1. Mở đầu. HT Thích Quảng Độ đă dịch ra tiếng Việt (qua
bản dịch ra Hán Văn) một bộ sách của học giả Nhật bản Kimura
Taiken (Mộc Thôn Thái Hiền) gồm ba cuốn: Nguyên Thủy Phật
Giáo Tư tưởng Luận, Tiểu Thừa Phật Giáo Tư tưởng Luận và Đại
Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận. Trong bài Tựa, HT đă viết ngay
ở mấy ḍng đầu: “ Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần
gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc
là Căn Bản Phật Giáo, phần thân là Tiểu Thừa Phật Giáo và phần
ngọn là Đại Thừa Phật Giáo. Người ta không thể nào tưởng tượng
được sự tồn tại của một cái cây mà không có gốc, nhưng chỉ có
gốc không thôi th́ cây ấy không c̣n sức sống; hoặc giả, có gốc,
có thân cây mà không có cành lá th́ cây ấy cũng như cây trong
mùa đông, không khỏi gây cho người ta cái ấn tượng trơ trụi tiêu
điều. Nếu phần gốc và thân cây giữ cho cái cây đứng vững, th́
phần cành lá sum suê, xanh tốt là sự biểu dương cho cái sức sống
mănh liệt của toàn bộ cái cây.
Cái cây Phật giáo cũng thế: cả ba phần Căn Bản, Tiểu Thừa,
Đại Thừa có hợp lại, có biểu lư và bổ sung cho nhau th́ mới
là cái cây Phật giáo hoàn toàn. Do đó, theo thiển kiến, quan
niệm của các nhà Đại thừa (Bồ-tát) xưa đối với các nhà Tiểu thừa
(La-hán) cũng như những thành kiến của các nhà Tiểu thừa đối với
các nhà Đại thừa đều là sai lầm . . .
Phật pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Nhưng phương pháp
để đặt đến giải thoát th́ có nhiều, và phương pháp nào – dù là
Đại thừa hay Tiểu thừa – cũng đều nhằm đến mục đích nhất vị kể
trên . . .”
Mục đích của bài này là t́m hiểu về “cái cây Phật giáo” đó.
2. Các đại hội kết tập kinh điển.
Những bài thuyết pháp của đức Phật Thích Ca cho chư tăng, chư ni
và thiện nam tín nữ về sau được gộp chung lại là Kinh tạng. Khi
Giáo Hội được thành lập th́ đức Phật tùy hoàn cảnh mà đặt ra các
quy tắc, các giới luật để giữ cho giáo đoàn được nghiêm. Gộp
chung lại là Luật tạng. Những bài b́nh luận, giải thích, gộp
chung vào Luận tạng. Chúng ta cần phải nhắc lại các đại hội kết
tập kinh điển sau khi đức Phật nhập diệt th́ mới hiểu được các
sự phân hóa tư tưởng trong tăng đoàn, dẫn đến các “thừa”.
a/ Kết tập lần thứ nhất.
Sau khi đức Phật Thích Ca tịch diệt (năm -543), ba tháng sau,
trưởng lăo Ca-Diếp triệu tập và chủ tŕ một đại hội ở thành
Vương Xá, gồm có 500 vị la-hán. V́ thế mới có tên Ngũ bách
kết tập. Thị giả của đức Phật là ngài A-Nan, nhờ trí nhớ
trác tuyệt, tuyên thuyết tất cả những điều mà đức Phật đă giảng
dạy, v́ thế mà ngày nay, trong các cuốn kinh, chúng ta thấy đều
mở đầu bằng câu “Tôi nghe như vầy”. Ngài Ưu-Bà-Ly tuyên thuyết
tất cả các điều giới luật mà đức Phật đă ban ra. Người ta gọi
những điều ngài đọc là “bát thập tụng luật” v́ ngài đọc luật đó
tới 80 lần (có chỗ giải thích một cách khác rằng ngài được hỏi
80 lần). Như vậy là có hai tạng Kinh và Luật. Không thể định rơ
lúc đó có thuyết tạng Luận hay không v́ các tài liệu nói khác
nhau : nơi này th́ nói rằng ngài Ca-Diếp tụng tạng Luận, nơi
khác lại nói rằng kỳ họp đó không có ai tuyên thuyết tạng Luận.
Đại hội không có ghi chép lại các tạng trên giấy tờ mà chỉ
truyền miệng thôi. Tuy vậy, không sợ có sự sai lệch v́ giáo pháp
được chia làm nhiều phần khác nhau và mỗi phần được trao cho một
vị trưởng lăo và các đệ tử của vị đó để đọc tụng và kiểm chứng
hàng ngày, do đó tuy truyền miệng mà không sai lệch lời Phật
dạy.
b/ Kết tập lần thứ nh́.
Một trăm năm sau (khoảng năm -383), v́ hoàn cảnh kinh tế, chính
trị và xă hội đă khác trước, nên có người thay đổi một số giới
luật, thí dụ như được nhận tiền mà thí chủ cúng dàng vào b́nh
bát. V́ thế mới có cuộc kết tập lần thứ nh́ ở thành Tỳ-xá-ly
(tức là thành Quảng Nghiêm) để quyết định xem có nên thay đổi
giới luật không. 700 vị danh đức về dự họp (sách vở gọi kỳ kết
tập này là Thất bách kết tập) và các vị kết luận rằng mọi thay
đổi là phi pháp. Rồi họp tiếp tám tháng để tụng lại những pháp
tạng; có tài liệu nói rơ đó là Kinh, Luật và Luận. Một số
tỳ-kheo không đồng ư giữ y nguyên các giới luật, bỏ đi mà thành
lập Đại chúng bộ. Tên gọi này không dính dáng ǵ đến chữ Đại
Thừa. Đó chỉ là tên gọi của nhóm tỳ kheo đă tách ra, không đồng
ư với số c̣n lại gọi là Thượng tọa bộ; nói theo kiểu ngày nay
th́ hai bộ này gọi là nhóm canh tân và nhóm bảo thủ (v́ giữ
nguyên giới luật). Mầm mống phân hóa là ở chỗ này. Điều đáng ghi
nhận là trong kỳ này không thấy nói đến việc tranh luận về giáo
pháp. Như vậy là cả hai bộ phái giữ nguyên kinh và luận nguyên
thủy, vẫn duy tŕ bằng cách học thuộc ḷng và truyền miệng,
không viết thành văn.
c/ Kết tập lần thứ ba.
Hơn một trăm năm sau nữa (khoảng năm -253), trong cả hai bộ phái
Thượng tọa và Đại chúng đều sinh ra nhiều bộ phái nhỏ, cộng cả
lại có đến 20 phái! (xin coi Phụ lục). Bộ phái nào cũng
giải thích giáo lư của đức Thế Tôn theo khuynh hướng riêng của
ḿnh, ấy là chưa kể đến sự xen lẫn giáo lư Bà-la-môn vào giáo lư
Phật giáo. Vua A-Dục - một vị hết ḷng v́ Phật pháp - nêu vấn đề
và ủng hộ tích cực việc triệu tập đại hội kết tập tại thành
Ba-Tra-Lỵ-Phất (c̣n gọi là thành Hoa Thị) dưới sự chủ tọa của
ngài Mục-liên Tu-đề để thảo luận về những quan điểm khác nhau
của các phái và loại bỏ những ư tưởng ngoại lai. Có tới 1000 vị
đại đức tỳ-khưu tham dự đại hội (họp 9 tháng). Cuối đại hội,
ngài chủ tọa soạn một cuốn sách gọi là Những Điểm Dị Biệt hay
Luận Sự luận để nêu ra yếu nghĩa của các tông và để bác bỏ
những sai lầm của một số bộ phái. Ngoài ra, giáo pháp được đại
hội chấp thuận, đó gọi là giáo thuyết Trưởng lăo. Luận tạng
(tức Vi Diệu Pháp, Thắng Pháp hay A-tỳ-đàm) được kết tập ở
đấy.
