Mục Lục

 

  Trang B́a
     
Ban Biên Tập
 
 Chúc Tết
      Đồng Hương
 
 Lá TXuân
      Hải Lộc
 
 S Táo Quân Tổng Kết 10
      
Năm

     
Nguyễn Thị Thanh T
     
Nguyễn Đôn Huế Trang
 
 Câu Đối Mừng Xuân
      Lê Bá Thiên
 
 Câu Đối Tết
      Nguyễn Hữu Quang


 

H́nh nh
Xuân


 
 H́nh nh Xuân
      SXương Hải

 

Chùm
T Xuân
 


 
Phút Chạnh Ḷng...
     
Việt Hải Los Angeles
 
Ngày Xuân
      Bến Nhớ Chiều Xuân
      Nguyễn Tường Hoài
 Thiêu Thiếu...
      Dương Công Khánh
 
Mừng Xuân
      Hoàng Công Khiêm
 
 Tin Xuân - Đặc San
      Tin Xuân - Nguyện Cầu
      Đinh Thị Lan
  Nhớ Xuân

      Xuân Đă V
     
 Lư H
  Tin Xuân

      Xuân Nguyện
      Phan Phước Huy
 
Tin Xuân
     
Lê Văn N
 
 Vui Xuân
      
Hoàng Phi
  Anh Đă Đến, Mùa Xuân

      Bích Phượng
 
Tin Xuân
      Phi Ṛm (Hoàng Tiên)
 
Ḍng TXuân Tiếp Nối
     
Nguyễn Thị T


 

Năm Mới
Ô
n Chuyện Cũ




 
 Những Mùa Xuân Đă Qua
     
Nguyễn Thị Phương Hiền
 
 Kư c Xóm Rượu Với Nghề
      
Làm Bánh Tráng

     
Nguyễn Xuân Hoàng
 
Nắng Xuân
     
Nguyễn Thị Lộc
 
Mồng 3 Mồng 5 Tết Tân Măo
      Lê Văn Phan
 
 Chào Năm Cũ Mừng Năm
      
Mới...

     
Phi Ṛm
 

 

TVi
 



  TVi Năm QT2013
      
Phạm Kế Viêm
 
 Vận Hạn Năm QT 2013
      
Cho Những Người Tuổi Rắn

      
Phạm Kế Viêm


 

Chuyện Vui
Xem/Đọc
3 Ngày Tết
 


 
 Ai Ơi Có Biết?
      
Loan Anh
 
 Câu ĐVui
      
Trần Duy Biên
 
 Vài Chuyện Vui
      
Lan Hương
 
 Năm Mới Nói Chuyện GTrẻ
      Nguyễn Hiền
 
 STáo Phong
      
Phạm Thanh Phong
 
 Những Câu ĐVui
      
Trần NPhương

 



Hội Ngộ
N
inh Ḥa-Dục Mỹ
 

  Buổi Họp Mặt Thân Hữu
      
Đầu Tiên

      
Nguyễn Thị Yến
 

 

Cắm Hoa Trang T



  Nghệ Thuật Cắm Hoa

 
     Lê Thị Lộc

 

Tranh
N
ghệ Thuật



  Tranh nh Nghệ Thuật

     
 Phi Ṛm


 

TVui
 


 
Rắn
      Tú Trinh

 

 

XUÂN Ca Hát


  Nhạc Xuân Và Q Hương

      
Lan Hương, Lan Đinh,  Lư H
  "Áo Lụa Hà Đông"

      
Mai Hữu Thọ


 

Tôn Giáo

 

  Tiếng Chuông...Tiếng Đời
      
Đinh Thị Lan


 

Năm T Nói Chuyện RẮN
 

  Xuân QTKChuyện Rắn
       Nguyễn Chức
 
Rắn Qua Tín Ngưỡng, Văn
      
Hóa, Đời Sống

       Vinh H
 
Đầu Xuân Tản Mạn VRắn
       Vinh H
 
Tản Mạn Tết Năm Q T
      
Nguyễn Văn Thành
 
Độc Trị Độc
       Thi Thi

 

