BÚN CÁ XÓM CỒN
Năm 1638, dinh Thái Khang được thành lập, người dân từ các tỉnh
phía ngoài di cư vào đất mới, qui tụ chung quanh hai thủ phủ
Thái Khang và Diên Ninh (nay là Ninh Hòa và Diên Khánh) dọc theo
con sông Dinh và sông Cái.
Một số
gia đình chuyên nghề chài lưới thì định cư nơi các cửa sông, mé
biển. Làng Cù Huân được thành lập trước tiên ở Nha Trang. Danh
từ Cù Huân, có người cho rằng do tiếng Chăm là Kaut Hara để chỉ
vùng Khánh Hòa thuở trước. Riêng tại Nha Trang, ngụ dân trước
tiên tụ họp tại cửa sông Cái đổ ra vịnh Cù Huân (cổ nhân gọi
là Đại Cù Huân.) Sông Cái còn có danh nữa là sông Cù, phát
nguyên từ hướng Tây chảy qua các địa phương Diên Khánh và Vĩnh
Xương rồi đổ ra cửa Đại Cù Huân. Còn sông Lô là sông nhánh của
sông Cái, lại chảy ra biển nơi cửa Bé có tên là Tiểu Cù Huân.
Dân cư chài lưới sống tập trung tại hai cửa sông Đại Cù Huân và
Tiểu Cù Huân.
Nơi cửa
Đại Cù Huân, làng ban đầu được thành lập tại nơi Cù Lao với một
xóm nhỏ gọi là Xóm Bóng. Dân làm vạn chài, song hàng năm các
thiếu nữ địa phương phụ trách múa Bóng, dâng lễ trong ngày hội
Bà Thiên Y A Na tại tháp Bà. Nơi này cũng đã có trường dạy múa
Bóng. Địa phương vì có nghề đặc biệt nên được mang tên Xóm Bóng.
Các
thuyền buôn từ các tỉnh ngoài chở hàng hóa vào Nha Trang bán.
Lớp ngược dòng sông Cái lên đến tận phủ Diên Khánh, lớp rẽ vào
đầm Xương Huân. Dân di cư nhận thấy đầm là nơi thuận tiện
trong việc giao tiếp và sanh sống nên kéo nhau theo thuyền vào
định cư. Các xóm nhỏ được thành lập và lấy tên theo địa danh
mà gọi như Xóm Cồn, Xóm Lách, Xóm Hà Ra, Xóm Giá, Xóm Củi
v.v.. Xóm Cồn là nơi tập họp dân sống bằng nghề chài lưới ở
trong vùng. Phía đông là biển cả, phía tây là sông Cù. Ghe
thuyền thường neo về phía bờ sông, còn nhà cửa thì hướng mặt
ra biển đông.(1)
(1)(
trích cuốn Hướng Về Tháp Bà Thiên Y A Na của Quách Giao do NXB
Hội Nhà Văn ấn hành năm 2005)
Tuy lập sau làng Xóm Bóng song vì là một làng thuần làm nghề
chài lưới nên Xóm Cồn được coi như là một làng chài với đầy đủ
ý nghĩa. Nhà cất tạm bợ trên bãi cát, nhiều lúc bão tố xảy ra
thì cửa nhà đành phải trôi theo sóng nước cho nên tuy có tiền
song họ vẫn sống chui rúc trong những ngôi nhà vách ván mái
tranh. Xóm Cồn thuộc phường Xương Huân, có đình có trụ sở song
lại nằm ở chốn thị thành nên hằng ngày nếu có việc làng việc xóm
thì người dân phải đi xa hằng cây số. Tuy được tách riêng một
góc trời, người dân chài lưới tự coi như là hạnh phúc vì ban
ngày họ có chổ vui sống cùng gia đình để đêm đến họ lại dong
buồm ra khơi vật lộn cùng sóng gió. Trong số ngư dân an phận với
nghề nghiệp chài lưới này có gia đình anh Bốn.
Anh Bốn vốn
người gốc Bình Định theo gia đình vào Khánh Hòa lập nghiệp. Ban
đầu gia đình sinh sống bằng nghề làm ruộng tại phủ Bình Khang
(Ninh Hòa). Gia đình nhờ cần kiệm và siêng năng nên có được nhà
cửa ruộng vườn khang trang. Mẹ mất sớm nên cha phải tục huyền.
