I. Mở
Lời
Nước
Việt Nam nhỏ bé ở phía Nam Trung Quốc. Văn học Trung Quốc đứng hàng đầu
thế giới. Lại thêm suốt cả ngàn năm, dầu đă thoát nạn làm quận huyện của
Thiên Triều, chữ Trung Quốc, đọc theo âm Việt Nam tục gọi là chữ Nho, vẫn
là quốc tự trong mọi hoạt động. Thế nên văn học Việt Nam không thể không
mang mầu sắc văn học Trung Quốc. Dương Quảng Hàm, tác giả cuốn Việt Nam
Văn Học Sử Yếu, đă nhấn mạnh trên ảnh hưởng của văn học Trung Quốc trên
văn học Việt Nam. Cảo luận này trở lại câu truyên đó theo quan điểm của
giới phê b́nh văn học hiện tại, ứng dụng cách phân tích theo học phái hậu
ngoại thuộc postcolonialisme với mục đích nhân diện văn học Việt Nam.
Người Trung Quốc dịch sát nghĩa chữ postcolonialisme thành hậu thực dân
chủ nghĩa. Dịch như vậy rất khó dùng trong một câu tiếng Việt. Do đó
cảo luận này đề nghị dịch thoát chữ postcolonialisme thành tư tưởng hậu
ngoại thuộc. Trong khuôn khổ bài viết này xin dịch là hậu bắc thuộc.
Chữ hậu trong nhóm chữ hậu bắc thuộc dịch theo ư mà Terry Eagleton,
một nhà văn học người Anh Quốc, dùng để dịch chữ Post-Romantics. Ông viết:
[1]
Being products of that epoch rather than confidently posterior to it tỏ ư
là chữ hậu không chỉ riêng có nghĩa là theo sau trong thời
gian, mà có nghĩa là thành h́nh từ, như vậy hậu bắc thuộcnghĩa
là thành h́nh từ thời kỳ bắc thuộc.
Ḍng tư tưởng hậu ngoại thuộc phát xuất từ hội nghị Bandung, tại Nam
Dương, năm 1955 giữa 29 quốc gia Á Phi không liên kết, họp thành thế giới
thứ ba, third world, đứng giữa hai khối tư bản và cộng sản. Hầu hết các
quốc gia gửi đại biểu tới tham dự hội nghị đều cùng mới thoát khỏi nạn
thực dân của người Âu Châu. Tới thập niên 80, thế kỷ XX, tư tưởng hậu
ngoại thuộc trở thành một đề tài nghiên cứu trong nhiều phân khoa các đại
học lớn trên thế giới về những vấn đề liên quan đến an ninh xă hội cũng
như triết học và văn học.
Ứng dụng phương pháp nghiên cứu hậu ngoại thuộc vào việc t́m hiểu ḍng văn
học hậu bắc thuộc và phân biệt văn bản viết bằng chữ nho với văn bản viết
bằng chữ nôm đưa tới kết quả sơ khởi là ḍng văn học hậu bắc thuộc có thể
chia ra làm bốn nhánh. Nhánh thứ nhất gồm những tác giả chỉ sáng tác bằng
chữ Nho, tức chữ Trung Quốc đọc theo âm Việt Nam, nhưng những h́nh ảnh
trong văn hoặc thơ không v́ vậy không là những h́nh ảnh quen thuộc trong
văn thơ nôm. Ngành này dường như đông đảo nhất, gồm như toàn thể các nhà
văn nhà thơ đời Lư đời Trần, qua đời nhà Lê, xuống tới nhà Nguyễn, tỷ như
Cao Bá Quát. Nhánh thứ hai, tiêu biểu là Nguyển Trăi, sáng tác cả bằng chữ
nho và chữ Nôm. Hai ḍng sáng tác này dường như không liên quan với nhau.
Nhánh thứ ba là nhánh sáng tác bằng chữ nho và chữ Nôm, nhưng hai ḍng
sáng tác đó, trái với nhóm thứ hai, liên quan mật thiết với nhau, hơn nữa
có nhiều bài tác giả tự dịch từ bản chữ nho thành bản chữ nôm hoặc ngược
lại. Đó là trường hợp của Nguyễn Khuyến. Song song với ḍng thơ tự dịch
của Nguyễn Khuyến, là những sáng tác dân gian, thường không có tên tác
giả, dùng chữ nho như đễ đùa rỡn, trọc cười mua vui, tỷ như truyện Trạng
Quỳnh, cũng như một số truyện truyền miệng chép trong sách Truyện Cổ Nước
Nam của Nguyễn Văn Ngọc, hoặc để tạo ra một ḍng thơ mới như trong những
bài hát nói. Sau hết nhánh thứ tư gồm những nhà thơ làm thơ hoàn toàn bằng
chữ nôm như Hồ Xuân Hương và những nhà thơ viết rất it bắng chữ nho và rất
nhiều bằng chữ Nôm, như Nguyễn Công Trứ. Ngoài ra c̣n những truyện dân
gian đọc trẹo chữ nho hay phỏng theo văn xuôi Trung Quốc để sáng tác ra
những nụ cười, tương tự như người Ư Quốc nhại tiếng La Tinh, người Tây Ban
Nha kể lại những hành vi bất luơng của gă Lazarillo vùng Tormès, và đồng
thời bày tỏ khuynh hướng đối kháng văn học Trung Quốc tựa như văn học Ư
Quốc và Tây Ban Nha đối kháng với văn học La Tinh. Việc đọc trẹo chữ nho
này theo giới nghiên cứu tư tưởng hậu ngoại thuộc là t́m tính tạp chủng
trong văn học.
Nhận xét thâu thập được cho thấy là văn học hậu bắc thuộc hằng có một phần
mầu sắc vượt ra ngoài khuôn khổ văn học Trung Quốc dầu bị ảnh hưởng xâu
rộng của nền văn học đó.
Trên mặt nội dung, dầu là một tác phẩn viết bằng chữ Nho, hay bằng chữ
Nôm, hầu như toàn thể thơ văn Việt Nam đều có chung một chủ đề. Chủ đề
chung đó là cái khổ làm người, le mal de vivre. Trong cả bốn nhóm văn thi
sĩ, mầu sắc hậu bắc thuộc thấy rơ trong tư duy của các tác giả dẫu tác giả
thường dựa theo nho học, cũng như theo Lăo học và Phật học để sáng tác.
Mầu sắc của căn tính, identity, của tác giả thường tiêu biểu bởi kinh
nghiệm sống của người viết sách, hay kể truyện để đạt tới mức cân bằng
giữa tam giáo. Ngoài tính tạp chủng nói trên, văn học hậu bắc thuộc Việt
Nam, dường như thường có tính biến cải alterity làm giảm bớt phần thứ yếu,
subalterne của văn thơ nôm đối chiếu với văn học Trung Quốc và đưa văn học
hậu bắc thuộc ra ngoài vùng ảnh hưởng của văn học Trung Quốc. Phải chăng
đó là một điẻm khác biệt giữa văn học hậu bác thuộc tại Việt Nam với văn
học các quốc gia Phi Châu so với văn học Anh Quốc và Pháp Quốc .[2]
II
Bắt đầu là một truyện ngắn của Nguyễn Dữ, trong Truyền Kỳ Man Lục [3]:
Truyện
Phạm Tử Hư Lên Chơi Thiên Tào
Phạm Tử Hư quê ở Cẩm Giang, là một người tuấn sảng hào mại, không ưa sợ
kiểm thúc. Theo học nhà xử sĩ Dương Trạm, Trạm thường răn Tử Hư về cái
tính hay kiêu căn. Từ đấy chàng cố sức sửa đổi, trở nên người có đức tính
tốt.
Khi Dương Trạm chết, các học tṛ đều tan đi cả, duy có Tử Cư làm lều ở mmả
để chầu chực, sau ba năm rồi mới trở về. Năm 40 tuổi, Tử Hư đi thi vẫn
chưa đỗ; đời Trần, sang du học ở kinh, ngụ ở trong một nhà dân bên bờ hồ
Tây.