 

d_bb
Đ.H.K.H
 

  Liêu Trai C Dị-459
      Đàm Quang Hưng
  Thanh Phong Thi Tập-150
     
Vũ Tiến Phái
 
Nam Tông Và Bắc Tông
       Nguyễn Văn P
 
 Tính Biến Cải Và Tạp Chủng
      
Trong Văn Học Hậu Bắc

      
Thuộc

      
Lê Phụng
 
 Câu Đối Tết
      Nguyễn Hữu Quang
 
Dịch Vi Ngôn
     
Nguyễn Hữu Quang
  TSGhi Thời Đi Học
       Nguyễn Đức Tường
 
 TVi Năm QT2013
      
Phạm Kế Viêm
 
 Vận Hạn Năm QT 2013
      
Cho Những Người Tuổi Rắn

      
Phạm Kế Viêm
 

 


Văn Hóa
m Thực




 
 Bún Cá Xóm Cồn
      Quách Giao
 
 Mâm CNgày Tết Của
      
Người Dân 3 Miền

      Hoàng Bích Hà
 
 HTiếu Nam Vang:
      
KVà Nước

      Lan Hương
 
 HTiếu K
      Diệp Lan Mai
 
 Tết Đến Xuân V Nói
      
Chuyện Rượu

      Vơ Hoàng Nam
 
Mẹ Với Bánh Chưng BánhTét
      Vơ Hoàng Nam
 
 Thịt Kho Tiêu Và Rau Muống
      
Thấu

      Nguyễn Thị Thục





Sức Khỏe

      

 
Bệnh Cườm Nước (Glaucoma)

      
BS Lê Ánh
  Bệnh Mắt Cườm (Cataract)

      
BS Lê Ánh

 

 

Biên Khảo
Kinh Tế
 

Việt Nam

  Tổng Kết Nền Kinh Tế
      
Việt Nam Năm 2012

     
 Nguyễn Văn Thành


H
oa Kỳ/Thế Giới

  Tổng Kết Nền Kinh Tế
      
M Quốc Năm 2012

     
 Nguyễn Văn Thành
 


 

Kinh Nghiệm Sống



  Lịch S Và Tế Nhị

      Hoàng Bích Hà
  Nhật Kư Đời Thường Của Tôi

      Mai Tuyết Hồng
  YÊU

      PVĩnh Sơn

 

 

Viết v
Ninh Ḥa
Dục M
 


  Chút T́nh XUÂN C Hương

      NGH(NH) Nguyễn Văn Ḥa
  Dục M Trong Tôi

      Phan Phước Huy

 



Viết v
ninh-hoa.com



  Mùa Xuân Đến Với
      
Ninh-ḤaDOTCom

     
Trâm Anh
 
 K Niệm 10 Năm Trang Mạng
      
Cho Ninh-ḤaDotCom

      Nguyễn Xuân Hoàng
  Mười Năm T́nh Xuân

      Lư H
 
 Vui Xuân Đón Tết
      Thi Thi
 
 Ninh-ḤaDOTCom, Đó...
     
Nguyễn Thị Thanh T



 

 KNiệm V
Trường:

Trần B́nh Trọng
Ninh Ḥa

 

  Một K Niệm K Quên
      Trần Hà Thanh
 
Tôn Sư Trọng Đạo

      Trần Hà Thanh
  Vũ Khúc Vọng C Đô

      Trần Hà Thanh
 

 

Dục M


 
 Viết VKư c Và K Niệm
      
Thuở Xa Xưa

      
Nguyễn Thị Đông
  K Niệm K Quên

      Phan Phước Huy

 

Vạn Ninh


 
Mứt Dừa  Một Thủa

     
Ngọc Anh
  Bút Xuân

     
Lam Kha
 
Mùa Xuân  Di-Lặc

     
Nguyên Kim
  Xuân Q Tỵ 2013

     
Nguyên Kim
  C Tiểu Bất Đắc Dĩ

      HThoại M
 
Chiếc Bóng Bên Trời

      Trương Văn Nghi
  Đón Tết

     
Lâm Ngọc
  Luyến Tiếc

     
Lâm Ngọc
  Đầu Xuân Viết T Cho Con

      Đặng Tuyết N
  Chuyện T́nh Đêm Mồng 1Tết

      Hồng Sương
  Vịnh Xuân

     
Lâm Thảo
  Chúc Xuân

     
Thi Thi
  N Một Áng Mây

      Thúy Vũ
 

 

Thể Thao
D
u Lịch



  Đội Banh Ninh Ḥa

      Lư H
 
 Những Điều Lư TV Đảo
      
Quốc Sư T

      
Hoàng Thị Lan
 
Tôi Đi D Hội THAO

      Lương LBích San


 

 

Văn Học
Nghệ Thuật
 



 
Bước Chân Người Nhớ 
      
Thương Tôi..