Điều đáng nhớ là : sau đại hội này, một hoàng tử của vua A-Dục,
tên là Ma-hinda, mang Tam tạng đến nước Tích Lan (nay là Sri
Lanka). Tam tạng được giữ ǵn không suy suyển cho đến ngày nay!
Kinh điển được viết bằng tiếng Pali. Cho đến thời điểm này,
không thấy xuất hiện danh từ Tiểu thừa và Đại thừa.
Vào thời kỳ vua A-Dục, có một hệ phái khá mạnh (xuất phát từ
Thượng tọa bộ là phái Nhất thiết hữu bộ) không được vua
A-Dục ủng hộ nên họ di chuyển lên phía Đông Bắc Ấn Độ, đặt căn
cứ tại Ca-thấp-di-la (Kashmira, Kashmir, Cachemire); dần dần họ
truyền bá chánh pháp trên toàn cơi biên cương miền Đông Bắc Ấn
và sang các nước lân cận. Kinh sách ghi bằng chữ sanskrit.
d/ Kết tập lần thứ tư.
Vào khoảng 150 năm sau Tây lịch, khoảng 300 năm sau vua A-Dục,
có vua Ca-Nị-Sắc-Ca chiếm lĩnh toàn xứ Ấn-Độ, thế lực rất mạnh.
Nhà vua trụ ở xứ Ca-thấp-di-la, nơi này có nhiều tu sĩ Phật giáo
thuộc phái Nhất thiết hữu bộ di cư đến. Nhà vua thấm nhuần Phật
pháp; hàng ngày nhà vua vời một vị tăng vào cung giảng pháp cho
ngài và chính ngài cũng nghiên cứu kinh điển. Thấy sự giải thích
kinh điển không giống nhau, ngài hạ lệnh triệu tập đại hội quy
tụ tới 500 vị La-hán, 500 vị Bồ-tát và 500 cư sĩ tại gia, với
ngài Thế Hữu làm thượng thủ và bốn vị phó, nhằm mục đích chú
giải kinh điển một cách thống nhất. Đại hội đă tôn năm vị (vừa
nói trên) đảm nhận việc chú thích Kinh, Luật và Luận. Sau đó,
phải mất 12 năm mới khắc xong Tam tạng vào các bản bằng đồng,
tất cả được tàng trữ trong một bảo tháp, có người canh giữ cẩn
mật, ai muốn học hỏi Phật pháp th́ chỉ được vô nghiên cứu chứ
không được mang ra ngoài. Tuy vậy, với thời gian, kinh sách cũng
bị thất lạc đi nhiều.
Mấy ḍng trên đây dựa vào tài liệu trong cuốn Phật Học Tinh Yếu
của HT Thiền Tâm. Tuy nhiên, theo bài Tam Tạng Kinh Điển của
B́nh Anson th́ kỳ kết tập thứ tư diễn ra như sau: “Khoảng năm 20
trước Công Nguyên (CN), 500 năm sau ngày Phật nhập Đại Niết-bàn,
vua Vattagamani của Tích Lan triệu tập Đại Hội Tăng-Già tại
Aluhivihara gần thành phố Kandy ngày nay, kết tập lại các phần
Kinh, Luật và đúc kết phần Thắng Pháp Tạng. Để giữ ǵn các bài
giảng của đức Phật dù đă kết tập nhưng chỉ truyền khẩu trong 500
năm qua, ba tạng kinh điển được viết lại trên một loại giấy bằng
lá bối-đa khô. Từ đó Tam Tạng pali được thành h́nh và không c̣n
thay đổi nào khác...”
3. Đại thừa và Tiểu thừa.
Như trên đă nói, trong các kỳ kết tập, kinh điển nói chung vẫn
c̣n giữ được dạng nguyên thủy nghĩa là đúng hay gần đúng với lời
dạy của đức Thế tôn khi ngài c̣n tại thế. Và người ta không thấy
đề cập đến danh từ đại thừa và tiểu thừa. Theo HT Narada th́
“giữa thế kỷ I trước TL đến thế kỷ I sau TL, hai thuật ngữ đại
thừa và tiểu thừa mới xuất hiện trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.
Ai đă tụng hay đọc kinh ấy đều cảm thấy giọng văn có ư coi
thường tiểu thừa. Thật ra, cả hai phía đều nh́n nhau với con mắt
ít thiện cảm nếu không nói là chống báng. Thí dụ như đại thừa
chê rằng tu theo tiểu thừa chỉ đưa đến quả vị la-hán thôi, trong
khi đường tu đại thừa dẫn đến hàng bồ-tát và quả vị tối hậu là
Phật. Ngược lại bên tiểu thừa cho rằng chỉ có giáo lư nguyên
thủy mới chính thức của đức Phật nói ra và chê giáo lư đại thừa
là ngoại đạo, tự đặt ra chứ không do kim khẩu của đức Phật”.
Nói ngắn lại, đại thừa dùng chữ tiểu v́ cho rằng: tiểu là hẹp,
nhỏ, thấp. Hẹp v́ người tu chỉ lo tự độ, không độ tha. Nhỏ v́
kinh sách ít oi, chỉ thu gọn trong mấy bộ Nikàya (pali) tức Bộ
kinh, Àgama (sanskrit) tức A-hàm. Thấp v́ quả vị tột cùng chỉ là
la-hán.
Đại là rộng, lớn, cao. Rộng v́ lo cả tự độ lẫn độ tha. Lớn v́
kinh sách đại thừa như rừng, bao gồm luôn kinh sách tiểu thừa.
cao v́ tu đại thừa có thể đạt đến quả vị bồ-tát, và quả vị Phật.
Đó là nói theo lập trường của đại thừa, c̣n phái kia th́ không
hề nhận ḿnh là tiểu thừa! Sự khác biệt quan điểm, ḷng nghi kỵ
và thiếu thông cảm đă làm cho hai phía xa cách nhau trong nhiều
thế kỷ.
Từ điển Phật học cho biết rằng: “Theo truyền thuyết, Tiểu thừa
gồm có 18 bộ phái khác nhau, xuất phát từ Tăng-Già Nguyên thủy.
Trong lần kết tập thứ nh́, Tăng-Già phân ra làm hai phái Trưởng
lăo bộ và Đại chúng bộ (sau đó mỗi bộ lại chia ra nhiều phái)
... Tiểu thừa được phát triển nhất giữa thời gian đức Phật nhập
Niết-bàn và Công nguyên. Đại biểu phái này cho rằng ḿnh theo
sát những lời dạy nguyên thủy của đức Phật ... Tiểu thừa phân
tích rơ trạng thái của đời sống con người, bản chất sự vật, cơ
cấu của chấp ngă và chỉ ra con đường giải thoát. Tiểu thừa tập
trung tuyệt đối vào con đường đi đến giải thoát ... Hành giả
phải dựa vào sức ḿnh, xa lánh thế gian. V́ vậy, phải sống viễn
ly, sống cuộc đời tu hành; cuộc sống tại gia không thể nào đưa
đến giải thoát. H́nh ảnh tiêu biểu của Tiểu thừa là A-la-hán ...