Một buổi sáng, Tử Hư ở trong nhà trọ đi ra, trong ánh sương mù thấy có một
đám những tàn vàng kiệu ngọc bay lên trên không; kế lại có một cỗ xe nạm
hạt châu, kẻ theo hầu cũng rất chững chạc. Tử Hư khẽ ḍm trộm xem th́
người ngồi trong xe, chính là thầy học ḿnh là Dương Trạm. Chàng toan tới
gần sụp lậy, nhưng Trạm xua tay nói:
Giữa đường không phải chỗ nói truyện: tói mai đến đền Trấn Vơ ở cửa Bắc,
thầy tṛ ta sẻ hàn huyên một hôm.
Tử Hư bèn sắm rượu và thức nhắm, đúng hẹn mà đến. Thầy tṛ gặp nhau vui vẻ
lắm, chàng nhân hỏi rằng:
Thầy mới từ trần chưa được bao lâu, đă trở nên hiển hách khác hẳn ngày
trước, xin thầy cho biết rơ duyên do để con được vui mừng.
Dương Trạm nói:
Ta thủa sống không có một điều thiện nào đáng khen, chỉ có hay giữ điều
tín thực với thầy bạn, quư trọng những tờ giấy có chữ, hễ thấy rơi văi
liền nhặt mà đốt đi. Đức Đế Quân đây ngài khen là có bụng tốt, tâu xin cho
làm chức trực lại ở cửa Tử Đồng, t́nh cờ lại gặp nhà ngươi, đó cũng là v́
thầy tṛ ḿnh có cái mối duyên.
Tử Hư nói:
Thầy được giữ chức trọng quền cao như vậy, chằng hay sự sống chết thọ yểu
của con, thầy có được rơ không?
Việc đó chẳng thuộc về chức vụ của ta.
Vậy thế thầy giữ về việc ǵ?
Ta trông coi về việc văn chương thi cử, khoa danh cao thấp của những học
tṛ trong thiên hạ.
Tử Hư mừng mà rằng:
Nếu thế th́ tiến tŕnh của con cùng đạt thế nào chắc thầy biết rơ
Cứ như văn chương tài nghệ của anh, đương đời không ai b́ kịp, hống anh
lại c̣n có tính trung hậu, nết thành thực. Chỉ phải cái hồi c̣n niện
thiếu, anh thường lấy văn tài mà kiêu ngạo với người khác, cho nên trời
mới bắt đỗ muộn để phải chùn nhụt cái nết ngông ngáo đi. Nều không th́
cướp thẻ trước cửa Mông Chính nhặt hạt cải cửa Hạ Hầu, phỏng anh c̣n khó
khăn ǵ nữa. Cho nên xưa nay, người ta bàn về kẻ sĩ, tất phải xét tới đức
hạnh là v́ thế. Ngày nay những người mặc áo nhà nho, đeo dải nhà nho th́
lại khác hẳn. Họ thường đổi họ để đi học, thay tên để ra thi; hễ trượt th́
đổ lỗi mờ quáng cho quan trường, hơi thành danh th́ hợm ḿnh tài giỏi hơn
cả tiền bối, chí khí ngông ngáo tính t́nh trắc trở, thấy thầy nghèo th́
lảng tránh, gặp bạn nghèo th́ làm ngơ, không biết rằng ngày thường dắt dẫn
rèn cặp, phần nhuiều là do cái công đức của thầy bạn. Vả như ta xưa, dạy
có đến mấy ngàn học tṛ, giao du ở kinh đô rất nhiều bè bạn, thế mà sau
khi ta mất, nghe có người đai vàng mũ bạc, có người quan cả ngôi cao,
nhưng không hề một ai t́m đến thăm viếng mồ ta mà tưới lên một vài chén
rượu. Nhân thế ta vẫn để ư đến anh lắm.
Tử Hư nhân đem những người làm quan bấy giờ, nhất nhất hỏi về từng người
một:
Thưa thầy, ông mỗ ở ngôi trọng thần mà tham lam không chán, ông mỗ làm
chức sư tư mà mô phạm không đủ, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều thiếu thốn, ông
mỗ chăm dân mà dân bị tai hại, ông mỗ chấm văn mà lấy đỗ thiên vị, ông mỗ
trị ngục mà buộc tội oan uổng; lại c̣n nhiều người lúc bàn nói th́ môi mép
bẻo lẻo, đến lúc trù tính quyết định kế lớn của quốc gia th́ mờ mịt như
người ngồi trong đám mây mù, thậm đến không noi theo danh, không xét theo
thực, không trung với đấng quân thượng, lớn th́ làm việc bán nước của Lưu
Dự, nhỏ th́ làm việc dối vua của Diên Linh. Bọn ấy sau khi chết, có phải
luận tội ǵ không, hay là cứ được hưởng tôn vinh măi thế?
Trạm cười mà rằng:
Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Lưới trời thênh thang, thưa nhưng
chẳng lọt. Chỉ có rằng thời gian chưa đến mà thôi. Nay ta bảo rơ cho anh
nghe: trong khoảng trời đất báo ứng luân hồi, chỉ có hai loài ác thiện.
Người chăm làm thiện, tuy hăy c̣n sống, tên đă ghi tại đế đ́nh; người hay
làm ác, không đợi đến chết, án đă thành ở địa phủ. Cho nên Nhan Hồi lúc
sống ở ngơ hẻm mà chết đưọc làm chức Tu Văn, Vương Bàng ngày thương có nết
kiêu ngoa mà chết phải máu rây mặt đất. Không phải như người ở cơi đời, có
thể mượn thế mà làm được quan, có thể nhờ tiền mà thoát khỏi vạ, h́nh phạt
th́ quá lạm, tước thưởng th́ thiên tư, cúi đầu khom cật, dù hèn hạ cũng
được cất nhắc lên, đứa hoạt thằng gian, nhờ đút lót mà được thoát khỏi.
Anh cố gắng, đùng gieo cái nghiệp báo ở kiếp sau này.
Tử Hư nói:
Cái cửa họa phúc đă được nghe đại khái. Nhung nay nhưng người học tṛ
thường đến đền Đế Quân làm lễ cầu mộng, xin ngài báo ứng cho biết nhưng sự
nghiệp về sau. Việc đó quả có thực hay không?
Trạm cười mà rằng:
Đấng Đế Quân ngài nuốt nhả nguyên khí, chu du tám phương, ngày xét giấy
tơ, đêm chầu thượng đế, c̣n lúc nào rỗi để làm cái việc vụn vặt ấy. Song
nhưng người một ḷng chay sạch thành kính th́ trong lúc bập bừng, tựa như
có thấy. Người đời không hiểu bèn cho là sự thực, thật đáng buồn cười.
Thưa thầy, nếu thế th́ truyện phóng bảng cửa trời, cũng là truyện ngoa
truyền chăng?
Không, việc đó có thật đấy.
Trạm bèn giơ ra một cuộn giấy phong dán rất kỷ bảo Tữ Hư rằng:
Đây là bảng xuân sang năm đây. Ta vâng mệnh Đế Quân, đi tra xét kỹ lưỡng
để giao lên cửa trời biên vào cho đủ. V́ có anh đến chơi đây nên ta chưa
đi được.
Dương Trạm lại kể cho Tủ Hư nghe những thú vui trên Thiên Tào, hơn ở cơi
trần nhiều lắm, và bảo nhà ngươi nên cố gắng sửa ḿnh chuốt nết, tự nhiên
có ngày được lên ở trên ấy; như ta đây, cũng là cái duyên may mắn khác
thường. Tử Hư nói:
Ḿnh trần vóc tục, con biết do lối nào mà noi lên được! Chỉ mong theo đ̣i
xe gió, dược tạm lên chơi xem một chuyến, chhảng hay thầy có thể giúp cho
được không?
Sự đó cũng không khó. Để ta bẩm với đức Đế Quân, đem tên họ anh điền vào.
Bèn lấy bút son viết vào cuối giấy hơn mươi chữ, rồi bảo cất bỏ tiệc rượu.
