện thù
tiếp.
Dọc đường trời lạnh, nhờ hơi rượu mà ấm ḷng.
Trong xóm dưới núi kia, nhà ai ham ngủ thế?
Mặt trời lên cao rồi mà cửa tre c̣n đóng kín.
Trên
đường qua Ải Quỷ Môn
Quỷ Môn
đường đá dựng, mây vờn,
Chinh
khách về Nam muốn đứt hồn.
Gió
thốc cây rung, ngựa tiễn biệt,
Trăng
tàn núi lạnh, vượn kêu buồn.
Trung
niên già cỗi khách lười tiếp,
Độc đạo
rét run rượu uống dồn.
Xóm núi
nhà ai c̣n ngái ngủ,
Then
cài, cửa đóng, nắng xuyên thôn.
Vinh Hồ
tạm dịch.
Đọc
thơ xưa, ta thấy tiền nhân từ Tể tướng thời Trần -
Phạm Sư Mạnh - đến đại thi hào Nguyễn Du thời Nguyễn - đă từng
đến miền quan ải phía Bắc và đă viết nên những vần thơ tuyệt bút ca
ngợi vùng đất thiêng, một vị trí hiểm trở, trọng yếu của Tổ Quốc.
Nhờ vị trí hiểm trở, trọng yếu đó, mà nước VN được bảo vệ suốt chiều
dài lịch sử. Cho nên tiền nhân đă khuyên cháu con phải giữ ǵn từng
tất đất không để lọt vào tay địch, nhất là vùng đất thiêng ở địa đầu
biên ải phái Bắc.
12. Ngựa và chuyện t́nh tay ba giữa Đường Minh Hoàng, Dương Quư
Phi và An Lộc Sơn:
Ngựa
c̣n gắn liền với cuộc đời hiển hách của bao danh tướng và giai nhân,
như trong chuyện t́nh tay ba giữa Đường Minh Hoàng, Dương Quư Phi và
An Lộc Sơn.

Dương Quư phi thích ăn trái vải, nhưng vải chỉ trồng được ở đất Lĩnh
Nam. Vải chỉ giữ được trong khoảng thời gian 7 ngày. Tuy nhiên, v́
yêu Dương Quư Phi, nên Vua Đường Minh Hoàng đă t́m mọi cách để làm
cho Nàng vui ḷng.
Việc vận chuyển vải về kinh thành do những con ngựa chiến đảm
nhận. Mỗi khi tới trạm, quan cho đổi một con ngựa mới. Để thỏa măn
sở thích của giai nhân, nhiều người đă bỏ mạng, nhiều chiến mă đă
chết v́ kiệt sức trên đường.
Dương Quư Phi rất được hoàng đế yêu chiều, nhưng nàng lại tư thông
với Tiết Độ Sứ An Lộc Sơn - một danh tướng, cận thần của Vua. Biết
Dương Quư Phi thích quả lệ chi, An Lộc Sơn cỡi chiến mă xuống Lĩnh
Nam hái mang về, nhằm lấy ḷng giai nhân, người mà sắc đẹp đă khiến
cho hoa phải thu ḿnh lại v́ hổ thẹn (tu hoa). Nàng c̣n có cả tài
đánh đàn t́ bà, thổi sáo nữa. Sau này, nàng được liệt vào danh sách
Tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa.