Phật là một nhân vật lịch sử, không phải là hóa thân của ǵ cả
...
Đại thừa xuất hiện trong thế kỷ thứ I trước Tây Lịch, tự nhận là
cỗ xe lớn, nhờ tính đa dạng của giáo pháp để mở đường cho một số
lớn chúng sinh có thể giác ngộ ... H́nh tượng tiêu biểu của đại
thừa là Bồ-tát. Đại thừa không nhấn mạnh đến đời sống xuất gia;
cư sĩ tại gia cũng có thể đạt Niết-bàn. Niết-bàn không chỉ là
giải thoát khỏi luân hồi mà hành giả c̣n giác ngộ về Chân tâm và
an trụ trong đó. Mỗi chúng sinh đều mang Phật tính và nhận ra
điều đó là điều tuyệt đối quan trọng. Đại thừa xem Phật là hóa
thân của một thực thể, lấy h́nh ảnh xả thân của các vị Bồ-tát và
thừa nhận quan điểm tính Không cùng quan điểm Ba thân...”
Ngày nay, người ta cho rằng cái mà người ta gọi là tiểu thừa chỉ
là một giai đoạn trong lịch sử đạo Phật, đó là giai đoạn bộ
phái, mấy chục bộ phái cách biệt nhau về lư luận, chủ trương. HT
Narada viết: “Chúng ta không nên nhầm lẫn Tiểu thừa với Truởng
lăo bộ tức Theravada bởi v́ những danh từ này không đồng nghĩa
nhau. Phật giáo Trưởng lăo bộ truyền đến Tích Lan vào thế kỷ
thứ III trước TL, khi có không có danh từ đại thừa nào cả. Bộ
phái Tiểu thừa chỉ phát triển ở Ấn Độ và hiện hữu hoàn toàn độc
lập, không phải h́nh thức của đạo Phật hiện có ở Tích Lan. Ngày
nay, bộ phái Tiểu thừa không c̣n tồn tại ở bất cứ nơi nào trên
thế giới. Do đó, năm 1950, Hội Phật Giáo Thế Giới (World
Fellowship of Buddhists, WFB) khai mạc ở Colombo, nhất trí quyết
định rằng danh từ tiểu thừa phải được xóa bỏ v́ nó không có liên
quan ǵ với đạo Phật hiện diện ngày nay ở Tích Lan, Thái Lan,
Miến Điện, Campuchia, Lào ...” . Từ đó người ta nói Phật giáo
Nam Tông và Phật giáo Bắc Tông (cũng gọi là Nam truyền và Bắc
truyền) thay cho Tiểu thừa và Đại thừa.
Tại sao dùng chữ Nam Tông và Bắc Tông? Đó là nói về sự truyền bá
đạo Phật theo địa lư. Nam và Bắc chỉ hai hướng của nước Ấn Độ.
Đạo Phật truyền về phía Nam nước Ấn Độ, xuống tới đảo Tích Lan,
rồi từ đó lan sang miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào ... Khi
thái tử Mahinda của vua A-Dục mang kinh tiếng pali về phương Nam
như đă nói trên th́ có một số tỳ-kheo đi lên phía Bắc nước Ấn Độ
tới vùng Kashmir (Cachemire) và viết kinh bằng tiếng sanskrit.
Từ nơi ấy, Phật giáo truyền sang Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật
Bản, Cao Ly và Việt Nam ...
4. Các điểm dị, đồng.
Thời kỳ nguyên thủy của đạo Phật là thời kỳ đầu với một tăng
đoàn không đông lắm, giới luật thuần nhất, do các cao tăng lănh
đạo, các vị này đă xuất gia và thọ giới khi đức Phật c̣n tại
thế.
Sang thời kỳ bộ phái, kéo dài khoảng 400 năm từ sau đại hội kết
tập lần thứ nh́ (khoảng năm 383 trước TL) cho đến đầu Công
Nguyên, sự phân hóa đă bắt đầu xuất hiện, với sự phân chia thành
hai Bộ rồi sau đó chia thành 20 Phái. Sau đại hội kết tập lần
thứ ba (khoảng năm 253 trước TL) th́ việc kết tập Kinh tạng và
Luận tạng coi như đă hoàn tất. Tuy nhiên các tư tưởng canh tân
và đại chúng hóa đạo pháp đă nảy nở. Có lẽ v́ có nhiều tranh
luận nên Kimura Taiken gọi thời kỳ này là thời kỳ A-tỳ-đạt-ma.
Tiếp theo là một thời kỳ dài khoảng 500 năm, Phật giáo có hai
hướng phát triển khác nhau, đó là Nam truyền và Bắc truyền. Các
tư tưởng canh tân của đại thừa bắt đầu lớn mạnh, kinh sách mới,
luận thuyết mới xuất hiện.
“Giáo lư được phân ra làm hai truyền thống: truyền thống nguyên
thủy và truyền thống phát triển. Nói về sự truyền bá theo mặt
địa lư, th́ gọi là Phật giáo Nam Tông và Phật giáo Bắc Tông. Nói
về giáo lư, th́ gốc rễ là nguyên thủy, thân ngọn cành là phát
triển, cả hai bổ sung cho nhau” (theo ư HT Viên Giác). Hai
truyền thống ấy có những điểm giống nhau như sau đây:
1/ Cả hai đều chấp nhận đức Phật Thích Ca là bậc Đạo sư.
2/ Tứ Diệu đế giống nhau.
3/ Bát chánh đạo giống nhau.
4/ Lư duyên khởi giống nhau.
5/ Cùng chấp nhận Tam tướng (Khổ, Vô thường, Vô ngă) và Tam học
(Giới, Định, Huệ).
6/ Không chấp nhận có một Thượng đế đă tạo ra thế gian này.
(theo ư HT Narada).
Kinh điển đại thừa gồm các bài giảng của đức Phật, các luận giải
của các tăng sĩ và ngữ lục của các tổ sư. Luật tạng tương tự với
Luật tạng pali. Kinh tạng gồm có bộ A-Hàm và các kinh điển mới.
Luận tạng gồm các sách chú giải và luận thuyết của các vị tăng
sĩ đại thừa về sau này. Có thể nói tính đa dạng và phong phú
của kinh điển đại thừa là kết quả của một sự dung nạp hỗn độn,
không có hệ thống và tiêu chuẩn rơ ràng (theo ư B́nh Anson).
Nên chú ư rằng kinh điển Nguyên thủy (pali) được giữ hầu như
nguyên vẹn ở Tích Lan. Kinh điển Bắc tông (sanskrit) bị mất mát,
sở dĩ số mất mát ấy c̣n lưu lại được là nhờ ở các bản dịch ra
Tạng văn (Tây Tạng) hay Hán văn c̣n tồn tại.
Tư tưởng Bắc Tông có một số đặc điểm:
1/ Chủ trương Bồ-tát đạo “trên cầu đạo bồ-đề, dưới hóa độ chúng
sinh”,
2/ Chú ư đến vị trí và vai tṛ của cư sĩ,
3/ Tư tưởng Nhị không: ngă không và pháp không,
4/ Tư tưởng bát-nhă, a-lại-da (duy thức) được khai triển,
5/ Thuyết tam thân của chư Phật (pháp thân, hóa thân và báo
thân),
6/ Chúng sinh đều có Phật tánh và có thể thành Phật.