Tử Hư được theo thầy lên ngồi ở một bên xe, rồi cỗ xe thẳng đường bay lên.
Lên đến trời, Tử Hư thấy một khu có những bức tường bạc bọc quanh, cái cửa
lớn khảm trai lộng lẫy, hai bên có những t́a lầu châu điện cẩm ngọc, vằng
vặc sáng như ban ngày, sông Ngân bến Sao, ôm ấp lấy đằng sau đằng trước,
gió thơm phưng phức, đượm ngát q1uanh hiên, hơi lạnh thấu da, ánh sáng
chói mắt, trông xuống cơi trần, thấy mọi cảnh vật đều nhỏ bé tủn mủn.
Dương trạm nói:
Anh có biết đây là đâu không? Tức là kinh Bạch Ngọc ở trên trời mà người
đời thường nói đó. Ở chính giữa kia, có đám mây hồng che phủ, là cung Tử
Vi của Đức Thượng Đế. Anh nên đứng chờ ta ở ngoài cửa thành để ta vào tâu
xin cho anh.
Nói rồi Dương Trạm cầm cuộn giấy đi vào, sau một lúc lâu mới ra. Chợt nghe
trên thành có tiếng hô vang, nói người đỗ đầu bảng sang năm, đă kén được
viên trạng nguyên họ Phạm rồi.
Dương Trạm dẫn Tử Hư đi chơi thăm khắp cả các`ṭa. Trước hết đến một ṭa
có cái biển đề ngoài là Cửa Tích Đức, trong có chừng hơn ngh́n người mũ
hoa dải huệ, kẻ ngồi người đứng. Tử Hư hỏi th́ Dương Trạm nói:
Đó là những vị tiên thủa sống có ḷng yêu thương mọi người, tuy không dốc
hết tiền của làm việc bố thí, nhưng biết tùy thời mà chu cấp, đă không keo
bẩn, lại không hợm hĩnh. Thượng Đế khen là có nhân, liệt vào thành phẩm,
nên họ được ở đây.
Lại đi qua một ṭa sở có biển đề ngoài là Cửa Thuận Hạnh, trong có độ hơn
ngh́n người, áo mây lọng mưa, kẻ hát người múa. Tữ Hư lại ḥi, Dương Trạm
nói:
Đó là những vị tiên thủa sống hiếu thuận, hoặc trong lưu ly biết bao bọc
lấy nhau, hoặc đem đất cát mà san sẻ cho nhau, mấy đời ở chung, cho vào
cung mây nên họ được ở đây.
Lại đến một ṭa sở có biển đề: Cửa Nho Thần, người ở đấy đều áo dài đai
rộng, cũng có tới số một ngh́n, trong có hai người mặc áo lụa, đội mũ sa.
Dương Trạm trỏ tay bảo Tử Hư rằng:
Ấy là ông Tô Hiến Thành triều Lư và ông Chu Văn An triều Trần đó. Ngoài ra
th́ là những danh thần đời Hán đời Đường, không sung vào quan vị chức
chưởng ǵ cả, chỉ ngày sóc ngày vọngth́ vào tham yết Đế Quân, như những
viên tản quan đời nay thỉnh thoảng vào chầu vua mà thôi. Cứ cách nam trăm
năm lại cho giáng sinh, cao th́ làm đến khanh tướng, thấp cũng được làm sĩ
phu hiệu doăn. Ngoài ra c̣n đến hơn trăm ṭa sở nữa, nhưng trời gần sáng,
không đi xem khắp được, vội cưỡi gió mà bay xuống trần. Xuống đến cửa Bắc,
thấy trăm quan đă lục tục vào triều chầu vua.
Tử Hư từ biệt thầy trở về; sang năm đi thi quả đỗ Trạng Nguyên. Phàm những
việc cát hung họa phúc nhà Tử Hư, thường được thầy về báo cho biết...
Nguyễn Dữ người đời Lê, nguyên quán tại làng Đỗ Tùng, huyện Trường Tân,
nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Ông là con tiến sĩ Nguyễn Tường
Phiếu, khoa bính dần, năm Hồng Đức thứ XXVII, làm quan đến chức thượng
thư, chết được thờ làm phúc thần.
Nguyễn Dữ thủa trẻ xem rộng biết nhiều, vốn là một cao đồ của Trạng Tŕnh
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đi thi đỗ Cử Nhân, rồi chỉ trúng nhất nhị trường trong
một vài khoa thi hội. Ông được bổ tri huyện Thanh Toàn, nhưng sớm chán
hoạn trựng, xin từ chức về nhà nuôi mẹ già, xa lánh nơi đô hội. Người đời
gọi ông là ẩn sĩ. Nam sinh năm mất của ông cũng không ai rơ, chỉ đồ chừng
ông sống khoảng các triều vua Uy Mục, Tương Dực, Chiêu Tôn, Cung Hoàng hồi
nhà Tiền Lê suy loạn. Thời đó nước nhà sản xuất nhiều truyện thần quái.
Ông sưu tầm nhưng truyền thuyết từ thủa Lư Trần, tham khảo nhiều sách
Trung Quốc sáng tác nên bộ Truyền Kỳ Mạn Lục.
Dẫu nhân vật chính trong truyện Phạm Tử Hư Lên Chơi Thiên Tào mang tên
Việt Nam, kể cả những địa danh như Hồ Tây, đền Trấn Vơ, Cửa Bắc đều là
nhưng địa điểm quen thuộc tại Long Thành, nhưng ngôn ngữ trong bài văn vẫn
là ngôn ngữ tiểu thuyết Trung Quốc. Nhiều đọan tả cảnh Thiên Tào đọc như
nghe biền ngẫu cổ, mặc dầu đă chuyển ngữ sang thành văn nôm. Nhiều h́nh
ảnh vẫn lấy từ sử Trung Quốc. Tỷ như khi ông muốn nói sang năm Tử Hư sẽ
thi đỗ, ông đă dùng điển cướp thẻ trước cửa Mông Chính, nhặt hạt cả cửa Hạ
Hầu, lấy từ Tống sử, truyện Hồ Đán Phủ nghe tin Lă Mông Chính đỗ trạng
nguyên, than rằng: “Thôi thế là sang năm ta đỗ, lại phải sau hắn một thẻ
rổi”; để đối với điển danh nho Hạ Hầu Thắng đời Hán thường nói rằng: kẻ sĩ
chỉ sợ không sáng nghĩa kinh, nếu sáng th́ lấy áo xanh áo tía dễ như nhặt
hạt cải dưới đất vậy.
Lời Tử Hư hỏi thầy về những người làm quan đương thời cũng là văn biền
ngẫu: lấy điển trạng nguyên Lưu Dư đời nhà Tống được người Kim lập làm vua
Tề đối với điển người Diên Linh làm quan dưới triều vua Đường Đức Tôn, ứng
đối trước triều thần dùng toàn nhưng lời dối trá. Lời Dương Trạm trả lời
Tử Hư cũng là văn biền ngẫu, lấy từ sách Văn Uyển truyện Nhan Hồi, học tṛ
Khổng Tử, chết trẻ nhưng chết rồi th́ dưới cơi âm được giữ chức Tu Văn
Lang, đối với truyện Vương Bằng, sách Loại Tụ, con Vương An Thạch đời
Tống, chết xuống âm phủ c̣n bị cùm kẹp tra tấn máu vấy đầy đất. Trái lại,
đoạn cuối truyện Tử Hư được thầy dẫn đi coi một số ṭa phủ nơi Thiên Tào
lại là một h́nh ảnh quen thuộc trong những truyện truyền thuyết dân gian.