Cảnh dì ghẻ con chồng như thế thường đã xãy ra. Và anh Bốn đã
phải khăn gói vào Nha Trang lập nghiệp. Sống qua nhiều nghề và
cuối cùng anh đã chọn nghề đi biển làm kế sinh nhai. Xóm Cồn là
nơi anh tạm trú. Anh đi lưới cho một vạn chài có tiếng trong
xóm. Đó là Ông Tư Lửa. Cuộc sống không khó khăn nhờ anh Bốn có
sức khỏe và có đức tính cần mẫn, chăm làm và hiền hậu.
Được vài năm thì
anh lập gia đình cùng với một cô gái người gốc Ninh Hòa vào Xóm
Bóng để kiếm sống. Cô tên Di và chuyên đi gánh nước thuê. Xóm
Cồn là một doi đất cát chạy dài từ phía Nam cửa Đại Cù Huân đến
giáp ranh cuối xóm Lách. Trong xóm không có được một nơi nào đào
giếng có nước ngọt. Cho nên dân trong xóm đều phải uống nước
ngọt do tự đi gánh hoặc thuê mướn người đến tận đầu phường Xương
Huân. Công việc gánh nước thuê có nhiều vất vả song cũng đủ sống
qua ngày. Anh Bốn và cô Di gặp nhau trong một trường hợp rất hi
hữu.
Nguyên hằng năm
phường Xương Huân có hai kỳ tế lễ vào mùa Xuân và mùa Thu tại
đình Xương Huân. Đình Xương Huân được dựng xây vào năm Đinh Mão
(1807) triều Gia Long. Những ngày tế lễ dân ở tại Xóm Cồn đều tụ
hội về đông đủ. Đời sống trên sóng nước khiến cho tất cả cư dân
xóm Cồn đều một dạ tin rằng sự linh thiêng của thần linh sẽ giúp
cho người đi biển cùng với gia đình họ được vượt qua hiểm nghèo
luôn luôn rình rập và đổ xuồng đầu họ không biết lúc nào. Giữa
biển cả sóng to gió lớn, sức con người không thể nào vượt khỏi
nên lòng tin vào sự cứu trợ của thần linh vẫn hằng sâu trong tâm
tưởng. Cho nên mọi người trong xóm Cồn khi đến ngày tế đình thì
tập trung về tham dự đông đủ, khỏi cần nhắc nhở gọi kêu.
Sáng sớm tinh
mơ, đàn ông trong phường tụ họp đông đủ trong sân đình. Trên
thành đình cờ xí bay phất phới. Trước mặt đình là đầm Cù hay
còn gọi là đầm Xương Huân nước trong xanh leo lẻo, thuyền lớn
thuyền nhỏ không đếm xuể tập trung về đậu chật cả một vùng đầm
rộng lớn.
Hôm ấy không một
chiếc thuyền nào ra khơi đánh cá. Cả gia đình đều hội tụ trên
ghe. Đàn ông thì sau khi neo ghe chắc chắn, xuống thuyền thúng
chèo vào bờ vô đình dự lễ.
Đàn bà thì ở lại
trên ghe trông coi đàn con nhỏ và giữ ghe. Tất cả đều ăn mặc
chỉnh tề. Có nhiều gia đình cho con mặc đồ mới như ngày Tết.
Trên ghe đều trang trí đẹp đẽ và trang nghiêm: một lá cờ đuôi
nheo, một bình hoa và một đĩa trái cây cùng với bó nhang nghi
ngút khói. Thuyền tuy neo không thứ tự song không bừa bãi, ai
đến trước thì neo gần bờ, ai đến sau thì neo vào chổ trống.
Tuyệt đối không có trẻ em vào bờ chen vào nơi cúng tế trong
đình.
Khi buổi lễ diển
ra, chiêng trống vang rền, giọng xướng lễ vang lên uy nghi dõng
dạc rồi tiếp theo là giọng đọc văn tế vang ra rõ mồn một từng
tiếng. Không gian bỗng nhiên như ngưng lắng, mặt nước đầm lung
linh, bóng ghe thuyền như lay động trên mặt hồ theo nhịp phách
nhịp trống đổ hồi.