5. Kinh điển.
Khi nghe nói Tam Tạng th́ ta hiểu đó là Luật tạng, Kinh tạng và
Luận tạng (Luận tạng c̣n có tên là Vi diệu pháp, Thắng pháp
tạng).
Luật tạng nói về các giới luật và nghi lễ (nhập tăng đoàn, ni
đoàn, truyền giới v.v...). Luật tạng bao gồm những giới luật đặt
ra để quy định đường lối sinh hoạt của tỳ-kheo và tỳ -kheo-ni.
Các giới luật là những phán quyết của đức Phật về đức hạnh và
các sự thúc liễm về hành động và lời nói. Giới luật trừng trị
các sự vi phạm về kỷ luật và ấn định các h́nh phạt tùy theo tội
nặng nhẹ.
Luận tạng tức A-tỳ-đạt-ma là một bộ vĩ đại, sắp xếp rất có hệ
thống. A-tỳ-đạt-ma có nghĩa là lời giảng đặc biệt thâm diệu, cao
siêu. Trong Kinh tạng, khi đức Phật thuyết pháp th́ ngài c̣n chú
ư dựa theo căn cơ và tŕnh độ nhận thức của người nghe, hay là
hoàn cảnh thực tế của lúc nói pháp; có lúc ngài xem xét mực độ
chứng đắc các ba-la-mật của đệ tử. Đến Luận tạng, ngài rời hẳn
các danh từ tương đối của tục đế, chuyển sang địa hạt của chơn
đế tuyệt đối. Luận tạng lập thành một kiến trúc vĩ đại của mọi
sự hiểu biết liên quan đến các chân lư rốt ráo cứu xét dưới nhăn
quan rộng răi, vô biên, tế nhị, thâm sâu và cao diệu mà chỉ có
đức Phật mới có được.
Kinh tạng tập hợp tất cả các bài thuyết pháp của đức Phật và
một số bài thuyết pháp của các vị đại đệ tử như các ngài
Xá-Lỵ-Phất, Mục-Kiền-Liên, A-Nan ... Đa số bài pháp có dụng ư
giúp các tỳ-kheo thông hiểu giáo pháp hoặc cách thức tu tập
hầu đạt tới một đời sống thanh tịnh. Một số bài đem lại lợi ích
thiết thực về đời sống vật chất và tinh thần của người tu tại
gia.
Các kinh tiếng pali tức là bộ Nikāya được dịch sang chữ Hán gồm
có: Trường bộ kinh, Trung bộ kinh, Tương ưng bộ kinh, Tăng chi
bộ kinh và Tiểu bộ kinh; cả năm bộ này gọi chung là Bộ kinh.
Các kinh tiếng sanskrit tức là bộ Āgama (A-hàm) được dịch sang
chữ Hán gồm có: Trường A -hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm và Tăng
nhất A-hàm; cả bốn bộ này gọi chung là A-hàm, c̣n gọi là Pháp
quy hay Vô tỷ pháp.
Trường A-hàm tương đương với Trường bộ, chép những bài pháp dài.
Trung A-hàm tương đương với Trung bộ, chép những bài pháp dài
vừa. Tạp A-hàm tương đương với Tương ưng, chép những bài kinh có
nội dung tương tự như nhau. Tăng nhất A-hàm tương đương với Tăng
chi, chép những bài kinh sắp xếp theo con số. Riêng Tiểu bộ kinh
th́ chỉ có trong pali tạng mà thôi, ghi chép những câu kệ vắn
tắt.
Bộ kinh và A-hàm là kinh Nam tông. Kinh Nam tông có các đặc điểm
sau đây:
1/ Cả hai đều giữ được vị nguyên thủy.
2/ Cả hai đều giữ được do phương thức khẩu truyền trong suốt 3,
4 thế kỷ sau khi đức Phật nhập diệt.
3/ Văn dùng nhiều điệp từ và trùng ư.
4/ Nội dung phản ảnh được nhiều tư tưởng, tập quán, sinh hoạt
... thời bấy giờ.
5/ Dễ hiểu, thiết thực, đơn giản nhưng chặt chẽ (không kể Luận
tạng).
6/ Mang mầm mống của nhiều tư tưởng đại thừa sau này.
7/ Dễ trích dẫn và dễ nhớ .
Khoảng thế kỷ thứ II sau TL, ngài Long Thọ phát huy triết học
đại thừa về tánh Không, sách Trung quán luận của ngài chứng minh
rằng vạn pháp đều không. Khoảng thế kỷ thứ IV sau TL, hai ngài
Vô Trước và Thế Thân sáng tác một số tác phẩm về kinh điển đại
thừa. Các nhà đại thừa tạo ra một lập trường rơ ràng và đưa ra
các danh xưng đại thừa và tiểu thừa (theo HT W. Rahula)
Bắc Tông nhận tất cả tam tạng của Nam Tông, đồng thời có thêm
nhiều kinh sách như Pháp Hoa, Lăng-Nghiêm, Bát-Nhă, Hoa Nghiêm,
Vô Lượng Thọ, Duy-Ma-Cật, Thắng Man, Giải Thâm Mật, Lăng-Già,
Trung Quán Luận, Bách Luận, Hiển dương Thánh Giáo Luận, Đại Thừa
Bách Pháp Minh Môn Luận ... Đó là kinh sách Bắc Tông. Các đặc
điểm của kinh Bắc Tông là:
1/ Đa số kinh dài, nhiều phẩm, cao, khó.
2/ Chứa nhiều mật nghĩa, cần phải nhiều chú giải mới hiểu được.
3/ Tư tưởng cao xa: Bát-nhă, Không luận, Thực tướng luận,
A-lại-da duyên khởi luận.
4/ Đề cao sự trợ lực của chư Phật và chư Bồ-tát, qua các bổn
nguyện.
5/ Tự lực và tha lực đều góp phần trong sự tu hành.
6/ Đưa ra sự kiện các vị bồ-tát xuống Long cung chép kinh Phật
c̣n lưu tại đó.
Sau đây, xin tóm lược ư kiến của Kimura Taiken về Nguyên thủy,
Tiểu thừa và Đại thừa Phật giáo .( Sách Đại thừa Phật giáo tư
tưởng luận, từ trang 160 đến 169).
A. Nguyên thủy Phật giáo c̣n gọi là Căn bản Phật giáo, được coi
như gần với lịch sử và lập trường của đức Phật nhất. Chân tướng
của Phật giáo Nguyên thủy, một cách đại thể tóm tắt như sau:
1/ Những người do đức Phật trực tiếp cảm hóa, tập hợp thành giáo
đoàn, lấy Phật làm thày, muốn được an tâm lập mệnh như Phật – từ
khi Phật thành đạo đến 100 năm sau khi Phật nhập diệt (thế kỷ V
– cuối thế kỷụ IV Tây lịch).
2/ Người ta ư thức nhiều về những khổ năo cố hữu của cuộc sống.
3/ Nguồn gốc của mọi đau khổ là tham dục, là chấp ngă.
4/ Muốn thoát ly đau khổ, chỉ cần diệt trừ tham dục, chấp ngă.