Người xem truyện Nguyễn Dữ tới đây không khỏi nhớ tới đọan mở đầu truyện
công chúa Liễu Hạnh, chép trong cuốn Vân Cát Thần Nữ do Vũ Ngọc Khánh chủ
biên tóm lược như sau: [4]
Tại làng Vân Cát, huyện Thiện Bản, tỉnh Nam Định có nhà hhằng tâm hằng sản
Lê Thái Công, dốc ḷng thờ Thượng Đế và chuyên lo làm phúc. Dầu tuổi quá
bốn mươi, ông mới chỉ có một con c̣n nhỏ tuổi. Vào năm Thiên Hựu đời Lê
(1557) Thái Bà có tin mừng, nhưng gần tói cữ bỗng mang bệnh, mặc dầu nhiều
thầy nhiều thuốc, bệnh vẫn một ngày một nặng. bỏ ăn bỏ uống, chỉ c̣n thiết
ngửi hương hoa.
Trung thu năm đó, tiết trời trong sáng. Một đêm có người áo lá mũ rơm tới
gọi cổng nhà Thái Công, nói là muốn ra mắt gia chủ chữa bệnh cho Thái Bà.
Người nhà chậm mở cổng, người ấy lớn tiếng nói rằng:
Ta từ cơi âm về đây, thấy gia chủ là người phúc thiện, muốn ra tay trợ
giúp, cớ sao xua đuổi ta?
Lê Thái Công nghe thấy vậy, thân ra mở cổng mṃi vào. Khách xơa tóc, niệm
thần chú, rồi ném cái búa ngọc xuống đất. Tức thời Thái Công ngă xuống ngủ
thiếp. Trong mơ Thái Công thấy như hồn ĺa khỏi thân bay bổng theo ba
người dẫn đường. Quanh ông chỉ thấy ánh sáng bàng bạc như trăng. Chẳng bao
lâu bốn người tới một cổng thành vĩ đại. Qua cửa thành, cả bốn người cùng
thay đổi áo quần, rồi tiếp tục leo lên chín bậc cung trời.
Qua khe cửa sổ, Lê Thái Công nh́n thấy Ngọc Hoàng ngự trên ngai vàng, hai
bên tả hữu có đủ mặt quần thần sắp hàng đứng chầu. Tất cả đều trang phục
áo triều giát vàng đính ngọc. Trên mâm ngọc đặt trước ngai rồng, có những
trái đào trường sinh mới hái tự Dao Tŕ, lại có nậm rượu tiên nhấp vào sẽ
bất tử. Theo tiếng nhạc Quân Thiều, một đoàn tiên nữ múa khúc Nghê Thường.
Rồi có một tiên cô, xiêm áo một mầu hồng, tay nâng chén ngọc, tha thướt
bước ra dâng rượu lên Ngọc Hoàng. Bỗng nhiên chén ngọc rớt ra khỏi tay
tiên vỡ tan trên thềm. Quần thần đều hướng mắt về tiên cô áo hồng. Từ mé
trái sân rồng tiến ra một vị đâi thần, qùy xuống trước ngai rồng, lên
tiếng đọc mười hai chữ trong một cuốn sách vàng. Không khí sân rồng căng
thẳng sợ hăi. Rồi từ trên điện có lời phán:
Ngươi thực không muốn ở chốn thương giới đây nữa.
tức thời c̣ hai hộ sĩ cùng một bày tiên quây quanh tiên cô áo hồng, dẫn
nàng ra khơi sân rồng bằng lối cửa Bắc. Đi đầu đám quần tiên là một tiên
cô vác bảng viết chũ thiếp vàng, nhưng từ xa Lê Thái Công chỉ đọc đuợc chữ
sắc giáng. Ông hỏi nhỏ người dẫn đường truyện ǵ vậy? Họ tră lời ông là
Quỳnh Nương công chúa, lỡ đánh vỡ chén ngọc nên bị đầy xuống hạ giới. Liền
đó có một vị thần bưóc ra khỏi điện, lớn tiếng nạt:
Các người là ai? Sao giám đến đây xầm x́?
Ba người thưa:
Chúng con là bọn ngũ lôi thần binh đang đợi lệng ngọc hoàng.
Nói đọan họ kéo Lê Thái Công bay về hạ giới. Lê Thái Công bừng tỉnh, ḷng
mừng khấp khời v́ Thái Bà đă khỏi bệnh. Khắp nhàngào ngạt hương thơm và
lồng lộng ánh sáng như trê thượng giới. Ngựi nhà báo tin Thái Bà hạ sinh
con gái. Lê Thái Công sai t́m ngựi khách lạ, nhưng khác đạ biệt tăm cùng
chiếc búa ngọc. Nhớ lại cảnh chính mắt nh́n thấy trên thượng giới. Lê Thái
Công tin chắc là công chúa Qùnh Nưong vừa giáng lâm vào nhà ông. Ông Đặt
tên con là giáng Tiên. [...]
Đối chiếu đọan mở đầu truyện Phạm Tữ Hư Lên Chơi Thiên Tào với đọan mở đầu
sự tích Vân Cát Thần Nữ, người đọc thấy rơ sự tương đồng ǵũa cách vào
Truyện của Nguyễn Dữ và cách vào truyện của Hồng Hà Phu Nhân Đoàn Thị
Điểm, tác giả Vân Cát Thần Nữ.
Truyện truyền kỳ của Nguyễn Dữ, viết bằng chữ nho theo bố cục một truyện
Trung Quốc, nhắm chở đạo, vai chánh là Phạm Tử Hư là một môn đệ nho học
chính thống, sống theo đúng đạo thầy học trọng hơn cha, dập theo thứ tự
Quân Sư Phụ của Khổng Học, dựng lều bên mộ thầy, để tang thầy đủ ba năm.
Ông c̣n quư trọng chữ nghĩa thánh hiền, nhặt từng mẩu giấy có viết chữ
mang đốt. Thế nên ông thầy được làm quan trên thiên đ́nh cảm tấm ḷng
thành của ông, cho ông có dịp lên chơi thượng giới, biết trước được sự
thành đạt của ḿnh.
Hồng Hà Phu Nhân Đoàn Thị Điểm mở đầu truyên Vân Cát Thần Nữ, cũng dùng
h́nh ảnh Lê Thái Công, vốn chăm làm việc thiện, thân ra tận cổng đón người
đạo sĩ tới xin chữa bệnh cho Thái Bà, mà cũng đưọc mời lên trời chứng kiến
cảnh Qùynh Nương Công Chúa bị giáng xuống trần đầu thai làm con gái ông.
Theo Dương Quảng Hàm thời Hồng Hà Nử Sĩ tức Đoàn Thị Điểm, là người cùng
thời với Nguyễn Dữ. Bà có viết Tục Truyền Kỳ Mạn Lục, gồm sáu truyện tiếp
theo tập truyện của Nguyễn Dữ[5] . Thế nên cách vào truyện của Nguyễn Dữ
và Đoàn Thị Điểm có những nét tương đồng, phải chăng là một cách vào
truyện đưọc ḷng độc giả thời đó ? Điểm đáng nói là Nguyễn Dữ đă dùng để
vào truyện bằng chữ nho cũng là cách vào truyện mà những người viết truyện
nôm cũng dùng: như vậy bút pháp của những nhà văn viết chữ nho và bút pháp
những nhà văn chữ nôm cũng là một.
Truyện Phạm Tử Hư Lên Chơi Thiên Tào là Truyện chở đạo, ca tụng t́nh thầy
tṛ thắm thiết của đạo Nho. Trái lại, nhiều truyện dân gian t́nh thầy tṛ
không khắng khít như vậy và có nhiều truyện thầy không ra thầy.
Tỷ như truyện:
Tam
Đại Nhà Con Gà
Xưa có anh học tṛ học hành dốt nát, nhưng cái tṛ đời “xấu hay làm tốt,
dốt hay nói chữ”, đi đâu anh ta cũng khoe khoang lên mặt chữ nghĩa tài
giỏi lắm.
Có người tưởng anh hay chữ thật, đón về nhà để dạy trẻ.
Một hôm dạy thằng con chủ nhà học sách Tam Thiên Tự, sau chữ tước là con
chim sẻ, đến chữ kê là con gà, thầy ta gặp chữ kê nhiều nét
雞
ngắc lại không biết đọc ra chữ ǵ và nghĩa ra sao cũng chẳng hay.