Mặt trời lên cao
thì buổi lế lễ chấm dứt. Dưới đầm ghe thuyền lặng lẽ nhổ neo và
chèo về lại xóm Cồn và có đôi chiếc dong buồm ra khơi sớm hơn
thường lệ với niềm hi vọng đánh được nhiều cá hơn mọi ngày.
Những người dân
không có ghe thuyền lũ lượt kéo nhau ra về trong tiếng cười nói
vui vẻ. Trong số người này có cô Di và anh Bốn. Trong suốt buổi
lễ tuy hai người đứng cạnh nhau song giữa bầu không khí trang
nghiêm nên họ chỉ lẳng lặng tham dự buổi lễ tuy thỉnh thoảng
cũng có nhìn nhau. Khi ra về thì cả hai tự nhiên không hẹn đều
cùng đi về hướng chợ Dài. Chợ Dài là chợ đầu tiên và lớn nhất
tại Nha Trang. Ban đầu chợ có tên là chợ Xóm Lách vì được thành
lập tại xóm Lách. Như thông thường hể đâu có dân sinh sống là
nơi đó có chợ được lập thành. Chợ được cất sát mé Đầm Xương Huân
cho tiện việc đi lại bằng đường thủy và đường bộ. Vì cất gần Đầm
nên sau này có tên là chợ Đầm.
Hai người thường
cùng ngồi dưới gốc một cây bàng nơi đầu chợ. Sau một vài lần nói
chuyện họ dần dần hiểu và thương nhau. Một tháng sau thì cả hai
về Ninh Hòa thưa cùng cha mẹ hai bên và đám cưới được tổ chức.
Xong lễ cưới cả hai đều về lại Xóm Cồm thuê nhà để sống. Chồng
lại đi nghề biển, vợ vẫn ngày ngày gánh nước thuê, nấu cơm đợi
chồng đi biển trở về. Cuộc sống vô cùng hạnh phúc.
Một hôm, mẹ nàng
Di từ Ninh Hòa vào Nha Trang thăm con gái. Mẹ có mang theo hai
ký bún làm tại Ninh Hòa. Bún Ninh Hòa từ xưa được nổi tiếng là
dẻo và thơm. Con bún trắng không khô mà cũng không ướt. Gạo
không phải gạo nàng thơm song khi ăn vào miệng, thực khách vẫn
cảm thấy được hương vì của gạo mới đầu mùa. Thường thì người làm
bún hay dùng lúa cũ xay gạo làm bún để bún nở nhiều có lợi. Tuy
nhiên khi dùng gạo mới thì hương vì thơm đậm đà hơn nhưng bún
lại không nở nhiều như dùng gạo cũ. Bún ở Ninh Hòa dù có dùng
gạo cũ đi nữa hương vì vẫn đậm đà mùi lúa mới và con bún vẫn
mang tính chất dẻo và thơm như lúa mới. Nghề làm bún ở Ninh Hòa
được người dân Bình Định di dân đi lập nghiệp tại phủ Thái Khang
truyền bá rộng rãi. Nhờ ở hai tính chất là gạo đất Ninh Hòa thơm
ngon và tay nghề của dân Bình Định cao nên bún Ninh Hòa nổi
tiếng từ thuở quê hương Khánh Hòa mới thành lập. Từ thủ phủ Thái
Khang (Ninh Hòa) nghề bún được truyền đi khắp tỉnh. Tuy vậy hằng
ngày bún làm tại Ninh Hòa vẫn được các nơi mua về nhiều hơn là
chế biến. Nha Trang cũng vậy. Bún Ninh Hòa ngon thì nổi tiếng
song vì đường xá xa xôi, phương tiện hiếm hoi nên bún trở thành
một món ăn khá đắc tiền. Nha Trang là nơi hội tụ nhiều thương
gia nên việc cung cấp bún cho khu hội tụ này có phần đầy đủ. Tuy
vậy bún vẫn còn là món ăn dành cho người phong lưu.
Mừng mẹ vào
thăm, nàng Di chưa kịp nấu cơm thì anh Bốn đi biển về. Sẳn có
bún của mẹ đem vào chị Di làm bún nước mắm cho mẹ và chồng ăn.