Phạm Băng Băng trong vai Dương Quư Phi
Có
nhiều phim dựng lên từ chuyện t́nh tay ba này.
"Dương Quư Phi" là bộ phim có kinh phí dự tính lên tới 20 triệu USD
với sự hợp tác sản xuất của một số đơn vị điện ảnh ba nước Trung –
Nhật – Hàn. Phạm Băng Băng thủ vai diễn Dương Quư Phi.
Trước 1975, có vở tuồng cải lương “Chuyện T́nh An Lộc Sơn” do Thanh
Nga, Tấn Tài, Thanh Sang, Ngọc Giàu, Ngọc Thủy, Minh Trung thủ diễn,
xin trích vài đoạn:
-An
Lộc Sơn: Trùng ngàn trùng sỏi đá nắng cháy ngựa phi gió câu chẳng
dừng chân nơi đâu, đường về thành Trường An xa xôi, long mơ thấy ánh
mắt Thái Chân tim nghe bồi hồi. Tay nâng nui quả lệ chi thơm ngon
chẳng tiếc nuối tháng ngày qua gian lao, dâng nàng cả tấm ḷng t́nh
yêu của Lộc Sơn.
-An
Lộc Sơn: Thái Chân ơi! Vừa biết được Thái Chân yêu thích quả lệ chi
đất Lĩnh, thần xin đem chút tài kỵ mă rời khỏi Trường An thương nhớ
trên lưng ngựa nâng niu giữ vẹn quả tươi… hồng.
Ḷng
nôn nóng khi nh́n thấy Dương Phi cắn trái mộng giữa môi hồng.
Thở
khói như mây Long Câu trổ tài thiên lư, tại người nóng ḷng hay ngựa
nản chân bon, đây tâm t́nh của An tướng An Lộc Sơn, cuồng nhiệt quá
thành vụng về khờ dại, sợ quả giập bầm c̣n hơn sợ thọ trọng thương,
lo trái mất ngon c̣n hơn lo đoạt thành cướp ải, tâng tiu quả lệ chi
như yêu quí bản thân ḿnh.
-An Lộc Sơn: Trời ơi! Thái Chân ơi! Ta dấy cuồng phong là mong
nàng ngự trên ngôi cao tuyệt điỉnh nào ngờ đâu qua bao đao lửu tan
thương ta chỉ c̣n lại Thái Chân một thể xác không hồn. Thái Chân ơi!
C̣n đầu nữa thiết tha, điện ngọc, cung son, sơn hà, cẩm tú có nghĩa
ǵ đâu danh anh hùng đắt thắng khi ôm trong tay người yêu rũ rượi
khép mi sầu.
13. Ngựa Trong Sấm Kư của Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Nguyễn Bỉnh Khiêm tên huư là Nguyễn Văn Đạt, tên tự là Hanh
Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang
phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử và
văn hóa VN trong TK 16. Ông được biết đến nhiều v́ tư cách đạo đức,
tài thơ văn của một nhà giáo, cũng như tài tiên tri. Người đời coi
ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu
truyền nhiều câu sấm kư được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung
là Sấm Trạng Tŕnh. Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ (Hán +
Nôm) c̣n lưu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều
bài văn bia (bi kư) nổi tiếng như Trung Tân quán bi kư, Thạch khánh
kư, Tam giáo tượng bi minh...
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc
đến hai chữ Việt Nam một cách có ư thức thông qua các văn tự của ông
c̣n lưu lại đến ngày nay.
Ngay
trong phần đầu của tập sấm kư có tựa đề “Tŕnh tiên sinh quốc ngữ”
tên Việt Nam đă được nhắc đến:
“Việt Nam khởi tổ xây nền”.
Danh
xưng Việt Nam c̣n được sử dụng một lần nữa trong bài thơ chữ Hán của
ông có tựa đề:
“Việt Nam sơn hà hải động thưởng vịnh”
(Vịnh về non sông đất nước Việt Nam).
Ngoài ra c̣n có hai bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi hai người bạn
thân:
-Bài thứ nhất gửi Trạng nguyên Thư Quốc công Nguyễn Thiến, hai câu
cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:
Tiền tŕnh vĩ đại quân tu kư
Thùy thị phương danh trọng Việt Nam
(Tiền đề rộng lớn ông nên ghi nhớ, Ai sẽ là kẻ có tiếng thơm được
coi trọng ở Việt Nam?).
-Bài
thứ hai gửi Trạng nguyên Tô Khê hầu Giáp Hải, hai câu cuối viết:
Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại
Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam
(Cùng ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời, Trước sau soi ánh
sáng rực rỡ vào nước Việt Nam). Các bài thơ trên c̣n được chép trong
tập thơ Bạch Vân am thi tập.
Lời tiên tri về chủ quyền Biển Đông của Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh
Khiêm qua hai câu thơ:
Vạn lư Đông minh quy bả ác,
Ức niên Nam cực điện long b́nh.
(Biển Đông vạn dặm giang tay giữ,
Đất Việt muôn năm vững trị b́nh).
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, hai câu đó trích từ bài "Cự
Ngao Đới Sơn" trong "Bạch Vân Am Thi Tập" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyên văn bài thơ:
Bích
tẩm tiên sơn triệt để thanh,
Cự ngao
đới đắc ngọc hồ sinh.
Đáo đầu
thạch hữu bổ thiên lực,
Trước
cước trào vô quyển địa thanh.
Vạn lư
Đông minh quy bả ác,
Ức niên
Nam cực điện long b́nh.
Ngă kim
dục triển phù nguy lực,
Văn
khước quan hà cựu đế thành.
Dịch
nghĩa:
Con rùa
lớn đội núi
Nước
biếc ngâm núi tiên trong tận đáy,
Con rùa
lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.
Ngoi
đầu lên, đá có sức vá trời
Bấm
chân xuống, sóng cuồn cuộn không dội tiếng vào đất.
Biển
Đông vạn dặm đưa về nắm trong bàn tay,
Muôn
năm cơi Nam đặt vững cảnh trị b́nh.
Ta nay
muốn thi thố sức phù nguy,
Lấy lại
quan hà, thành xưa của nhà vua).
Trong dân gian c̣n lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập sấm kư Nôm
thường mang tên
Sấm Trạng Tŕnh và phần lớn viết theo thể lục bát như Tŕnh quốc
công sấm kí, Tŕnh tiên sinh quốc ngữ.
Sấm kư
Nguyễn Bỉnh Khiêm là những lời tiên tri của Ông về các biến cố chính
của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến khoảng năm
2019). Người Tàu phải phục tài lư số của ông nên có câu: "An Nam lư
học hữu Tŕnh Tuyền".
Trong Bộ Sấm Kư có 2 câu liên hệ đến ngựa như sau:
"Mă đề dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh."

14. Kết Luận:
Trong 12 con Giáp, đứng trước Ngựa là Rắn trông dữ dằn, gớm ghiết;
đứng sau Ngựa là Dê trông xấu xí, tiếu lâm. Trong 12 con Giáp không
con nào có thân h́nh đẹp đẽ, cân đối, thẩm mỹ, có tánh t́nh hiền
lành, chung thủy, có cuộc đời oanh liệt dọc ngang trên thiên lư như
Ngựa.
Ngựa in dấu nhiều nơi trên thế giới từ Hy Lạp cổ đại, Ai
Cập cổ đại, La Mã cổ đại, Trung Cận Đông, Ả Rập Hồi giáo,
Châu Âu Trung cổ, Việt Nam, Trung Quốc, Mông Cổ…
Ngựa
hiện diện trong đời sống vật chất, tâm linh, tinh thần của con
người.
Sau
1 năm con Rắn, thế giới trải qua nhiều thiên tai, địch họa.
Năm con
Ngựa cầu mong thế giới được ḥa b́nh, dân chủ, tự do; cầu chúc mọi
người được phước, lộc, thọ, khương, an và hạnh phúc.