Trẻ hỏi gấp. Thầy cuống quít dạy nó học liều: “dủ dỉ là con dù d́”. Nhưng
thầy đă khôn, sợ có ai nghe thấy, bảo trẻ học sẽ sẽ tiếng thôi. Tuy vậy
trong ḷng thầy vẫn thắc thỏm.
Tối hôm ấy, nhân chủ nhà có bàn thờ Thổ Công, thầy đến khấn thầm xin ba
đài âm dương để quyết xem hai chữ ấy có thật là dù d́ chăng.
Thổ Công cho ba bài được cả ba.
Thấy vậy, thầy lấy làm đắc sách, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường cao, bảo
trẻ lớn tiếng học.
Được thể, trẻ nó gào lên thật to rằng:
Dủ dỉ là con dù d́. Dủ dỉ là con dù d́.
Bố nó đang cuốc đất ngoài vườn, nghe thấy tiếng con học lạ, bỏ cuốc vào
xem sách, rồi hỏi thầy rằng:
Chết chửa, chử ấy là chử kê nghĩa là con gà, sao thầy dạy cho cháu học dủ
dỉ là con dù d́?
Bấy giờ thây mới nghĩ thầm: “Ḿnh đă dốt, Thổ Công nhà nó cũng dốt nữa”.
Rồi nhanh trí thầy vội nói gỡ rằng:
Ông tưỏng tôi không biếtchữ ấy là chữ kê nghĩa là con gà sao? Nhưng tôi
dạy cháu thế là dạy cho nó biết tam đại nhà con gà kia đấy.
Nhà chủ ngạc nhiên hỏi:
Thầy bảo tam đại con gà là thế nạ? Ông bà ǵ vậy?
Thầy cắt nghĩa rằng:
Này thế này nhớ:
Dủ dỉ là chị con công
Con công là ông con gà
Thế chẳng phẳi là tôi dạy nó đến ba đời con gà là ǵ?
Nhà chủ không biết nói sao, vẫn đành phải chịu thầy là hay chữ. Và tự bấy
giờ, con công và con gà thành có họ với nhau: công là ông mà gà là cháu.
Truyện thứ hai là truyện:
Thầy Đồ Ăn Bánh Rán
Xưa có một thầy đồ ngồi dạy học nhà người ta, một hôm trông thấy hàng bánh
rán mật đi qua, lấy làm thèm, nhưng không dám nói.
Thầy nghĩ măi không biết làm sao có bánh rán ăn.
Một buổi kia, chủ nhà vùa đi khỏi, thầy mới lấy ớt giă nhỏ, bỏ vào trong
nước, rồi bảo tên học tṛ nhỏ của thầy lấy nước ấy mà tắm. Tên học tṛ
ngoan goăn, vâng lời thầy đi tắm ngay. Được một chốc, người nó phát nóng
và lần mần đỏ khắp ḿnh mẩy.
Khi cha mẹ về thấy con thế lấy làm lo sợ hỏi thầy đồ rằng:
Không biết cháu nó làm sao mà người nó như sốt và đỏ mần lên cả thế?
Thầy đồ làm bộ ngơ ngác bảo gọi đứa nhỏ vào xem như thầy lang xem bệnh,
rồi bảo rằng:
Không việc ǵ, thằng này mắc cái bệnh Thần Ḥn làm quái đây. Bây giờ phải
đi mua lấy bẩy đĩa bánh rán mật, để tối nay cúng tống thần cho nó, th́ nó
khỏi ngay.
Nhà chủ vâng theo lời thầy, vội vàng ra chợ mua đủ bẩy đĩa bánh rán, lại
kèm thêm cả trầu cau hương hoa đem về, đặt vào mâm tươm tất rồi nhờ thầy
cúng hộ.
Thầy đồ khăn áo chỉnh tề, làm bộ nghiêm trang ra đứng trước bàn thờ đặt
giữa sân, lên giọng khấn rằng:
Thần ḥn! Thần ḥn!
Cái ḿnh tṛn tṛn
Cái da đo đỏ
Làm thằng nho nhỏ
Nóng đêm nóng ngày
Tao nuốt mày đi
Mau đi! Mau đi!
Thần Ḥn Thần Ḥn.
Khấn xong cây ấy, thầy lấy đũa, thầy sắn ngay đĩa bánh, rồi bỏ vào mồm
thầy nuốt ực.
Nuốt hềt đĩa ấy, thầy lại khấn, khấn xong lại nuốt, khấn bẩy lần nuốt hết
bẩy đĩa bánh.
Đoạn rồi thầy bảo đem đứa nhỏ ra sau nhà, thầy lấy nưóc lạnh tắm cho nó.
Chỉ một chốc đứa nhỏ khỏi sốt, khỏi mần.
Nhà chủ khen thầy có phép tài, mà thầy được bữa bánh rán thỏa thích cái
miệng thầy.
Hai truyện dân gian trên cho thấy h́nh ảnh người thầy, học hành dốt nát,
tính nết nhỏ nhen chỉ t́m cách trục lợi chủ nhà, đă hạ bệ ông thầy trong
lễ giáo của đạo Khổng vốn đặt ông thầy đứng liền sau vua trước bố.
Phải chăng đó cũng là phản ứng thụ động và tự nhiên của dân gian dưới sức
ép của đạo Khổng đặt lên hàng quốc Giáo? Phải chăng đó là một sản phẩm hậu
bắc thuộc?
Trở lại việc dùng bút thuật Hán Học trong sáng tác nhân gian, các tác giả
truyện nhân gian đă thường chuyển biến bút thuận Hán Học đến mức gạn bỏ
được mầu sắc Trung Quốc khiến tác phẩm thắm đượm mầu sắc Việt Nam. Đó là
trường hợp tác giả khuyết danh sáng tác truyện Trạng Quỳnh.
Tác giả Truyện Trạng Quỳnh là ai, vai chính Trạng Quỳnh là một nhân vật hư
cấu hay có thực là một điểm để ngỏ chờ giói văn bản học giải quyết. Có một
điểm chắc chắn là truyện Trạng Quỳnh là một tập tuyển truyện khôi hài đen.
Theo nhiều chi tiết trong nội dung, có thể là truyện Trạng Quỳnh xuất hiện
vào khoảng đời nhà Lê Trung Hưng.
Dưới triều nhà Tống, ba anh em họ Tô: Tô Thức tức Tô Đông Pha, Tô Triệt và
người em gái Tô Tiểu Muội là ba văn tài nổi tiếng. Riêng trong bát đại gia
tức là tám văn hào lớn nhất Trung Quốc, Tô Thức, Tô Triệt và cha là Tô
Tuân đă chiếm ba chỗ.
Sách Trung Hoa Kim Cổ Kỳ Nhân của Phan Hồng Trung, chép nhiều giai thoại
giữa Tô Thức và Tô Tiểu Muội. Đặc biệt là đoạn chép truyện đối đáp giữa Tô
Thức và em gái.
Tô Thúc râu rậm, Tiểu Muội nhạo bằng hai câu:ay tiên vỡ tan trên thềm.
Quần thần đều hướng mắt về tiên cô áo hồng. Từ mé trái sân rồng tiến ra
một vị đâi thần, qùy xuống trước ngai rồng, lên tiếng đọc mười hai chữ
trong một cuốn sách vàng. Không khí sân rồng căng thẳng sợ hăi. Rồi từ
trên điện có lời phán:
Ngươi thực không muốn ở chốn thương giới đây nữa.
tức thời c̣ hai hộ sĩ cùng một bày tiên quây quanh tiên cô áo hồng, dẫn
nàng ra khơi sân rồng bằng lối cửa Bắc. Đi đầu đám quần tiên là một tiên
cô vác bảng viết chũ thiếp vàng, nhưng từ xa Lê Thái Công chỉ đọc đuợc chữ
sắc giáng. Ông hỏi nhỏ người dẫn đường truyện ǵ vậy? Họ tră lời ông là
Quỳnh Nương công chúa, lỡ đánh vỡ chén ngọc nên bị đầy xuống hạ giới. Liền
đó có một vị thần bưóc ra khỏi điện, lớn tiếng nạt:
Các người là ai? Sao giám đến đây xầm x́?