Sẳn bụng đang đói, bún ngon và nước mắm dằm ớt tỏi vừa miệng,
anh Bốn ăn no nê rồi tìm chổ nằm ngủ ngay một giấc. Từ hôm đó
anh luôn luôn nhắc nhở đến bữa ăn bún nước mắm tuyệt vời trong
buổi viếng thăm của bà mẹ vợ. Biết được ý chồng mỗi tuần chị Di
đều mua bún để anh Bốn ăn điểm tâm trong lúc đi biển về.
Một hôm, đi biển
về với một mẻ cá ngừ lớn được chủ ghe chia cho một con nặng hơn
hai ký, anh Bốn đem về cho chị Di. Vừa mừng vì được cá ngon vừa
thương chồng đem về niềm vui cho vợ, chị Di đem kho cá theo
phương thức đặc biệt của quê hương Bình Định. Đó là kho cá ngừ
với mắm muối gia vì trong một thời gian khá lâu. Ban đầu đổ
nhiều nước và nấu cho đến khi sôi rồi bớt lửa và để lửa riu riu
cho đến khi nước gần cạn. Trong nồi cá kho luôn luôn có nhiều
trái ớt chín màu đỏ thắm dài trên một ngón tay. Anh Bốn rất
thích ăn cay nên rất thích ớt còn chị Di không ưa cay nên nồi cá
chỉ có hương vì của trái ớt kho mà ít đi vì cay của ớt nấu. Bữa
ăn cá đầu tiên là bún cá. Chị Di ra chợ mua về hai ký bún và một
ít rau thơm. Thường ngày thì bún chan nước mắm. Hôm nay nước cá
ngừ thay nước mắm và có cả thịt cá kèm với rau thơm. Thêm một
lần nữa anh Bốn cảm thấy việc ăn uống ngoài việc no bụng còn có
sự ngon miệng. Cứ mỗi bát bún, chị Di chan cho anh thật nhiều
nước và dằm vào bát một trái ớt sừng đỏ thắm và mềm mại. Vì cay
của trái ớt sừng khác hẳn với vì cay của trái ớt bay. Câu tục
ngữ “ớt bay cay hơn ớt bị” (ớt bị là trái ớt lớn thường có tên
là ớt sừng) lúc này không còn giá trị nữa vì anh được ăn nguyên
cả một trái ớt sừng trong một bát bún. Thú vì nhất là nước cá
kho vừa miệng ăn và thỉnh thoảng anh lại đưa bát lên húp một ít
nước cá sau khi lùa vào miệng những sợi bún mềm mại . Ăn bún mà
được húp nước cá thì mới thưởng thức trọn vẹn cái thú ăn bún cá.
Đây là một bữa ăn bún cá khô. Tuy có nước cá song vẫn được gọi
là khô vì nước cá chỉ thay cho nước mắm để ăn bún. Bữa ăn thật
đạm bạc, rau thơm gồm những lá é tía, rau thơm, rau húng dũi mà
đầy hương vì. Chất thơm của rau làm đậm đà thêm vị mặn mà đằm
thắm của nước cá ngừ và thịt cá ngừ đã được kho rục thấm tháp
gia vì. Thịt cá ngừ, nhất là nước cá ngừ kho, mặn mà hơn bất cứ
một loại cá nào khác như cá thu, cá sòng, cá bạc má, cá nục
v.v.. Thịt con cá ngừ càng kho lâu càng đằm vì, càng thấm chất
gia vì vào trong thịt cá. Thịt cá cứ như săn lại thấm đậm, mặn
mà.
Anh Bốn lại đâm
ra ghiền bún cá ngừ vì anh cho là ăn bún cá ngừ được sướng
miệng và no bụng.
Sướng miệng và
no bụng làm căn bản cho tất cả các bữa ăn của những người lao
động. Nhất là đối với các ngư dân. Sống trên sóng nước họ rất
mau đói và vì giữa biển cả nên việc nấu nương không có tay đàn
bà nội trợ nên dù được nhiều cá lớn, cá ngon song chỉ ăn cho no
bụng nhưng sướng miệng thì rất ít khi. Chỉ có khi trở về với đất
liền, bên vợ con cạnh mâm cơm dọn nơi bếp, ngồi trên chiếc đòn
nhỏ ăn thoải mái món ăn do vợ nấu hợp khẩu thì anh Bốn mới thấy
sướng miệng và no bụng.
Một hôm ăn xong
anh buột miệng:
- Nếu bún cá mà
được nhiều nước thì húp cho sướng miệng.