Phải b́nh tĩnh quán sát các pháp thế gian một cách thuần túy
khách quan, coi lăo bệnh tử và mọi điều bất như ư là h́nh tướng
của các pháp thế gian. Lư hội được như vậy th́ các cái đó không
c̣n làm ta khổ nữa, tâm hồn ta sẽ đạt đến cảnh an nhàn tự tại,
gọi là Niết bàn. Khổ, vui, mê, ngộ đều không ngoài tâm. Hết thảy
đều do tâm chủ tŕ.
5/ Muốn đạt mục đích ấy th́ phải nỗ lực cải tạo hành vi, quán
tưởng, mở mang trí tuệ, làm cho cái tâm trong sáng, gạn trừ mọi
tư tưởng nhiễm ô.
Phật giáo nguyên thủy đượm màu sắc thuần phác, không lư thuyết.
Đức Phật dạy con đường giải thoát cho các đệ tử xuất gia đồng
thời dẫn dắt quảng đại quần chúng về con đường tốt lành và hạnh
phúc.
Tóm lại, Phật giáo nguyên thủy ít quan tâm đến lư luận, chỉ
trọng thực hành; ít thuyết minh về giáo điều, chỉ cần thể nghiệm
được pháp vị; ít chú ư đến h́nh thức mà trọng tinh thần; c̣n đối
với việc xây dựng một thế giới hiện thực tốt đẹp tuy cũng có lưu
tâm nhưng điều đó chỉ có nhân cách hoàn toàn của đức Phật mới
cảm hóa và thực hiện được mà thôi.
B. Đến thời Bộ phái Phật giáo, tức Tiểu Thừa Phật giáo, nhân
cách cảm hóa của đức Phật dần dần suy giảm, chỉ chuyên tŕ giáo
pháp và giới luật để bảo toàn sự sống c̣n của giáo đoàn. Do đó
giáo pháp được chỉnh lư, chú giải, đặt nền tảng cho thần học và
xác định giáo điều của Phật giáo. Đă phát sinh nhiều ư kiến bất
đồng, do đó có sự phân liệt. Khoảng 400, 500 năm sau khi đức
Phật nhập diệt, giáo đoàn đă chia thành hơn 10 bộ phái với lập
trường khác nhau.
1/ Nguyên thủy Phật giáo lấy nội tâm làm chủ, Bộ phái Phật giáo
chú ư cả nội tâm và ngoại giới.
2/ NT PG cũng thuyết minh phân tích nhưng về nội tâm lấy duyên
khởi quan, “một tức hết thảy” làm nền tảng, nhưng BP PG coi
trọng sự phân tích những yếu tố của vạn hữu.
3/ NTPG lấy tinh thần làm chủ chứ không lấy h́nh thức bên ngoài
làm chủ, BPPG th́ ngược lại.
4/ NTPG đối với cái đạo tại gia cũng rất chú ư; BPPG th́ chỉ
chuyên chú trọng về đạo xuất gia mà sao lăng đạo tại gia nên gần
như không quan tâm đến các xu thế của thời đại.
5/ NTPG: con người được coi như đức Phật, lấy giải thoát làm
mục đích. BPPG quá tôn sùng nhân cách cao cả của đức Phật nên
người thường không thể sánh được, tất cả người tu hành chỉ là đệ
tử của đức Phật mà thôi.
Tóm lại, BPPG đă phức tạp hóa PGNT đơn thuần. Tuy nhiên các tư
tưởng BPPG cũng đă được truyền bá ra bốn phương. Nhưng không đủ
để thích ứng với thời đại do quên đạo xuất gia, và v́ thế tinh
thần đạo Phật bị suy giảm. Danh từ Tiểu thừa do Đại thừa nêu ra
cốt là để nói lên chỗ yếu kém này.
C. Để làm sống lại tinh thần hoạt động của đạo Phật cho nên mới
có Đại thừa Phật giáo. Các điều nổi bật của Đại thừa là:
1/ Tiểu thừa t́m cầu sự giải thoát cho bản thân. Đại thừa chủ
trương ai ai cũng có Phật tánh, ai ai cũng có khả năng thành
Phật cho nên lấy việc cứu độ hết thảy chúng sinh làm lư tưởng
tối cao của ḿnh. TT chỉ nhận có Phật Thích Ca; ĐT thừa nhận chư
Phật đồng thời tồn tại. Mười phương, ba đời đều có chư Phật.
Thành Phật là lư tưởng tối hậu. Phải tu hạnh Bồ-tát trước, mà Bồ
-tát không chỉ hạn cục ở người xuất gia. Tại gia mà diệt trừ
được tham dục ích kỷ, làm lợi ích cho đời, dẫn dắt người về
đường thiện, tích lập công đức, cuối cùng hồi hướng cho quả vị
Phật, đều được coi là bồ-tát cả (bồ-tát có nhiều bậc), ĐT lấy
bồ-tát làm trung tâm đặc trưng cho nên gọi ĐT là Phật thừa hay
Bồ-tát thừa để đối lại với Thanh văn thừa hay La-hán thừa.
2/ Bồ tát lấy việc “trên cầu đạo bồ đề, dưới hóa độ chúng sinh”
làm bản nguyện và lấy việc tại gia làm điểm xuất phát, không
theo chủ nghĩa ẩn dật mà trái lại ở ngay trong thế gian hoạt
động việc đời, lấy việc cứu độ làm cơ sở, v́ nhu cầu giải thoát
chung, cố kiến thiết một thế giới tốt đẹp hơn. Nghĩa là muốn
cùng một lúc làm cả hai nhiệm vụ tại gia và xuất gia, kết quả là
đă phác họa được một quốc gia lư tưởng, đó là lư tưởng Tịnh độ.
3/ TT cho rằng con người khổ đau v́ có dục vọng, nên muốn thoát
khổ, phải diệt dục, đó là một giải pháp tiêu cực. ĐT cũng hiểu
như vậy song hiểu xa hơn: vô hạn dục là phát tâm cầu mong thành
Phật trong kiếp sống vô hạn đau khổ này nghĩa làm cho chữ “dục”
có một ư nghĩa đạo đức và tôn giáo. Lăn lộn trong khổ đau để cứu
độ chúng sinh. TT mong cắt đứt luân hồi, ĐT chấp nhận luân hồi,
lấy luân hồi làm căn cứ để phát tâm tu hành hướng thượng. Vậy
th́ dục vọng, khổ đau, luân hồi cũng có giá trị về luân lư.
4/ Phật giáo nguyên thủy đặc biệt chú trọng vào nội tâm, Tiểu
thừa cho tâm là điều kiện động cho nên cũng chú ư đến sự tồn tại
bên ngoài, rồi có lúc đi đến chỗ chú ư quá mức (thực tại luận
cực đoan). Đại thừa trở về lập trường của PGNT nên chủ trương
hết thảy đều do tâm, nhưng chữ tâm ở đây có phần thâm thúy hơn.
Trong tâm của ta, có đủ đức tính của Như lai tạng (Phật tánh)
cũng như có cả vô minh, phiền năo, tùy theo nó biểu hiện thế nào
mà thành có mê, ngộ, địa ngục, tịnh độ .. Mọi hiện tượng chỉ là
biểu tượng của cái vọng tâm của ta và hết thảy là “không”. Diệt
trừ được vọng tâm làm cho chân tâm biểu hiện th́ lúc đó mới thấy
chân tướng của vũ trụ. Từ đó thành lập thế giới quan “chân không
diệu hữu”.