      
Lương L Huyền Chiêu
 
 Rồng Việt Nam
      Liên Khôi Chương
  Haiku:  V Núi

      Mục Đồng
 
 Hai Mươi Tám Tết
      Bạch Liên
 
 Nơi  Bắt Đầu Mùa Xuân
      Nguyễn Thị Khánh Minh
 
 Cao Bá Quát Với Hoa Mai
      Vơ Hoàng Nam
 
 Con Rắn
      Topa Panning
  Hương T́nh Xuân Chín

      Bích Phượng
 
 Ánh Mắt Mùa Xuân
      Nguyễn Văn Sâm
 
 BẮC HÀNH TẠP LỤC: Bài 5  
      
Lạng Thành Đạo Trung

      Dương Anh Sơn
 
 T Xuân
      Quách Tấn
  T Xuân Nguyễn Bính

      
TBửu Nguyễn Thừa
 
Điệp Khúc Mùa Xuân

      
Tiểu Vũ Vi

 

 



T
 



  Chào Xuân Viễn X

      Bích Phượng
  Hương Sắc Mùa Xuân

      Bích Phượng
 
 Hương Xưa

      Trần Ngọc Chánh
 
 Tṛn Giấc Mơ Xuân

      Trần Thị Chất
  Xuân Này Em Không V

      
Lương LHuyền Chiêu
 
 Chúc Tết - Được Lời
      Liên Khôi Chương
 
Đánh Thức Nàng Xuân
      Nguyễn Tường Hoài
 
 Mừng Xuân QT
      Song  H
  Đời Rắn

      
Vinh H
 
Mùa Xuân
      Mai Thị Hưng Hồng
 
Sinh Nhật Mai Hồng
      Mừng Sinh Nhật Cháu My
      Mai Tuyết Hồng
  Xuân

      
T Kim Huy
 
 Mừng Xuân QT
      Hoàng Lan
 
 Tiếng Sáo Đêm Xuân
     
Kiều Lam
 
 Xuân QTỵ 2013
      Bạch Liên
  Sắc Mai
      Nhất Chi Mai
 
 Duyên T
      Thụy Nguyên
 
Mộng Ngày Xuân- Xuân Đến
      Lê Văn Phan
 
 Xuân Nhớ
      
Nguyễn Hoàng Phi
 
 Công Và Bướm
      Nguyễn Quân
 
 Vẫn Đợi Chờ Mùa Xuân Đến
      Dương Anh Sơn
 
 Xé Ngang Cuộc T́nh
      PVĩnh Sơn
 
 Thế Cho Nên...
      
Kim Thành
 
T́nh Xuân
      Hoài Thu
 
 Duyên Dáng Mùa Xuân
      Tiểu Vũ Vi


 


Văn

 


 
 Mùa Xuân V Trên Làng Q
      
Yên B́nh

      Vân Anh
 
 Mùa Lại Về! Xuân Ơi...
       Lê Thị MChâu
 
 Xuân N Ư
       Lê Thị Đào
 
 Tiếng Cười Đoàn Viên
     
Khuất Đẩu
 
 Sắc Bàng Đầu Xuân
      Quách Giao
 
 Chia X Mùa Xuân
      Lê Thị Ngọc Hà
  Giọng Khổ

      
Nguyễn Hiền
 
Nhớ Ǵ V Xuân

      Lư H
 
 Xuân Yên B́nh
      Bạch Liên
 
 Nắng Xuân
      Nguyễn Thị Ngọc Lan
 
 Lần Theo Mộng o Mà Về...
      Nguyễn Thị Khánh Minh
 
 Vẫn Là Những Mùa Xuân
      
Buồn

      Topa Panning
 
 Chuyến Xe Đêm Trừ Tịch
      Trần N Phương
 
 NNúi Đá Có Từng Lớp...
      Nguyễn Văn Sâm
 
 Mái m Gia Đ́nh
      Trần Đ́nh Nguyên Soái
 
 VNinh Ḥa, Ăn Bánh Ướt
      
Bà Năm

     
 Nguyễn Hữu Tài
 
 Tết Này MKhông V
      Hà Thị Thu Thủy
 
 Gặp Lại Người Xưa
      Lê Thị Kim Thoa
 
 Một Thoáng Ninh Ḥa
      Phạm Thị Thục
 
 Những Người Thích Đùa
      Bùi Thanh Xuân

 

 

 

Thư từ, bài vở, h́nh ảnh hoặc
ư kiến xây dựng, xin liên lạc:



diem27thuy@yahoo.com

 



 

 

 

 

 

 

 


 


Sau 30.4.1975 mọi sự đều đổi thay! Sài G̣n đổi chủ!

