
Bài 38:
VỌNG TƯƠNG SAN TỰ
望湘山寺
Cổ Phật vô lượng Đường thế nhân,
古佛無量唐世人
Tương San tự lư hữu chân thân. 湘山寺裏有真身
Chân thân nhất dạ tẫn viêm hỏa, 真身一夜燼炎火
Cổ tự thiên niên không mộ vân. 古寺千年空暮雲
Ngũ Lĩnh phong loan đa khí sắc, 五嶺峰巒多氣色
Toàn Châu thành quách tại phong trần.全州城郭在風塵
Cô chu giang thượng bằng lan xứ, 孤舟江上憑欄處
Nhất đái tùng sam bán tịch huân.
一帶松杉半夕曛
TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:
NH̀N CHÙA TƯƠNG SAN
TỪ XA
Người Đường vô
lượng Phật xưa,
Chân thân c̣n ở
trong chùa Tương San.
Chân thân một tối
cháy tàn,
Chùa xưa lặng lẽ
mây ngàn đời trôi.
Khí giăng Ngũ Lĩnh
sắc vời,
Toàn Châu thành
quách gió khơi bụi lồng.
Lan can thuyền tựa
trên sông,
Ánh chiều le lói
nửa vùng tùng sam.
DỊCH NGHĨA:
Trong ngôi chùa Tương San vẫn c̣n có
chân thân của một vị Phật xưa vô lượng công đức của đời nhà Đường.
Một đêm chân thân của vị Phật ấy cháy thiêu hóa. Ngôi chùa xưa
lặng lẽ ấy ngàn năm sau đám mây chiều vẫn c̣n đó. Những đỉnh núi
cao của Ngũ Lĩnh nhiều hơi tỏa và màu sắc. C̣n thành quách Toàn
Châu (nh́n lại) vẫn c̣n trong cơn gió lồng bụi bặm. Ta tựa vào lan
can của chiếc thuyền lẻ loi trên con sông thấy ánh trời chiều le
lói chiếu vào nửa dăy cây tùng, cây sam.
CHÚ THÍCH:
|
無量 |
vô lượng: |
không thể đo lường được. |
Câu 1: |
|
nói về Đường Huyền
Trang nhờ công đức lớn lao là sang đất Phật ở Ấn Độ thỉnh kinh
mang về phiên dịch, chú giải để giáo hóa người đời. Công đức
không thể nào đo lường ấy của ngài được người đời tôn xưng vào
hàng Vô lượng cổ Phật”. |
真身 |
chân thân: |
đây chỉ nhục thân của bậc tu hành
đă đắc đạo, thấu rơ được lẽ Phật nhiệm màu khi mất đi vẫn được
ướp tẩm giữ ǵn để thờ cúng. |
燼 |
tẫn: |
cháy tan hết, cháy không c̣n ǵ. |
空 |
không: |
vắng vẻ, trống rỗng, lặng lẽ… |
峰巒 |
phong loan: |
đỉnh núi cao và nhọn. |
曛 |
huân:
|
ánh mặt trời lúc
sắp lặn c̣n le lói. |
|
|
|
Bài 39:
TƯƠNG GIANG DẠ BẠC
湘江夜泊
Nhất khứ lục thập lư,
一去六十里
Du du giang thủy trường. 悠悠江水長
Phù vân liên Ngũ Lĩnh, 浮雲連五嶺
Minh nguyệt hội Tam Tương. 明月會三湘
Biệt phố phân tân sắc, 別浦分新色
Dao không thất cố hương. 遥空失故鄉
Hạc lai nhân bất kiến, 鶴來人不見
Văn thụ uất thương thương. 晚樹鬱滄滄
TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:
ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở SÔNG
TƯƠNG
Sáu mươi dặm một
lần đi,
Sông dài dằng dặc
xuôi về xa xôi.
Nối nhau Ngũ Lĩnh
mây trôi,
Ánh trăng họp lại
sáng ngời Tam Tương.
Chia riêng vẻ mới
bến sông,
Phương trời khuất
nẻo quê hương xa vời.
Hạc về chẳng thấy
đâu người?!
Rậm rà cây cối
xanh ngời chiều hôm.
DỊCH NGHĨA:
Một lần đi sáu mươi dặm trên con
sông dài dằng dặc chảy về chốn xa xăm này. Những đám mây trôi nổi
nối liền những ngọn núi vùng Ngũ Lĩnh. Ánh trăng tỏa sáng họp nhau
lại nơi vùng Tam Tương. Vẻ đẹp mới mẻ của ánh trăng sáng chia khắp
các bến sông riêng biệt. Quê nhà khuất nẻo ở một phương trời xa
xăm. Con chim hạc đă về lại nhưng không thấy người cưỡi. Những đám
cây rậm ŕ trong buổi chiều hôm xanh um tùm.
CHÚ THÍCH:
|
湘江 |
Tương Giang: |
sông Tương có nguồn từ Quảng Tây
chảy về phía đông bắc Hồ Nam nhập chung với ḍng Ly Thủy gọi là
Ly Tương; rồi gặp ḍng Tiêu Thủy họp lại gọi là ḍng Tiêu Tương
và trở ngược lên phía bắc gặp ḍng Chưng Thủy gọi là Chưng
Tương. Do đó Tương Giang được gọi là Tam Tương đổ dồn nước vào
hồ Động Đ́nh. |
悠悠 |
du du: |
xa thăm thẳm, xa xôi, lơ lững,
thong dong. |
遥空 |
dao không: |
khoảng trời xa xăm. |
Câu 7 và 8: |
|
Nguyễn Du
mượn ư trong bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” nổi tiếng trong thi ca
Trung Hoa của Thôi Hạo (c̣n gọi là Thôi Hiệu 704-754) với câu:
“Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản” và “Phương thảo thê thê Anh
Vũ châu” (Con hạc vàng một lần đi không trở lại; đám cỏ thơm
tươi tốt ở băi Anh Vũ). Tương truyền nhà thơ Lư Bạch khi viếng
lầu Hoàng Hạc thấy có đế bài thơ của Thôi Hạo đă ném bút không
làm nữa. |
|
|
|

DƯƠNG ANH SƠN

|