5/ NTPG của đức Thế Tôn tỏ ra rất quan tâm đến thời đại lúc bấy
giờ. TTPG v́ chỉ chuyên t́m ṭi tài liệu của NTPG và giải
thích, không lưu ư đến tinh thần thời đại nên trở nên khô khan.
ĐTPG vận động phong trào tiếp xúc rộng răi với với tinh thần
thời đại và loại trừ các tệ hại thời đại. Khi ĐTPG truyền bá ra
nước ngoài th́ phải dùng nhiều phương tiện và tùy cơ ứng biến để
phát triển.
Tóm lại :
1/ Tiểu thừa tiêu cực, Đại thừa tích cực.
2/ TT ít nhiều khuynh hướng tự do cá nhân, ĐT do phong trào quần
chúng.
3/ TT lấy giải thoát cá nhân làm mục tiêu. ĐT lấy cứu tế xă hội
làm chuẩn đích.
4/ TT chủ trương ẩn dật, ĐT chủ trương hoạt động.
5/ TT chủ trương chuyên môn xuất gia, ĐT chủ trương thông tục.
6/ ĐT nêu khẩu hiệu kế thừa tinh thần Phật giáo nguyên thủy.
Nhiều người - nhất là Nam tông – không chấp nhận tất cả các ư
kiến này. Có người cho rằng Taiken là học giả về Ấn Độ giáo hơn
là về Phật giáo.
6. KẾT LUẬN.
Tụng kinh Pháp Hoa, chúng ta đă thấy rằng đức Phật (thật ra, các
tác giả chứ đâu phải chính đức Phật!) đă dạy rằng chỉ có một
Phật thừa, sở dĩ có ba thừa chẳng qua là do “phương tiện” trong
một số hoàn cảnh nào đó. Đức Phật dạy Ngũ giới, Thập thiện cho
những người chưa tu được theo đường giải thoát, cốt cho họ trồng
căn lành để cho các đời sau tu tiếp. Ngài dạy Tứ đế, Thập nhị
nhân duyên cho những ai đủ căn cơ tu giải thoát khỏi luân hồi,
chứng Niết bàn. Ngài dạy tu bồ-tát đạo cho những vị căn cơ cao,
mau thành quả Phật. V́ thế, tu hành theo phương pháp nào, tông
phái nào, Nam tông hay Bắc Tông, th́ cũng phải nhớ rằng: Đạo
Phật chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. □
Tài liệu tham khảo :
- Phật Học Tinh Yếu, HT Thích Thiền Tâm.
- Đạo Phật Nguyên Thủy và Đạo Phật Đại Thừa, HT W. Rahula.
- Tam tạng Kinh Điển, B́nh Anson.
- Khái quát lịch sử truyền bá Kinh tạng, TT Thích Viên Giác.
- Présence du Bouddhisme, Revue France-Asie, Saigon, 1970 ( ?).
- T́m hiểu về Tam Tạng, Thiện Nhựt (dịch Essence of Tipitaka, U
Ko Lay).
PHỤ LỤC.
■ Luật tạng (pali và sanskrit: Vinaya Pitaka). Luật tạng gồm có
5 bộ:
1/ Ba-la-di (Pàràjika), ghi đầy đủ sự giải thích các giới điều
quan trọng về kỷ luật có liên quan đến các trọng cấm và các
khinh tội.
2/ Ba-dật-đề (Pàcittiya), liệt kê các vi phạm thông thường của
tỳ kheo và tỳ kheo ni.
3/ Đại Phẩm (Mahàvagga),
4/ Tiểu phẩm (Cùllavagga), hai quyển 3 và 4 này bàn về các vấn
đề liên quan đến Giáo Hội Tăng Già, thí dụ nói về sự thành đạo
của đức Phật, sự khám phá lư Duyên Khởi, về việc Chuyển Pháp
Luân (Tứ đế) v.v… ... Có bài kể về việc đức Phật từ chối lập
Giáo Hội cho nữ nhân sau chấp nhận theo lời thỉnh cầu của ngài A
Nan ...
5/ Toát yếu (Parivàra), tóm tắt nội dung của Luận tạng, sắp xếp
các điều theo đề mục và giải thích do đâu mà có các chế tài …
■ Kinh tạng (p: Suttanta Pitaka) :
1/ Trường bộ kinh (p: Digha Nikàya) có 34 bài kinh, trong đó có
Kinh Đại Bát Niết-Bàn, Kinh Đại Quán Niệm (Kinh Tứ Niệm xứ),
Kinh Đại Duyên ...
2/ Trung bộ kinh (p: Majjhima Nikàya) có 152 kinh xếp trong 15
phẩm (mỗi phẩm một chủ đề), trong đó có Kinh Tịnh Tâm tức Kinh
Ví Dụ Cái Cưa, Kinh Chính kiến,Kinh Tứ Diệu Đế tức Đại Kinh Dấu
Chân Voi, Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Kinh Tiểu Không, Kinh Đại
Không ...
3/ Tương ưng bộ kinh (p: Samyutta Nikàya) gồm có 7762 bản kinh
ngắn xếp trong 5 phẩm lớn, trong mỗi phẩm đó có 56 nhóm.
Samyutta nghĩa là tương ưng, gọi thế là v́ các đề mục liên hệ
với nhau.
■ Luận tạng (p: Abhidhamma; s: Abhidharma; phiên âm:
A-tỳ-đạt-ma, A-t́-đàm):
►Luận tạng của Thượng tọa bộ, chữ pali, gồm có 7 bộ:
1/ Pháp tập luận (p: Dhammasangań), 2/ Phân biệt luận (p:
Vibhanga),
3/ Luận sự hay Biện giải (p: Kathàvatthu), 4/ Nhân thi thiết
luận (p: Puggala Pannati), 5/ Giới thuyết luận (p: Dhàtukathà),
6/ Song luận (p: Yamaka),
7/ Phát thú luận (p: Patthàna).
►Luận tạng của Nhất thiết hữu bộ, chữ sanskrit, cũng gồm 7 bộ:
1/Tập dị môn túc luận (s: Sanǵtipariyàya), 2/Pháp uẩn túc luận
(s: Dharmaskandha), 3/Thi thiết túc luận (s: Prajnaptisàstra),
4/Thức thân túc luận (s: Vijnànakàya), 5/Giới thân túc luận (s:
Dhàtukàya), 6/Phẩm loại túc luận (s: Prakarana), 7/ Phát trí
luận (s: Jnànaprasthàna).
►☼ Liệt kê sơ lược kinh điển Phật giáo đại thừa: (dựa theo B́nh
Anson )
1/ Trước thời Long Thọ: Các kinh Đại Phẩm Bát-Nhă, Tiểu Phẩm
Bát-Nhă, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Đại Vô Lượng Thọ,
Thủ-Lăng-Nghiêm, Duy-Ma- Cật. Trước tác của ngài Mă Minh: Phật
sở hạnh tán, Đại trang nghiêm luận, Thập bất thiện nghiệp đạo,
Lục thú luân hồi, Sự sư pháp Ngũ thập tụng, Ni Kiền Tử vấn vô
ngă nghĩa, Đại tôn địa huyền văn bản luận, Đại thừa khởi tín
luận.