Ba người thưa:
Chúng con là bọn ngũ lôi thần binh đang đợi lệng ngọc hoàng.
Nói đọan họ kéo Lê Thái Công bay về hạ giới. Lê Thái Công bừng tỉnh, ḷng
mừng khấp khời v́ Thái Bà đă khỏi bệnh. Khắp nhàngào ngạt hương thơm và
lồng lộng ánh sáng như trê thượng giới. Ngựi nhà báo tin Thái Bà hạ sinh
con gái. Lê Thái Công sai t́m ngựi khách lạ, nhưng khác đạ biệt tăm cùng
chiếc búa ngọc. Nhớ lại cảnh chính mắt nh́n thấy trên thượng giới. Lê Thái
Công tin chắc là công chúa Qùnh Nưong vừa giáng lâm vào nhà ông. Ông Đặt
tên con là giáng Tiên. [...]
Đối chiếu đọan mở đầu truyện Phạm Tữ Hư Lên Chơi Thiên Tào với đọan mở đầu
sự tích Vân Cát Thần Nữ, người đọc thấy rơ sự tương đồng ǵũa cách vào
Truyện của Nguyễn Dữ và cách vào truyện của Hồng Hà Phu Nhân Đoàn Thị
Điểm, tác giả Vân Cát Thần Nữ.
Truyện truyền kỳ của Nguyễn Dữ, viết bằng chữ nho theo bố cục một truyện
Trung Quốc, nhắm chở đạo, vai chánh là Phạm Tử Hư là một môn đệ nho học
chính thống, sống theo đúng đạo thầy học trọng hơn cha, dập theo thứ tự
Quân Sư Phụ của Khổng Học, dựng lều bên mộ thầy, để tang thầy đủ ba năm.
Ông c̣n quư trọng chữ nghĩa thánh hiền, nhặt từng mẩu giấy có viết chữ
mang đốt. Thế nên ông thầy được làm quan trên thiên đ́nh cảm tấm ḷng
thành của ông, cho ông có dịp lên chơi thượng giới, biết trước được sự
thành đạt của ḿnh.
Hồng Hà Phu Nhân Đoàn Thị Điểm mở đầu truyên Vân Cát Thần Nữ, cũng dùng
h́nh ảnh Lê Thái Công, vốn chăm làm việc thiện, thân ra tận cổng đón người
đạo sĩ tới xin chữa bệnh cho Thái Bà, mà cũng đưọc mời lên trời chứng kiến
cảnh Qùynh Nương Công Chúa bị giáng xuống trần đầu thai làm con gái ông.
Theo Dương Quảng Hàm thời Hồng Hà Nử Sĩ tức Đoàn Thị Điểm, là người cùng
thời với Nguyễn Dữ. Bà có viết Tục Truyền Kỳ Mạn Lục, gồm sáu truyện tiếp
theo tập truyện của Nguyễn Dữ . Thế nên cách vào truyện của Nguyễn Dữ và
Đoàn Thị Điểm có những nét tương đồng, phải chăng là một cách vào truyện
đưọc ḷng độc giả thời đó ? Điểm đáng nói là Nguyễn Dữ đă dùng để vào
truyện bằng chữ nho cũng là cách vào truyện mà những người viết truyện nôm
cũng dùng: như vậy bút pháp của những nhà văn viết chữ nho và bút pháp
những nhà văn chữ nôm cũng là một.
Truyện Phạm Tử Hư Lên Chơi Thiên Tào là Truyện chở đạo, ca tụng t́nh thầy
tṛ thắm thiết của đạo Nho. Trái lại, nhiều truyện dân gian t́nh thầy tṛ
không khắng khít như vậy và có nhiều truyện thầy không ra thầy.
Tỷ như truyện:
Tam
Đại Nhà Con Gà[6]
Xưa có anh học tṛ học hành dốt nát, nhưng cái tṛ đời “xấu hay làm tốt,
dốt hay nói chữ”, đi đâu anh ta cũng khoe khoang lên mặt chữ nghĩa tài
giỏi lắm.
Có người tưởng anh hay chữ thật, đón về nhà để dạy trẻ.
Một hôm dạy thằng con chủ nhà học sách Tam Thiên Tự, sau chữ tước là con
chim sẻ, đến chữ kê là con gà, thầy ta gặp chữ kê nhiều nét
雞
ngắc lại không biết đọc ra chữ ǵ và nghĩa ra sao cũng chẳng hay.
Trẻ hỏi gấp. Thầy cuống quít dạy nó học liều: “dủ dỉ là con dù d́”. Nhưng
thầy đă khôn, sợ có ai nghe thấy, bảo trẻ học sẽ sẽ tiếng thôi. Tuy vậy
trong ḷng thầy vẫn thắc thỏm.
Tối hôm ấy, nhân chủ nhà có bàn thờ Thổ Công, thầy đến khấn thầm xin ba
đài âm dương để quyết xem hai chữ ấy có thật là dù d́ chăng.
Thổ Công cho ba bài được cả ba.
Thấy vậy, thầy lấy làm đắc sách, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường cao, bảo
trẻ lớn tiếng học.
Được thể, trẻ nó gào lên thật to rằng:
Dủ dỉ là con dù d́. Dủ dỉ là con dù d́.
Bố nó đang cuốc đất ngoài vườn, nghe thấy tiếng con học lạ, bỏ cuốc vào
xem sách, rồi hỏi thầy rằng:
Chết chửa, chử ấy là chử kê nghĩa là con gà, sao thầy dạy cho cháu học dủ
dỉ là con dù d́?
Bấy giờ thây mới nghĩ thầm: “Ḿnh đă dốt, Thổ Công nhà nó cũng dốt nữa”.
Rồi nhanh trí thầy vội nói gỡ rằng:
Ông tưỏng tôi không biếtchữ ấy là chữ kê nghĩa là con gà sao? Nhưng tôi
dạy cháu thế là dạy cho nó biết tam đại nhà con gà kia đấy.
Nhà chủ ngạc nhiên hỏi:
Thầy bảo tam đại con gà là thế nạ? Ông bà ǵ vậy?
Thầy cắt nghĩa rằng:
Này thế này nhớ:
Dủ dỉ
là chị con công
Con công là ông con gà
Thế
chẳng phẳi là tôi dạy nó đến ba đời con gà là ǵ?
Nhà chủ không biết nói sao, vẫn đành phải chịu thầy là hay chữ. Và tự bấy
giờ, con công và con gà thành có họ với nhau: công là ông mà gà là cháu.
Truyện
thứ hai là truyện:
Thầy Đồ
Ăn Bánh Rán[7]
Xưa có
một thầy đồ ngồi dạy học nhà người ta, một hôm trông thấy hàng bánh rán
mật đi qua, lấy làm thèm, nhưng không dám nói.
Thầy nghĩ măi không biết làm sao có bánh rán ăn.
Một buổi kia, chủ nhà vùa đi khỏi, thầy mới lấy ớt giă nhỏ, bỏ vào trong
nước, rồi bảo tên học tṛ nhỏ của thầy lấy nước ấy mà tắm. Tên học tṛ
ngoan goăn, vâng lời thầy đi tắm ngay. Được một chốc, người nó phát nóng
và lần mần đỏ khắp ḿnh mẩy.
Khi cha mẹ về thấy con thế lấy làm lo sợ hỏi thầy đồ rằng:
Không biết cháu nó làm sao mà người nó như sốt và đỏ mần lên cả thế?
Thầy đồ làm bộ ngơ ngác bảo gọi đứa nhỏ vào xem như thầy lang xem bệnh,
rồi bảo rằng:
Không việc ǵ, thằng này mắc cái bệnh Thần Ḥn làm quái đây. Bây giờ phải
đi mua lấy bẩy đĩa bánh rán mật, để tối nay cúng tống thần cho nó, th́ nó
khỏi ngay.