Trường tôi dạy bị giải thể. Tôi được bố trí về trường Chí Thiện, một cơ sở giáo dục thuộc giáo hội Thiên Chúa Giáo. Ngôi trường nằm trong khuôn viên nhà thờ Chợ Quán quận 5 Sài G̣n.

 

Cổng chính rộng. Hai cánh cửa đồ sộ. Ṿng cung bắc ngang qua hai trụ cổng đều bằng sắt trang trí hoa văn rất đẹp. Từ cổng đi thẳng vào ngang qua một khoảng sân rất rộng là ngôi giáo đường với hai tháp chuông cao vút. Sân nhà thờ rất rộng cũng là sân trường rợp bóng mát của những cây dầu, cây sao thân thẳng, tàng lá xum xuê. Hai bên sân nhà thờ là hai dăy lầu đúc hai tầng làm các lớp học. Trường có từ lớp Sáu đến lớp Mười hai.

Thành phần giáo sư th́ tổng hợp: giáo sư bộ Giáo dục, giáo sư tư thục được công lập hóa, giáo sư tăng viện từ Bắc vào, giáo sư từ chiến khu ra…Chúng tôi đến trường lớp, mỗi người mỗi tâm trạng khác nhau. Mọi người đều giữ ư nhau. Thành phần các bà có chồng đi “học tập cải tạo”, có chồng đi Mỹ vẫn được tiếp tục dạy khác với các tỉnh. Các bà diện này đều cho nghỉ việc. Tâm trạng của chúng tôi là tâm trạng của một Từ Hải:

 “Bó thân về với triều đ́nh,

 Hàng thần lơ láo phận ḿnh ra đâu.” (Kiều)

Chúng tôi biết tâm sự cùng ai:

 “Ai tri âm đó, mặn mà với ai” (Kiều)

Chúng tôi là giáo sư công lập cũ nghĩa là có cộng tác với chế độ “Nguỵ” được lưu dụng ở lại làm việc. Và dĩ nhiên phải qua các lớp bồi dưỡng. Hoa mỹ vậy thôi chứ thực ra là cải tạo tư tưởng nhất là các giáo sư dạy môn Văn Sử (Việt văn, Lịch sử). Môn Triết th́ bỏ không c̣n trong chương tŕnh lớp 12.

 

Và cũng chỉ v́ một cái dấu nặng (.). Những người Cộng Sản, họ rất thận trọng trong cách dùng từ. Chữ nghĩa họ viết, nói ra đều có dụng ư. Họ đánh lừa dư luận bằng những từ hoa mỹ “cải tạo”, “học tập”. Họ chủ trương giết lầm hơn tha lầm. Họ suy diễn vấn đề thật kỳ quặc. Tôi lại nhớ trong một buổi lễ họp Chi bộ Đảng ở trường, trên bàn chủ tọa chưng một b́nh bông ba hoa tươi rất đẹp. Họ bảo chúng tôi bôi bác chế độ là “Đảng ba hoa”. Đúng là suy ta ra người. Viết đến đây tôi sực nhớ một đoạn tự thuật của thầy Trần Hà Thanh, Hiệu trưởng trường Trung học Trần B́nh Trọng Ninh Ḥa, K.H. Thầy viết: “chúng tôi được lưu dung” (không có dấu nặng bên dưới chữ dụng đọc là dung). “Lưu dung” hay “lưu dụng”, b́nh thường th́ không có ǵ. Đó chỉ là một cách phát âm. Nhưng đằng này lại khác. Anh Châu, tôi không rơ thuộc diện nào, là một giáo sư dạy Lư lớp 12. Anh là người tầm thước. Nước da đen. Và nhất là quần áo rơ ra là một cán bộ. Quần tây màu olive, áo sơ mi nâu. Chân đi dép làm bằng lốp xe hơi (dép râu). Anh người Quăng Nam, Đà Nẵng ǵ đó (liên khu 5). Anh rất kín đáo và rất chuyên chính. Một hôm anh nói với tôi: ”Các anh chị được lưu dung”. Anh cắt nghĩa là được tha thứ tội mà dùng lại chứ không phải “được lưu dụng” giữ lại để làm việc. Lời anh nói là có dụng ư của Đảng.