Nước cá ngừ húp
ít thì ít ngon mà húp nhiều thì lại mặn và khát nước. Chị Di
hiểu được ngay ý muốn của anh Bốn. Ngày hôm sau sau khi kho cho
thấm cá chị bèn đổ thêm nước cho đầy trã và thêm vào một trái cà
chua, vài củ hành sống và nhất là sau khi bắt xuống để ăn chị
cho thêm tiêu, ớt bột và một ít lá hành xắt nhỏ. Nhìn bề ngoài
thì như là một nồi canh cá song nước canh lại mặn mà hơn và thịt
cá lại đằm vì hơn thịt cá canh. Thịt cá canh cần bỏ vào đĩa nước
mắm để mặn thêm còn cá ăn bún thì thịt cá đã thấm gia vì từ lúc
còn kho trên bếp. Ranh giới giữa canh cá và nước ăn bún cá có
giới hạn rõ rệt là nước canh ngọt vì cá còn nước cá bún thì mặn
mà vì cá. Nước canh có thể bưng húp mà khỏi cần cơm nhưng nước
cá ăn bún nếu không có bún thì hơi mặn và không thể ngồi húp
suông được.
Lúc ăn bún cá
anh Bốn không cần đến các món gia vì như rau sống, mắm ruốc,
chanh v.v.. vì cái chính của anh là ăn cho sướng miệng và có như
vậy mới thấy được chất ngọt và mặn cùng vì cay của cá và nước cá
cùng với bún mà không cần đến sự pha lẫn với các chất rau cỏ.
Một đôi khi chị Di cũng mua về cho anh trong bữa ăn những rau
sống song anh ăn không tha thiết lắm mà chỉ ưng ăn đơn thuần
bún cùng với nước cá ngừ. Ăn xong anh hể hả nói cùng vợ: Mình
không ăn rau sống với bún vì mình muốn thưởng thức cái ngon của
bún với cá. Có rau vào dường như mất đi cái chất tinh của cá.
Chị Di ngồi ngắm chồng ăn bún cá và ngẫm nghĩ câu nói của chồng
thì thấy ý nghĩa vô cùng. Thật vậy trong khi thưởng thức vì ngon
trong bún cá mà còn dùng những rau để hòa đồng thưởng thức thì
là vì nước bún cá không được ngon và ngọt nên cần phải lấy rau
đệm vào.. Ăn bún cá không rau, thú vì như một người biết thưởng
thức trà không cần phải pha thêm vào trà một ít nhụy sen, một
bông lài mới hái. Trà cần phải uống riêng biệt không pha lẫn với
hương thơm của hoa. Đó là lời của cha chị khi thưởng thức buổi
trà ban mai. Thân sinh của chị vốn là một nhà nho theo đoàn dân
di cư lập nghiệp vì không đủ sức khỏe để làm nghề nông tang nên
lấy việc dạy học làm sinh kế. Mẹ của chị vốn giỏi việc đồng áng
nên gia cảnh vào lớp đủ ăn. Gia đình đông con nên việc chăm sóc
con cái không được chu toàn nên chị sau khi theo học được vài
năm từ thuở ấu thơ và khi đủ sức lao động thì ra đồng theo mẹ.
Gặp khi mùa màng thất thoát, cha bị bạo bệnh mất đi chị đành
phải theo gia đình người anh vào Nha Trang tìm nghề sinh sống.
Gia đình người anh định cư tại Xóm Cồn và nơi đây chị đã gặp và
lập gia đình cùng anh Bốn. Gia đình người anh cũng trôi giạt đi
vào Nam. Gia đình anh Bốn vẫn bám lấy nghề biển và họ đã sinh
được một người con gái.
Một hôm nơi
biển Đông xãy ra cơn bão tố. Và anh Bốn ra đi mãi không về. Vượt
qua cơn đau khổ chị Di bám lấy Xóm Cồn làm chốn nương thân.