Nhà chủ vâng theo lời thầy, vội vàng ra chợ mua đủ bẩy đĩa bánh rán, lại
kèm thêm cả trầu cau hương hoa đem về, đặt vào mâm tươm tất rồi nhờ thầy
cúng hộ.
Thầy đồ khăn áo chỉnh tề, làm bộ nghiêm trang ra đứng trước bàn thờ đặt
giữa sân, lên giọng khấn rằng:
Thần ḥn! Thần ḥn![8]
Cái ḿnh tṛn tṛn
Cái da đo đỏ
Làm thằng nho nhỏ
Nóng đêm nóng ngày
Tao nuốt mày đi
Mau đi! Mau đi!
Thần Ḥn Thần Ḥn.
Khấn xong cây ấy, thầy lấy đũa, thầy sắn ngay đĩa bánh, rồi bỏ vào mồm
thầy nuốt ực.
Nuốt hềt đĩa ấy, thầy lại khấn, khấn xong lại nuốt, khấn bẩy lần nuốt hết
bẩy đĩa bánh.
Đoạn rồi thầy bảo đem đứa nhỏ ra sau nhà, thầy lấy nưóc lạnh tắm cho nó.
Chỉ một chốc đứa nhỏ khỏi sốt, khỏi mần.
Nhà chủ khen thầy có phép tài, mà thầy được bữa bánh rán thỏa thích cái
miệng thầy.
Hai truyện dân gian trên cho thấy h́nh ảnh người thầy, học hành dốt nát,
tính nết nhỏ nhen chỉ t́m cách trục lợi chủ nhà, đă hạ bệ ông thầy trong
lễ giáo của đạo Khổng vốn đặt ông thầy đứng liền sau vua trước bố.
Phải chăng đó cũng là phản ứng thụ động và tự nhiên của dân gian dưới sức
ép của đạo Khổng đặt lên hàng quốc Giáo? Phải chăng đó là một sản phẩm hậu
bắc thuộc?
Trở lại việc dùng bút thuật Hán Học trong sáng tác nhân gian, các tác giả
truyện nhân gian đă thường chuyển biến bút thuận Hán Học đến mức gạn bỏ
được mầu sắc Trung Quốc khiến tác phẩm thắm đượm mầu sắc Việt Nam. Đó là
trường hợp tác giả khuyết danh sáng tác truyện Trạng Quỳnh.
Tác giả Truyện Trạng Quỳnh là ai, vai chính Trạng Quỳnh là một nhân vật hư
cấu hay có thực là một điểm để ngỏ chờ giói văn bản học giải quyết. Có một
điểm chắc chắn là truyện Trạng Quỳnh là một tập tuyển truyện khôi hài đen.
Theo nhiều chi tiết trong nội dung, có thể là truyện Trạng Quỳnh xuất hiện
vào khoảng đời nhà Lê Trung Hưng.
Dưới triều nhà Tống, ba anh em họ Tô: Tô Thức tức Tô Đông Pha, Tô Triệt và
người em gái Tô Tiểu Muội là ba văn tài nổi tiếng. Riêng trong bát đại gia
tức là tám văn hào lớn nhất Trung Quốc, Tô Thức, Tô Triệt và cha là Tô
Tuân đă chiếm ba chỗ.
Sách Trung Hoa Kim Cổ Kỳ Nhân của Phan Hồng Trung, chép nhiều giai thoại
giữa Tô Thức và Tô Tiểu Muội. Đặc biệt là đoạn chép truyện đối đáp giữa Tô
Thức và em gái.
Tô Thúc râu rậm, Tiểu Muội nhạo bằng hai câu:
口
角
幾
回
無
覓
處
Khẩu đốc kỷ hồi vô mịch xứ
忽
聞
毛
理
有
聲
傳
Hốt văn mao lư hữu thanh truyền
nghĩa
là:
Mồm
miệng bấu lâu đâu chẳng thấy
Thấy râu động đậy tiếng nghe truyền.
Tô Thức đáp lại nhạo cái trán dô của em gái:
未
出
庭
中
三
五
步
Vị xuất đ́nh trung tam ngũ bộ
額
頭
先
到
畫
堂
前
Ngạch đầu tiên đáo họa đường tiền
nghĩa
là:
Chưa ra
khỏi sân năm ba bước
Trán đà đi trưóc tới họa đường.
Tiếp
theo là đoạn kể lại đêm tân hôn của Tô Tiểu muội cùng tân lang là Thiếu
Du. Truyện rằng:
Đêm tân hôn, Tiểu Muội ra một vế câu đối, thách Thiếu Du đối được th́ mới
cho mở cửa đón vào uống rượu hợp cẩn, bằng không th́ tân lang cứ ở ngoài
sân. Vế câu đối như sau:
閉
門
推
出
窗
前
月
Bế môn suy xuất song tiền nguyệt
nghĩa là:
Đóng
cửa đưổi trăng ra trước song
Thiếu Du nghĩ măi không ra vế đối, đi ngang đi dọc bên bờ hồ. Tô Đông Pha
muốn giúp nhưng không muốn ra mặt, ông kiếm một viên sỏi ném thẳng xuống
mặt hồ, làm cho mặt nước đang như mặt gương sáng bỗng vỡ ra trăm mảnh,
khiến Thiếu Du t́m ra câu đáp quay lại án thư viết :
投
石
衝
開
惺
底
天
Đầu thạch xung khai tỉnh để thiên
nghĩa
là:
Ném đá
phá trời loang đáy nước.
đễ thị tỳ đệ tŕnh Tô tiểu thư.
Câu đáp
này đẹp ḷng Tô Tiểu Muội, nàng sai thị tỳ mỡ cửa đón Thiếu Du vào động
đào.
Tác giả Truyện Trạng Quỳnh chuyển biến giai thoại trên đây giữa anh em Tô
Thức và Tô Tiểu Muội thành truyện tranh tải giữa Thị Điệm và Trạng Quỳnh
Truyện so tài đó tóm tắt theo truyện do Vũ Ngọc Khánh[9] chép trong cuốn
Kho Tàng Các Ông Trạng Việt Nam như sau:
[...] Quan Bảng, [thầy học của Quỳnh] nuôi cho quỳnh ăn học là có ư muốn
gây dựng cho Quỳnh rồi để gả con gái cho chàng. Nhưng Thị Điểm th́ c̣n
muốn thử tài Quỳnh cao thấp ra sao. Quỳnh hiểu ư nên cũng thích đem văn
thơ chữ nghĩa ra trổ tài với Thị Điểm. Một hôm Điểm đi chợ, Quỳnh gửi ba
mươi đồng tiền kẽm với một mảnh dấy đề bốn chữ “chiến chiến căng căng”{
nhờ thị điệm mua hộ. Thi điểm mua về cho Quỳnh năm nắm cơm nếp. Quỳnh phải
phục tài. Thật ra Quỳnh lấn bốn chữ chiến chiến căng căng này từ Kinh Thi,
và thường được giảng nôm là nam năm nớp nớp. Thị Điểm đón đưọc ư Quỳnh,
đọc trạnh thành năm nắm cơm nếp, và nàng mua năm nắm cơm nếp cho Quỳnh.
Một buổi chợ khác, Quỳnh lại gửi mười đồng kẽm, kèm mảnh giấy viết hai chữ
đà cuống, dịch nôn là cà cuống, ư muốn nhờ Thị điểm mua hộ cà cuống. Thị
Điểm hiểu ư nhưng cố t́nh trêu Quỳnh, mua cuống cà về cho Quỳnh. Quỳnh bắt
đền. Thị Điển căi: “th́ cà cuống nói lái chẳng thành cuống cà là gỉ” .
Quỳnh đành chịu thua.
Một hôm Thị Điểm ngồi khâu bên cửa sổ, Quỳnh đến cửa sổ đối diện nh́n
sang. Thị
Điểm
bực ḿnh ra vế câu đối nôm:
Hai người ngồi hai cửa sổ song song.