 

Số phận thành phần giáo sư công lập tụi tôi chắc cũng đă được định rồi. Có người nói lúc đầu khi mới vào Sài G̣n, họ có ư thực hiện đuổi hết ngụy ra khỏi thành phố như chế độ Pôn Pốt đă làm ở thủ đô Cao Mên. Dầu “lưu dung” hay “lưu dụng” th́ có nghĩa ǵ đâu. Chúng tôi đă có một định kiến cho cuộc đời …

Suốt mười tám năm trong ngành gíáo dục (13 năm chế độ cũ, 5 năm chế độ mới) Bây giờ là công dă tràng. Năm 1980 tôi xin nghỉ dạy với lư do ra ngoài kiếm việc khác để tăng thu nhập cho gia đ́nh trong thời kỳ bao cấp khó khăn. Nay tôi có nhiều thời gian xa thành phố mà không sợ bị báo cáo vắng mặt ở lớp, nghĩa là tôi được tự do. Tối nay đường Vùng Tàu, mai đường Cà Mau … Tốn tiền hao của. Tiền của do hai vợ chồng chắt chiu đều đổ ra biển cả. Tôi t́m đường vượt biển. Thất bại bị bắt, bị tù nhiều lần nhưng tôi không nản ḷng. Lần sau cùng, có lẽ “cùng biến tắc thông”, tôi được một học sinh khi tôi dạy ở trường NDK (trường tư thục Công giáo) ở Hàng Xanh Thị Nghè giúp hùn vốn sắm một chiếc ghe tam bản làm khách thương hồ. Thời gian này tôi sống trọn vẹn trên sông nước. Miền châu thổ Nam bộ sông ng̣i chằng chịt thoát ra nhiều cửa biển rất thuận tiện cho việc vượt biên. Miền Nam tài nguyên vẫn c̣n phong phú mặc dù đă trải qua năm năm cải cách làm ăn tập thể.

 

Những buổi chiều trên sông gợi buồn man mác. Ráng chiều đỏ rực chân trời.

Đàn c̣ trắng b́nh yên vỗ cánh bay về tổ ấm. Những đám lộc b́nh theo con nước lên xuống trôi dạt về đâu nhưng rồi cũng lẩn quẩn ở một khúc sông nào đó kết lại thành bè sinh sôi nẩy nở. Đời tôi lúc này cũng chỉ là một chiếc lộc b́nh trên sông nổi trôi theo năm tháng. Tôi vẫn quyết tâm:

 “ Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,

 C̣n hơn buồn le lói suốt trăm năm”

                   (thơ Xuân Diệu)

Buổi chiều khi con nước xuống, chúng tôi neo thuyền bên sông, nh́n bóng chiều chia cánh đồng mênh mông thành hai phần sáng tối:

 “ Nắng che nửa băi chiều rồi “

Khói lam chiều lan tỏa trên các nóc nhà tranh trong xóm. Chúng tôi cũng nhóm lửa nấu cơm. Thức ăn th́ đă có sẵn dưới sông. Chúng tôi lặn xuống chân hàng cừ (cừ là những cọc gốc cây bần, cây đước đước đóng dọc bên sông ngăn đất sụt lỡ) là tóm được mấy chú tôm càng xanh đang bám chặt vào hàng cừ. Những buổi cơm chiều trên sông (buổi trưa chỉ ăn qua loa khoai sắn…) mà thức ăn là tôm cá bắt được hoặc mua của địa phương. Men rượu đế Bà Đen đưa tôi vào giấc mộng. Giấc mộng tràn ngập kỷ niệm:

  

“. . . đêm đêm CHIẾC BÓNG BÊN TRỜI vầng trăng xẻ đôi vẫn in h́nh bóng một người . . .”

Rồi một bài hát, tôi không nhớ tên chỉ là một câu hỏi, một ước mơ:

 “. . . bây giờ c̣n nhớ hay không. Anh đem cánh phượng tô hồng má em . . . Anh muốn em đẹp như tiên trên trời. Trên trời hai đứa hai nơi nên em chỉ muốn làm người trần gian”.