Trong những tuần đầu tiên, khi làm cổ cúng chồng chị luôn luôn
có trên mâm cúng một bát bún cá. Ngồi trước bàn thờ nghi ngút
khói hương, nhìn bát bún cá chơ vơ trên chiếc bàn nhỏ hẹp chị Di
nhớ đến cảnh anh Bốn ăn bún cá ngon lành và câu nói của chồng
vẫn còn như vang vọng: “ăn thật sướng miệng và no bụng.” Câu nói
chân chất và hạnh phúc biết là dường nào. Cuộc đời anh Bốn ngoài
hạnh phúc gần gũi vợ con và vui trong nghề biển cả chỉ còn hưởng
được bữa ăn bún cá cho sướng miệng và no bụng. Hạnh phúc trước
mặt và đầy đủ cận mình. Nhớ đến chừng ấy nước mắt chị Di đã
tràn đầy và chảy dài trên hai gò má.
Các bạn và gia
đình bạn anh Bốn đến tham dự các buổi lễ làm tuần cùng chia nhau
bát bún cá và tất cả đều thừa nhận đó là một món ăn ngon nhất
trong cả Xóm Cồn. Và cũng từ đó mỗi khi đi biển về họ lại tụ hội
tại nhà chị Di để ăn món bún cá cho sướng miệng và no bụng. Và
cũng để giúp đỡ cho chị Di có một nghề nghiệp sinh sống. Thế là
từ đó quán bún cá nơi Xóm Cồn đầu tiên được thành lập và mang
tên là “quán bún chị Bốn Di”
Quán bún được
các anh bạn cùng chồng sau khi đi biển về đã cùng nhau hợp lực
dựng nơi trước sân nhà một túp lều có liếp phên che chung quanh
hai cái bàn làm bằng hai miếng ván kê trên các cây gỗ đóng chéo
và ghế ngồi cũng như thế.
Chị Bốn Di từ
chiều hôm trước đã chọn những con cá tươi xanh mới vừa do đoàn
ghe đánh cá đem về và đi chợ mua các gia vì cần thiết như cà
chua, hành củ, hành lá, chanh ớt v.v.. về chuẩn bị để khuya thức
dậy sớm nấu món bún cá cho kịp đón các bạn chài đi biển về. Quán
bún cá đã thay đổi cách nấu. Nước cá có thêm nhiều gia vì như
cà chua hành củ, ớt màu và nhất là có món rau sống kèm theo cho
đầy đủ hương vì.
Ngồi nhìn nồi cá
sôi với những mảnh cà chua màu đỏ thắm bồng bềnh lên xuống lẫn
lộn cùng với các miếng cá ngừ dằm đậm đà hương vì tẩm ướp, chị
Di lại nhớ đến anh Bốn. Hôm nay chị tiếc không còn anh Bốn nữa
để anh ấy được ăn thêm món nước cá đằm thắm hương vì và nghĩa
tình này.
Càng về trưa
quán chị Bốn Di càng đông khách. Ngoài đám đàn ông đi biển về
còn có một số chị em đã hoàn tất việc đón cá đưa ra chợ, dọn dẹp
nhà cửa đón chồng, họ ra quán chị Bốn Di vừa ngồi ăn bún cá vừa
bàn tán những câu chuyện xảy ra chung quanh khu vực Xóm Cồn. Từ
chuyện mẹ chồng chửi nàng dâu, chị chồng đánh em chồng đến việc
nợ nần, huê hụi. Thôi thì đủ thứ chuyện trên đời. Ăn xong họ ra
về mà không quên hẹn nợ ngày mai sẽ trả. Chị Bốn Di vui vẻ chấp
nhận sự ồn ào tự nhiên và khất nợ đương nhiên này. Chị vẫn xem
như đó là một tình thân thuộc hàng xóm, một ràng buộc đã thành
thói quen nơi Xóm Cồn này.
Đứa con gái lớn
lên trong niềm thương yêu của mẹ, trong không khí ồn ào náo
nhiệt của một xóm chài đầy trẻ thơ ít thích học hành mà chỉ ham
vui chơi cùng sóng nước. Cha mẹ chúng không có một khái niệm về
tương lai của con trẻ. Họ vẫn có quan niệm như nhau là khi lớn
lên, con trai thì lại đi biển và con gái thì ở nhà phụ giúp mẹ
vá lưới, đi chợ bán cá. Suốt ngày chúng ít khi có mặt ở nhà chỉ
mãi vui chơi cùng chúng bạn. Trẻ con từ gái đến trai, tóc tai
bù xù, nước da đen nhánh áo quần áo xốc xếch. Thường thì chúng
không mặc áo (cả trai lẫn gái) và việc dầm nước là một sở thích
hằng ngày. Cha mẹ chúng không biết rõ chúng biết bơi tự khi nào
mà chỉ biết là việc bơi lội là một trò chơi không thể thiếu được
ở một xóm chài ven biển.