2/ Thời Long Thọ, Đề Bà, Bạt Đà La: Ngài Long Thọ trước tác
nhiều bộ luận, dịch sang chữ Hán gồm có: Trung quán luận, Bồ đề
tâm ly tướng luận, Thập nhị môn luận, Đại Trí độ luận, Thập bát
không luận, Đại thừa phá hữu luận, v. v . . Ngài Đề Bà viết:
Bách luận, Bách tự luận, Quảng bách luận. Ngài Bạt Đà La viết:
Chú thích Trung luận.
3/ Sau thời Long Thọ: kinh Thắng Mạn, Giải Thâm Mật, Đại Bát
Niết-Bàn, Lăng-Già.
4/ Thời Vô Trước (thế kỷ IV , V):
Ngài Di-Lặc trước tác: Du-Già Sư Địa luận, Đại Thừa Trang Nghiêm
kinh luận, Thập Địa kinh luận, Trung biên phân biệt luận.
Ngài Vô Trước trước tác: Hiển Dương Thánh Giáo luận, Kim Cang
Bát Nhă Ba la mật kinh luận, Nhiếp Đại Thừa luận, Thuận Trung
luận, Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma tạp luận.
Ngài Thế Thân trước tác nhiều, dịch sang chữ Hán có: A Tỳ Đạt Ma
Câu Xá luận, , Nhiếp Đại Thừa Luận thích, Duy thức Tam thập
tụng, Duy thức Nhị thập tụng, Đại Thừa Bách pháp Minh môn luận,
Vô Lượng Thọ kinh Ưu ba đề xá, Phật tính luận v.v...
Bài đọc thêm:
V̀ SAO GỌI LÀ ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA ?
Trích từ Phật Giáo Chính Tín của Ḥa thượng Thích Thánh Nghiêm
(Trung Hoa)
Viện Nghiên Cứu Phật Học dịch
Trong thời Phật tại thế, vốn không có phân biệt Tiểu thừa và Đại
thừa. Phật pháp chỉ có một vị thuần nhất. Chỉ do đối tượng
thuyết pháp không giống nhau cho nên nội dung và cảnh giới
thuyết pháp cũng khác nhau mà thôi.
Phật giáo theo Đại thừa chia thành năm thừa: Nhân thừa (Phật
giáo cho loài người), Thiên thừa (Phật giáo cho loài trời),
Thanh văn thừa, Độc giác thừa và Bồ-tát thừa.
Tu theo 5 giới và 10 điều thiện ở bậc cao (thượng phẩm) th́ sẽ
được sinh lên các cơi trời. Tu theo 5 giới 10 điều thiện ở bậc
trung b́nh (trung phẩm) th́ sẽ được sinh làm người. Tổng hợp cả
hai lại, gọi chung là con đường tu tập của loài người và loài
trời. Hàng Thanh văn nhờ nghe pháp tu hành mà được giải thoát
khỏi sinh tử. Hàng Độc giác không nghe pháp, không có thầy mà tự
ḿnh giác ngộ, được giải thoát khỏi sinh tử. Tổng hợp cả hai
lại, gọi chung là con đường giải thoát của nhị thừa.
Con đường Bồ-tát là chủ trương vừa cầu giải thoát, vừa không
tách rời con đường loài người và loài trời, do đó con đường
Bồ-tát Đại thừa là con đường tổng hợp cả hai con đường giải
thoát sinh tử và con đường tái sinh của loài người và loài trời.
Tu theo 5 giới và 10 điều thiện trong con đường loài người và
loài trời th́ vẫn c̣n là phàm phu. Người tu hành, chứng đạo giải
thoát không c̣n luân hồi sinh tử nữa, mới gọi là bậc Thánh. V́
chỉ lo lắng cho bản thân mà cầu Phật pháp để được giải thoát,
không có tâm nguyện quay trở lại cứu độ chúng sinh, cho nên gọi
là Tiểu thừa. Con đường Bồ- tát gọi là Đại thừa, v́ lập luận
rằng vị Bồ-tát, trên th́ cầu đạo Phật vô thượng để giải thoát
khỏi sinh tử, dưới th́ phát nguyện độ vô lượng chúng sinh để
cùng thoát khỏi biển khổ sinh tử.
Về mặt phân bố địa lư mà nói, thông thường gọi là Phật giáo Đại
thừa, hay Phật giáo Bắc truyền, theo văn hệ Sanskrit, lấy Trung
Hoa làm trung tâm, bao gồm các nước như Nhật Bản, Đại Hàn, Mông
Cổ, Tây Tạng, Việt Nam. Phật giáo Nam truyền, c̣n gọi là Phật
giáo Tiểu thừa, dùng kinh điển thuộc văn hệ Pali, lấy nước Tích
Lan làm trung tâm và bao gồm các nước như Miến Điện, Thái Lan,
Lào, Cam Bốt, Việt Nam.
Thực ra, đó chỉ là sự phân biệt của riêng Phật giáo Bắc truyền
mà thôi, c̣n Phật giáo Nam truyền th́ không công nhận sự phân
biệt đó. Đấy là do, trong Luật tạng của Hữu Bộ, quyển 45 và Tạp
A Hàm quyển 28 trang 69 đều có ghi danh từ “đại thừa” để chỉ
những người tu theo Bát chính đạo và Tạp A Hàm quyển 26 trang
204 dùng danh từ “đại sĩ” chỉ cho những người tu hạnh Bốn nhiếp
pháp. Tăng nhất A Hàm cuốn 19 cũng nói rơ sáu độ (ba-la-mật)
thuộc về “đại thừa.”
Phật giáo Bắc truyền, trong lĩnh vực lư luận, có phần phát huy
hơn Phật giáo Nam truyền, thế nhưng về mặt thực tiễn sinh hoạt
th́ Phật giáo Bắc truyền không phải theo Đại thừa, và Phật giáo
Nam truyền cũng không phải theo Tiểu thừa. Phật giáo Trung Quốc,
ngoài việc ăn trường trai ra, cũng không có ǵ xuất sắc hơn Phật
giáo Nam truyền. Phật giáo Trung Quốc do chịu ảnh hưởng của tư
tưởng Lăo Trang và lối học nói suông chuyện thanh cao (huyền học
tham đàm) cho nên cũng bị lớp sĩ phu đời Ngụy Tấn đối đăi như là
một thứ huyền học để tiêu khiển. Lư luận của các tông phái ở
Trung Quốc như Thiên Thai Tông và Hoa Nghiêm Tông đều chịu một
phần ảnh hưởng của học phong này. Chính v́ vậy, một học giả Nhật
Bản cận đại, ông Mộc Thôn Thái Hiền (D.T. Suzuki), phê b́nh Phật
giáo Trung Quốc là loại Phật giáo học vấn, không phải là Phật
giáo thực tiễn. Phê b́nh như vậy, không phải là không có lư do.
Trên sự thực, cấu trúc tư tưởng của Hoa Nghiêm Tông và Thiên
Thai Tông đều xuất phát từ cảnh giới chứng ngộ của các cao tăng
Trung Hoa, chứ không có y cứ đầy đủ trên nền tảng giáo lư của
truyền thống Phật giáo Ấn Độ.