 

Bây giờ không là tiên trên trời mà hai đứa vẫn hai nơi. Và có thể một mai những đợt sóng sẽ vùi sâu thân xác tôi vào ḷng đại dương mà hồn th́ lăng đăng trời cao. Hồn tôi phiêu diêu t́m về miền đất hứa.

Tôi ra đi không biết sống chết thế nào. Mọi việc nhà đều phó thác cho vợ. Tôi nhắn nhủ người bạn đời cố gắng làm tṛn bổn phận:

 “Nay một thân nuôi già dạy trẻ

 Miệng hài nhi nhớ buổi mớm cơm“

(Chinh Phụ Ngâm)

 

 

  

Những đêm neo thuyền bên sông dưới rặng bần dày đặc, ánh đom đóm lập ḷe chẳng khác nào những đường kim tuyến phủ trên cành thông trong các thiệp Giáng Sinh. Sao đêm lấp lánh, không biết có ngôi sao nào là ngôi sao định mệnh đời tôi. Mảnh trăng non lơ lững chiếu một thứ ánh sáng mờ mờ nhân ảnh. Trăng non, trăng tṛn rồi trăng khuyết tôi cảm nhận cuộc đời có khác ǵ đâu. Đêm ngủ không mùng mặc dầu “ muỗi kêu như sáo thổi…” Chăn trùm kín đầu. Sương đêm ướt sũng tấm chăn tôi đắp. Sáng ra vắt kiệt đem phơi. Cuộc sống dày dạn phong sương, thế mà tôi không bị bệnh, không nản ḷng thối chí.

Dĩ văng trong đời lần lượt hiện về. Ngày nào c̣n dạy ở một trường quận với biết bao kỷ niệm đầu đời. Các em học sinh rất ngoan hiền. Phụ huynh học sinh gần gũi, có người tôi xem như thân thuộc. Ông bà Nhă, ông bà Trần Văn Hai, anh chị Tiến, ông Ân . . . là những người tôi quí mến. Họ đă giúp đỡ khi tôi vừa đặt chân tới vùng đất này.

 

 

 Kim Anh đến nhà thăm Thầy Cô năm 2010

 

Gần đây tôi có dịp liên lạc chuyện tṛ với mấy em học sinh cũ. Các em nhắc lại những kỷ niệm mà chính tôi đă quên mất. Em NHT nhắc lại chuyện tôi cho em cây bút máy có khắc tên tôi. Em nói: em giữ ǵn nó từ lúc tôi cho (1964) đến sau này khi em đi “cải tạo” (1975), bảy năm cây bút ấy mới mất. Tôi gặp mặt hoặc qua điện thoại thăm hỏi của các em học sinh (1962-1966) của trường Trung Học Vạn Ninh làm tôi xúc động. Cuộc hội ngộ thật dài ḍng, khởi đầu là bài “ Trường Trung Học Vạn Ninh và Tôi “ của KA. Con bé t́nh cảm đôn hậu. Tôi vẫn nhớ các em như thuở nào c̣n bé của tuổi mười mấy thơ ngây nghịch phá. Các em đă sưởi ấm ḷng tôi, tưởng rằng đă nguội lạnh ở tuổi đời đang đi vào “bát thập”, chứ không là “ thất thập cổ lai hy” nữa.

 

 

 Đỗ T. Hiểu & Nguyễn V. Ḷng
đến nhà thăm Thầy Cô năm 2010

 

Những năm tháng dạy các trường ở Sài G̣n, kỷ niệm có lẽ ít hơn v́ Sài G̣n rộng lớn quá, học tṛ đông quá. Nói thế không phải là không có kỷ niệm. Những cơn mưa Sài G̣n chợt đến chợt đi. Cái nắng Sài G̣n không biết có đúng là:

 “ Anh đi mà chợt mát “ (thơ Nguyên Sa)

Những con đường dài hun hút. Con đường tôi thường đi từ Hàng Xanh Thị Nghè (trường NDK) dẫn đến Công trường Cộng Ḥa lướt qua ĐH/SP, ĐH/KH dẫn đến trường Trung Học Trung Thu. Con đường nồng nặc mùi hơi nhựa đường (hắc ín) sau mỗi cơn mưa chiều. Đường Hồng Thập Tự rợp bóng cây chạy bên hông Thảo Cầm viên, qua trước mặt Đài phát thanh Sài G̣n, bên hông Dinh Độc Lập, trước cửa Công viên Tao Đàn. Những buổi trưa tôi không kịp về nhà, từ trường nọ sang trường kia, tôi ghé lại chiếc quán bên đường, ăn vội chút ǵ cho xong bữa.