Con gái chị Bốn
Di tên Gái. Cách đặt tên thật đơn sơ và được áp dụng cho hầu hết
trong xóm. Cho nên để phân biệt họ thường nói với nhau là con
gái bà (hoặc chị) A, B xóm trên, xóm dưới v.v.. Cho nên dù muốn
dù không tên người con gái vẫn luôn luôn được đi kèm theo tên
của mẹ hoặc của cha. Đôi khi lại kèm theo tên ông bà nội hoặc
ông bà ngoại. Cuộc sống của xóm Cồn luôn luôn sống động. Khác
với một làng quê, nhà này cách xa nhà khác, đất rộng người thưa,
không khí thanh bình chứa đầy trong đồng xanh cây cỏ. Xóm Cồn là
một xóm chài dân cư ngụ đông, nhà cất thường là tạm bợ, thiếu
điều kiện vệ sinh, thiếu nước sạch, và nhất là ánh sáng. Toàn
xóm đều thắp đèn dầu. Ban đêm đàn ông đi biển, đàn bà sau khi tụ
họp tại một vài nhà người quen ngồi tâm sự cùng nhau rồi ai về
nhà nấy yên nghỉ đề ngày mai tiếp tục công việc thường ngày.
Gia đình chị Bốn
Di tuy công việc nấu nướng đã chuẩn bị ngay từ chiều song ngọn
đèn dầu hỏa vẫn cháy sáng sau mọi gia đình khác. Con Gái đã đi
ngủ từ đầu hôm mà chị Bốn Di vẫn còn lục đục với thúng rau, rổ
bún.Tuy sáng cần phải dậy sớm song việc đi ngủ muộn vẫn là thói
quen của chị . Nhiều đêm nằm nghe tiếng sóng vỗ ầm ì nơi mé biển
chị lại nhớ đến anh Bốn vô cùng. Biển cả vẫn luôn luôn rào rạt,
lòng người cô phụ vẫn luôn luôn thao thức cùng với sóng nước vơi
đầy.
Một hôm vào buổi
chiều chị Bốn Di đi chợ Đầm Nha Trang mua thức ăn để về nấu
nướng chị gặp một người quen cùng quê ở Ninh Hòa hiện đang sinh
sống bằng nghề may vá tại chợ Dài Nha Trang. Sau những chuyện bà
con lối xóm chị kể cho bạn biết việc chị bán bún cá ở Xóm Cồn.
Người bạn gái bỗng nãy ra một ý nghĩ là tại sao chị Bốn Di chỉ
bán bún cá có một buổi sáng mà không bán luôn cả buổi chiều.
Nghe bạn thắc mắc chị Bốn Di bèn kể cho bạn nghe việc bán bún cá
cho các khách đi biển về vào buổi sáng. Còn buổi chiều thì phần
đông họ phải ăn cơm với gia đình để cho chắc bụng làm việc ban
đêm. Chỉ có buổi sáng là họ thích ăn bún cá để rồi đánh một giấc
cho đến buổi ăn trưa.
Thốt nhiên người
bạn gái bỗng chợt thoáng nghĩ đến việc bán bún cá nơi chợ Đầm
vào buổi chiều. Do đó chị Bốn Di được người bạn giúp đỡ, dùng
một nơi hiên chợ để chiều chiều chị ngồi bán bún cá. Hàng bún cá
đầu tiên nơi chợ Đầm Nha Trang được khai trương.
Món ăn tuy chưa
phải là mới lạ song lại ngon miệng và rẻ tiền được các bà đi chợ
chiều rủ nhau thưởng thức. Dần dần các người lao động chân tay
như các bác kéo xe, bác đánh xe ngựa v.v.. đều rủ nhau đến
thưởng thức món ngon miệng và no bụng của xóm Cồn.
Con Gái từ đó
theo mẹ đi bán bún cá chợ chiều. Mẹ gánh gánh bún cá, con xách
ấm nước chè xanh. Hai mẹ con hôm sớm bán hàng quên đi cuộc đời
cô nhi quả phụ.