Do đó, có thể nói tinh thần “bồ-tát đại thừa” chân chính của
Phật giáo Trung Quốc cho đến nay vẫn chưa phổ cập đến dân gian
Trung Quốc, chứ đừng nói ǵ làm nơi quy tụ của tín ngưỡng dân
gian Trung Quốc! V́ vậy mà có người nói Phật giáo Trung Quốc về
tư tưởng là Đại thừa, về hành vi là Tiểu thừa. □
Bài đọc thêm:
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHẬT GIÁO
Trước tiên, chúng ta sẽ tŕnh bày sơ lược về lịch sử Phật giáo
để có được một cái nh́n tổng quát về Phật giáo cổ đại. Mục đích
tối hậu của chúng ta là đào sâu giáo lư uyên nguyên để t́m lại
Chánh Pháp, để t́m ra sự thật, để thấy cái thực.
Từ khi Phật thành đạo, thuyết pháp, giảng kinh cho đến khi Ngài
Niết-bàn, tạm gọi là thời kỳ nguyên thủy I. Thuở ấy giáo
pháp được nói từ kim khẩu của Đức Thế Tôn, mà bao giờ cũng nói
thẳng, chỉ thẳng, nói bằng một ngôn ngữ đại chúng, phổ biến,
giản dị, ai cũng có thể thấy để thực tri, thực hành và thực
chứng. Có thể nói giai đoạn này là giọt nước tinh nguyên đầu
nguồn của giáo pháp.
Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn kéo dài trên 200 năm, với 3 lần
kết tập Tam tạng(1) giáo pháp vẫn c̣n giữ được tính chất nguyên
thủy của đạo Phật, mặc dầu bấy giờ đă bắt đầu manh nha một vài
kiến giải sai biệt, nên tạm coi đây là thời kỳ nguyên thủy II,
tức là một đạo Phật vẫn c̣n nguyên thủy do các bậc Trưởng lăo
Thánh Tăng trùng tuyên.
Rồi sau đó là thời kỳ phân phái. Các tông phái đua nhau
xuất hiện cùng với những luận điểm sai khác về giáo lư Đức Phật.
Phật giáo sử có ghi lại tên tuổi của những học phái này, con số
lên đếùn 18 hoặc 25. Đó là khái niệm về một thời kỳ vườn hoa đua
nở hay là thời kỳ của tư tưởng tràn bờ.
Trong thời kỳ phân phái này có thể ghi nhận 3 khuynh hướng:
• Khuynh hướng duy tŕ giáo lư nguyên thủy của Đức Phật do các
vị trưởng lăo chủ trương, nên đă trở thành Trưởng Lăo Bộ
(Theravàda).
• Khuynh hướng triển khai một số điểm giáo lư và giới luật của
Đức Phật, và v́ có nhiều khuynh hướng luận giải bất đồng nên đă
h́nh thành nhiều bộ phái khác nhau như: Nhất Thiết Hữu Bộ
(Sabbatthivàda), Tuyết Sơn Bộ (Hemavatika), Pháp Tạng Bộ
(Dhammaguttika). Về sau Nhất Thiết Hữu Bộ lại chia ra thành Ca
Diếp Bộ hay Quan Ấm Bộ (Kasapika), Thuyết Chuyển Bộ
(Sankantika), Kinh Lượng Bộ (Suttavàda), v.v...
• Khuynh hướng triển khai giáo điển một cách rộng răi hơn, khơi
mào cho tư tưởng Đại Thừa sau này, như Đại Chúng Bộ
(Mahasanghika), Độc Tử Bộ (Vajjiputtaka), Nhất Thuyết Bộ
(Ekabbohàrika), Kê Dận Bộ (Gokulika), Pháp Thượng Bộ
(Dhammuttarika), Hiền Trụ Bộ (Bhaddayanika), Một Lâm Sơn Bộ
(Channagarika), Chánh Lượng Bộ (Sammitiya), Chế Đa Sơn Bộ
(Panơnơattivàda), Đa Văn Bộ (Bahulika), Thuyết Giả Bộ
(Cetiyavàda), v.v...
Khuynh hướng đầu, do Trưởng Lăo Bộ chủ trương, có thể xem là
thời kỳ nguyên thủy III.
Sau này khi tư tưởng Đại Thừa được thiết lập th́ người ta gọi
khuynh hướng thứ hai và thứ ba là Tiểu Thừa.
C̣n thời chúng ta th́ có người c̣n tệ hơn nữa đă đồng hóa Nguyên
Thủy với Tiểu Thừa.
Đến đây th́ giọt nước đầu nguồn – tức là tính chất nguyên thủy
của giáo pháp – đă lang thang qua rất nhiều sông cái, sông con,
ao hồ, khe rănh … mất rồi! Một đạo Phật như thật – thật tu, thật
chứng – đă biến thành một loại triết học, triết lư cao siêu để
lư luận rao bán như một món hàng tinh thần thượng đẳng!
Thời kỳ này kéo dài đến hơn 600 năm sau Phật Niết-bàn, rồi lần
lượt ra đời các vị luận sư uyên bác. Đầu tiên là Ngài Mă Minh,
tiếp theo là Ngài Long Thọ, sau đó nữa là các Ngài Vô Trước và
Thế Thân. Họ đă cùng nhau xiển dương giáo lư Đại Thừa, nên thời
kỳ này cũng gọi là thời kỳ Đại Thừa. Thời kỳ Đại Thừa kéo
dài từ 600 đến 1.000 sau Phật Niết-bàn. Công việc của các vị
luận sư Đại Thừa là sau khi tiếp thu có phê phán tất cả tư tưởng
giáo lư Tiểu Thừa của tất cả học phái đương thời, họ rạch ṛi
cái đúng cái sai, viết lại giáo pháp trong những bộ luận của
ḿnh, như Ngài Mă Minh th́ có bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận. Ngài
Long Thọ th́ có Du Già Sư Địa Luận và Trung Quán Luận, v.v...
Tuy nhiên luận giải của các Ngài dù chặt chẽ đến đâu cũng không
tránh khỏi đưa đến tŕnh trạng mâu thuẫn giữa các luận phái với
nhau. Nên khoảng 1.000 năm sau Phật Niết-bàn, Đại Thừa lại phân
phái! Sách vở c̣n ghi lại hàng chục phái Đại Thừa khác nhau ra
đời, về sau được gọi là thập đại môn phái. Ví dụ: Mật
Tông (hay Du Già Tông, c̣n gọi là Kim Cang Thừa), Không Tông,
Pháp Tướng Tông, Tịnh Độ Tông, v.v... Như vậy là, lại một lần
nữa ngàn hoa đua nở, lại một lần nữa tư tưởng tràn bờ.
Đến chừng 1.100 năm sau Phật Niết-bàn, Thiền Tông Trung Hoa ra
đời với Tổ Đạt -Ma. Đó có thể gọi là thời kỳ Thiền Tông
sau 6 vị Tổ truyền thừa y bát, Thiền Tông lại chia ra làm 5
phái: Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhăn, Qui Ngưỡng! Qua thời
gian, tại Trung Hoa, bên cạnh các tông phái Thiền, lại nảy sinh
các tông phái khác, mỗi tông phái chú trọng một bộ kinh.
Sự có mặt của Thiền Tông sau giai đoạn Tiểu Thừa – Đại Thừa mang
ư nghĩa nào? Giá trị ǵ? Rồi chúng ta sẽ khảo sát sau.
Sư Viên Minh
BIỂU ĐỒ PHÂN PHÁI
(Trích PHẬT HỌC TINH YẾU của
HT Thích Thiền Tâm)