 

Sài g̣n đă mất ! Thật sự đă mất !

Tháng ba năm Tân Dậu (1981) tôi rời xa đất mẹ. Con thuyền chỉ dài hơn mươi thước, ngang ba thước, đáy thuyền sâu tám tấc. Tối ngày mồng chín Âm lịch chúng tôi thực hiện bốc người. V́ có điều nghiên nên việc ráp nối những thuyền con (cá nhỏ) với thuyền lớn (cá lớn) thực hiện chỉ trong mười phút. Thuyền vượt ra cửa biển, một cửa sông nhỏ bên cạnh sông Ông Đốc (Cà Mau).

Con thuyền thật sự là một chiếc ghe tam bản đi sông. Con thuyền chuyển bến ra khơi và trải suốt hành tŕnh dài hơn vài trăm cây số từ mũi Cà Mau, điểm tận cùng của đất nước, đến bờ biển cực Bắc Mă Lai Á (ranh giới giữa Thái Lan và Mă Lai). Cuộc hải hành đầy gian nan. Chúng tôi gặp cướp biển Thái Lan nhiều lần nhưng mọi người đều b́nh yên. Chiếc ghe giữa ḷng đại dương chẳng khác ǵ hạt cát trên sa mạc. Định mệnh biết đâu lường. Tất cả đều phó thác cho trời. Ban ngày c̣n thấy mây trôi nước biếc, bầu trời cao rộng. Ban đêm bầu trời như hạ thấp xuống úp chụp trên đầu như một chiếc vung khổng lồ.

 

 

 Đảo Pulau Bidong Mă Lai

 

Biển tháng ba Âm lịch (tháng 4 DL) tương đối êm. Sóng có cao nhưng không là sóng bạc đầu. Tôi và một người bạn, anh T, trước là chủ sự làm cho Hàng Không VN trong Sân bay Tân Sơn Nhất điều khiển hướng đi (hoa tiêu). Tôi học khóa hoa tiêu từ một người bạn là Trung úy HQ/VNCH trong hai tuần lễ.

Chúng tôi đi đúng hướng và cuộc hành tŕnh chỉ hơn hai ngày hai đêm (55giờ). Chúng tôi tấp vào một làng đánh cá Mă Lai lúc hai giờ sáng ngày thứ ba tính từ khi rời VN lúc bảy giờ tối hai ngày trước đó. Cảnh sát Mă Lai vây bắt chúng tôi đưa về đồn biên pḥng của họ. Họ cho chúng tôi tắm rửa, ăn bánh ḿ cá hộp, uống nước xá xị. Họ tử tế đầy t́nh người và hiểu biết nỗi thống khổ của người đi t́m tự do. Ngày hôm sau Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ (UNHCR=United Nations High Commissioner for Refugees) đến đón và lập thủ tục đưa chúng tôi vào trại Pulau Bidong (trại Ruồi) Mă Lai.

 

 

 Trại Pulau Bidong Mă Lai

 

Cuộc sống ở trại tỵ nạn thật khổ nhưng ai cũng vui. Và những câu chuyện đùa châm biếm được mọi người hưởng ứng. Số là trại có nhà vệ sinh công cộng; nhưng với số lượng ba, bốn chục ngàn người th́ không đủ. Trại trước thời điểm tôi đến (1981) vào những năm 1978,1979 có lúc số người tỵ nạn lên đến mức tám, chín chục ngàn. Thời gian này là lúc người anh em “núi liền núi, sông liền sông” dạy cho đàn em bài học nhớ đời. Bài học nhắc nhớ một ngh́n năm Bắc thuộc. Nhưng rồi đă nhiều lần đất nước thoát khỏi nạn đô hộ của ngoại bang. Tôi thể hiện ḷng yêu nước sao các ông bắt tôi. Đó là một nghịch lư. Những bài học về ḷng yêu tổ quốc, dân tộc có c̣n đánh động lương tâm các ông không?