Việc buôn bán có
nhiều lúc đắc khách song cũng có nhiều ngày ế ẩm. Một phần vì
thời tiết, một phần vì thiếu cá tươi. Trong những ngày mưa gió
khách vắng đã đành còn cá biển khơi không đánh được nên nguồn cà
ngừ thiếu đi và phải dùng các loại cá khác thay vào. Khác vì cá
khách hàng thường tỏ ý không bằng lòng.. Một hôm chị Bốn Di về
thăm quê hương Ninh Hòa. Đi ngang qua một quán bán nem chả chị
được một người quen mời vào để chuyện trò tâm sự. Chị phát hiện
ra là cá cũng có thể làm chả như thịt và chị quyết tâm thực
hiện ý nghĩ này. Vội về thăm nhà và quay ngay lại quán nem của
chị bạn, chị xin được học cách làm chả nem. Người bạn vui vẻ chỉ
dẫn tường tận và góp ý về cách làm chả cá. Thế là từ đó hàng bún
cá của chị Bốn Di có thêm một món chả cá.
Chả cá lại dùng
được cho nhiều loại cá như cá thằn lằn, cá mối, cá cờ, cá thu
v.v.. cho nên khi không có cá ngừ để làm bún cá chị Bốn vẫn có
những nồi bún cá thơm lừng và món chả cá dòn, dai ngọt đượm mùi
vì biển khơi.
Thành công trong
việc đưa thêm vào hàng bún cá của mình món chả cá, công việc
hằng ngày của chị Bốn Di lại càng thêm bận rộn. Do đó chị cần
thuê thêm người giúp việc hằng ngày. Một người bạn góa chồng
trong một buổi bão tố, được chị Bốn Di thuê về cùng chung buôn
bán. Từ đó ngày cũng như đêm tiếng chày giã cá vang vang làm
vui cửa vui nhà. Nhờ người bạn rất năng nổ xốc vác nên chị Bốn
Di đở cực nhọc hơn. Có người gánh hàng ra chợ, chị được thong
dong. Con Gái được đi đến trường và ngôi nhà được khang trang.
Có nhiều người đàn ông đến viếng thăm thường xuyên và mai mối
liên tiếp vào ra. Chị Bốn Di vẫn một lòng ở vậy. Nghề bán bún cá
càng ngày càng trở nên phát đạt. Rồi nhiều nơi môn bún cá ra
đời. Có nhiều canh tân song tiếng tăm vẫn không lấn được hàng
bún cá của bà Bốn Di ở xóm Cồn và chợ Đầm Nha Trang.
Khách đến ăn vẫn
ngồi trên ghế tre dài bên chiếc bàn gỗ đơn sơ nhưng hương vị của
tô bún cá như cùng với thời gian thêm đậm đà hơn.
Trải dài theo
năm tháng, Xóm Cồn càng ngày càng đông đúc nhà cửa và con người,
song không thể trở thành một khu đô hội được. Chỉ có một vài
chủ ghe xây cất nhà ngói, một vài gia đình buôn bán vật liệu
phụ vụ ngành lưới cá đồng thời với nhu yếu phẩm hằng ngày là
phát đạt. Còn những gia đình có chồng là trai lưới bạn, là thợ
lái thuyền và vợ là kẻ chạy rổi, người vá lưới v.v.. thì tháng
năm vẫn dầm sương dãi nắng ngoài biển cả, trong đất liền vẫn
sống trong cảnh thiếu thốn vay mượn hàng ngày để đợi đến kỳ chủ
ghe trả công thì vui vẻ mua sắm và trả nợ cũ đã vay mượn. Túp
lều tranh có thể trở thành ngôi nhà tranh rồi lợp ngói song vẫn
không bao giờ trở thành một ngôi biệt thự khang trang nơi xóm
Cồn.
Chị Bốn Di già
đi và ngôi hàng bún cá được con Gái cùng chồng kế nghiệp. Người
ăn đến cũng đông như ngày trước. Và phong cách bài trí nhà hàng
cũng khác xưa cùng với nhiều sự thay đổi trong cách chế biến sao
cho hợp với khẩu vì của thực khách. Chị Bốn Di. về già không còn
ở nơi xóm Cồn nữa mà về quê Ninh Hòa sống một cuộc đời cô quạnh
trong ngôi nhà của cha mẹ để lại.
QUÁCH
GIAO
|