 

Những buổi sáng từng lớp người rũ nhau lên núi. Hỏi rằng đi đâu?- Đi thăm lăng… Có lẽ cái thú “ thứ nhất đổ Thám hoa, thứ nh́ vợ đẹp, thứ ba ị đồng” khiến mọi người thích thú. Từ sáng tinh mơ chiếc loa phóng thanh đă vang lên bài ca “Biển nhớ” của nhạc sĩ Trịnh Công sơn:”ngày mai em đi biển nhớ tên em gọi về …” Có phải nhạc sĩ TCS đang gọi tên em, người em vừa ra đi để lại sau lưng “ thành phố bóng đêm đèn vàng”. Thời kỳ này cây trụ đèn cũng muốn đi. Không khí ngột ngạt quá. Ḿnh đă mất cái ḿnh đă có. Bây giờ đi t́m lại với cái giá đánh đổi mạng sống đời ḿnh.

 

 

 Trại Pulau Bidong Mă Lai

 

Sau năm (5) tháng ở trại, qua hai lần phỏng vấn, tôi được xếp loại cho định cư ở Mỹ. Tôi đến Mỹ vào những ngày chớm Thu (1981). Mùa Thu ở vùng Bắc Mỹ, lá rừng đổi sang màu vàng, đỏ, tím rất đẹp. Đúng là cảnh “Rừng phong Thu đă nhuốm màu quan san”. Rồi mùa Đông đến, cây trụi lá trơ cành khẳng khiu. Những bông tuyết đầu mùa phơn phớt bay theo gió, bám hờ hững trên vai áo, phủi nhẹ là hết. Ḷng chạnh nhớ quê hương. 

Năm tháng dần trôi. Thời gian trôi mau như bóng câu qua cửa sổ. Nay con cái đă lớn khôn. Chúng bay đi khắp nơi theo công việc phù hợp chuyên môn, tạo dựng cuộc sống riêng tư của chúng. Bây giờ chúng tôi thảnh thơi. Vui thú điền viên “khi xem hoa nở khi chờ trăng lên”.

 

 

 

Vườn sau nhà, tôi trồng nhiều loại cây ăn trái: lê, đào, cam, quít, bưởi, lựu… (15 cây). Mùa hè bắt ghế ngồi nơi mái hiên (patio) sau nhà, nh́n bầu trời xanh biếc, nghe chim hót, ḷng thật thanh thản. Tôi lại nghĩ những ngày Sài G̣n mới mất, chính quyền mới đang thanh lọc, sắp xếp nhân sự hầu tránh trường hợp như nước Nam Dương ngày nào. Người vào trại cải tạo, người đi kinh tế mới. Lúc bấy giờ những người miền Nam như người chết đuối giữa ḍng, chỉ mong vớ được chiếc phao, khúc gỗ cứu mạng. Những người có thân nhân tham gia cách mạng hoặc có họ hàng quyến thuộc từ Bắc vào đều là những bám víu của họ. Nhưng những hy vọng đó tuyệt đối không được đáp ứng. Họ sợ liên lụy, sợ ảnh hưởng đến sự nghiệp. Bấy giờ có câu nói mĩa mai: “Người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng”.

 

Gia đ́nh những người Bắc di cư năm 1954 không ai là không có họ hàng từ Bắc vào. Các ông bà này có người làm lớn nhưng ít ai dám bảo lănh “ngụy”. Đời vẫn có ngoại lệ. Ông Bùi Tín, anh em cô cậu với nhà tôi đă dám đứng ra bảo lănh chúng tôi. Ông thấy chúng tôi dạy Trường Trung Thu (thuộc Bộ Tư Lệnh CSQG), ông sợ có thể chúng tôi bị rắc rối. Quả là qua năm tháng danh lợi, quyền lực của chế độ CS, không làm nhạt nḥa bản chất đạo đức và qúi tộc (con của cụ Thượng Bùi) nơi Ông. Chúng tôi đi rồi chỉ sợ để khổ cho Ông. Nay th́ sự ray rức của chúng tôi đă được giải tỏa. Ông đă có một chọn lựa khôn ngoan và sáng suốt hơn Mayakoski (Nga) nhiều.

 

Đời người cũng chỉ là một chiếc bóng. Chiếc bóng trải dài năm tháng. Ngày xưa với bao ước mơ, bao hoài băo, nay là CHIẾC BÓNG BÊN TRỜI b́nh an.

 

 

 

 

 

 

Cali mùa Đông 1/2013

 TRƯƠNG VĂN NGHI

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

 

             

 

 

  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trang XUÂN 2013- Văn Học Nghệ Thuật Và Quê Hương