Điểm
khó khăn ở đây là chữ cửa sổ dịch nôm chữ song, khiến Quỳnh, và cả bao
nhiêu người sau chưa ai đối nổi. Một lần nữa Quỳnh chịu thua, đành phải bỏ
đi.
Một hôm khác, Quỳnh đi phố Mía, Sơn Tay về, gặp Thị Diểm, nàng ra vế câu
đối:
Lên phố
mía, gặp cô hàng mật,
cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường.
Cái khó
của câu này là cả bốn chữ : mía mật kẹo đường đều là của ngọt.
Quỳnh chưa kịp dối th́ Thị Điểm ra luôn hai câu thứ nữa:
Trời
mưa đất thịt trơn như mỡ
ḍ đến hàng nem chả muốn ăn.
bốn chữ
thịt mỡ nem chả là nhưng thức ăn làm bằng thịt, và tiếp theo là câu:
Bà đồ
Nứa đi vơng đ̣n tre
đến khóm trúc thở dài hi hóp
ba chữ
Nứa, tre và trúc là ba loại cây cùng loại.
Quỳnh không đối lại nổi một câu.
Một buỏi khác, Quỳnh đi dạo về, bị chó sổ ra sủa. hoảng sợ Qùnh leo lên
cây. Thị Điểm chạy ra thấy vậy bảo rằnh: “nếu đối được câu này th́ mới
đuổi chó cho mà xuống:
Thàng
Quỳnh ngồi trên cây cậy
dái đỏ hồng hồng
Qùynh
chịu không sao đối được, đành ngồi trên cây đến lúc con chó bỏ đi mới dám
xuống.
Một buổi khác, Thị Điểm tắm, Quỳnh lần khân đ̣i vào xem. Điểm tức quá đọc
một câu thách đố được th́ cho vào:
Da
trắng vỗ b́ bạch.
Quỳnh chịu không đối nổi.
Một tối kia, Quỳnh liều lĩnh lẻn vào giường Thị Điểm nằm. Thị Điểm vào màn
tối ṃ, qườ quạng chạm phải dái của Quỳnh. Chữa thẹn Thị Điểm liền đọc vế
câu đối chữ nho:
Trướng
nội vô phong phàm tự lập
nghĩa
là:
Trong
màn không gió sao buồm tự dựng
Lần này Quỳnh đối lại là:
Hưng
trung bất vũ thủy trường lưu
nghĩa là:
Trong
bụng không mưa mà nước cứ tuôn.
Thị Điểm đọc tiếp câu đối nôm:
Cây xương rồng trồng đất rắn
long vẫn hoàn long.
Quỳnh
cũng lại dối lại là:
Quả dưa
chuột ruột thẳng gang
thử chơi th́ thử.
[...]
Sau đó ít ngày Quỳnh thưa lên quan Bảng xin thôi học.
Đối chiếu truyện Trạng Quỳnh so tài cùng Thị Điểm với truyện anh em Tô
Thức đối đáp, người đọc thấy trên cấu trúc hai truyện giống hệt nhau: cả
hai truyện như tóm tắt trên đây đều là truyện tranh tài đối đáp bằng câu
đối giữa một cặp anh trai em gái. Tuy nhiên, nếu tác giả truyện Trạng
Quỳnh dựng truyện theo cấu trúc của truyện Trung Quốc, chi tiết trong câu
truyện nôm hoàn toàn là một sáng tác thuần túy Việt Nam. Khác với truyện
Trung Quốc, Tô Thức giữ vai chủ động, luôn luôn thắng thế, mặc dầu truyện
lấy tên Tô Tiểu Muôi làm đầu đề; trong truyện nôm tuy lấy tên Trạng Quỳnh
làm đầu đề, nhưng vai chủ động là Thị Điểm, và phần thắng luôn luôn về Thị
Điểm..
Tuy cùng là tranh tài đối đáp trong việc làm câu đối, trong truyện Tô Thức
cuộc tranh tài giới hạn t́nh anh em ruột thịt. Trong truyện nôm, cuộc
tranh tài như đễ t́m hiểu người bạn trăm năm. Điều thích thú cho người đọc
truyện Nôm là những đôi câu đối phơi bày nhưng tṛ chơi chữ hiểm hóc trong
tiếng Việt Nam, một âm có nhiều nghĩa, khiến đối thủ không c̣n đường đối
lại. Khó nhất là vế năm chữ:
Da trắng vỗ b́ bạch
hai chữ cuối là chữ nho cùng nghĩa với hai chữ đầu, đồng thời lại là tiếng
tượng thanh đi sau chữ vỗ. Đă rất nhiều người cố đối, nhưng tới nay chưa
có ai đối được cho chỉnh.
Người đọc thấy rơ là đoạn Truyện Trạng Quỳnh so tài cùng Thị Điểm là một
đọa dàn dựng theo Truyện Tô tiểu Muội. Nhưng nội dung truyện đă bị cải
biến, gột bỏ mầu sắc Trung Quốc, đồng thời tô đậm mầu sắc Việt Nam. Tác
giả dùng một bút pháp làm nổi rơ những đặc tính của ngôn ngữ Việt Nam bên
cạnh ngôn ngữ Trung Quốc.
Trở lại truyện Phạm Tử Hư Lên Thăm Thiên Tào, người đọc ghi nhận một chi
tiết Nguyễn Dữ đă dùng để mô tả ḷng chuộng đạo Khổng của Dương Trạm. Đó
là Phạm Tử Hư “quư trọng những tờ giấy có chữ, hễ thấy rơi văi liền nhặt
mà đốt.”[10] Nh́n sang những Truyện Cổ Nước Nam, ḷng tôn quư chữ nghĩa
thánh hiền như vậy không phải là một h́nh ảnh thông thường để mô tả vai
chính trong truyện. Trái lại, nhiều truyện đă dựng trên sự kiện chữ nho
đọc theo âm Việt Nam nghe lạ tai cho chính người Việt Nam và v́ vậy có khả
năng khôi hài để làm bút thuật khôi hài.
Đó là bút thuật của truyện kế tiếp:<br.
Khướu Dạy Học [11]
Xưa có một con khướu nổi danh là biết đủ các thứ tiếng.
Khướu mở trường dạy học nói.
Giống chim chóc theo nhau đến học đông lắm. Nhưng kể bậc giỏi hơn cả th́
chỉ có ba anh là anh chim ri, ang dù d́ và anh cả ngỗng mà thôi.
Đến kỳ Trời mở khoa thi, bao nhiêu học tṛ của khướu đều đua nhau đi cả.
Buổi thi xong về, tiên sinh khướu hỏi đồ đệ rằng:
Bài chi? bài chi?
Dù d́ thưa rằng:
如
何
斯可
謂
之
士
矣
Như hà tư khả vị chi sĩ hỹ
nghĩa là như thế nào th́ gọi được là kẻ sĩ vậy.
Khướu lại hỏi:
Vô
冊
之, vô冊
之
Vô sách chi? vô sách chi?
nghĩa là:
vào sách nào?
Ngỗng thưa rằng:
Dă dă! Vô
幼
學! Vô
幼
學!
Dă dă! Vô Ấu Học! Vô Ấu Học
Chim ri nghe ngỗn nói mắng rằng:
知
之
為
知
之 !
不
知
為
不
知
Tri chi vi tri chi! Bất tri vi bất tri
nghĩa là:
Biết đấy th́ biết đấy!
Không biết th́ rằng không biết!
Đă không biết chi nói làm ǵ?
Khướu khen rằng:
奇
句!
奇
句!
奇
句 !
Kỳ cú! Kỳ cú! Kỳ cú!
Ngỗng căi lại chim ri:
A A!
無
知
也
我
不
知
也
A A! Vô tri dă, ngă bất tri dă.
nghĩa là:
Không biết vậy, ta không biết vậy.
Khướu vẫn c̣n tiếp tục khen chim ri:
奇
句!
奇
句!
Kỳ cú! Kỳ Cú!
Đến khi có tin về báo đă yết bảng, khướu sai ngỗng đi xem đỗ
được mấy tên. Ngỗng đi xem về thưa rằng:
Đỗ cả! Đỗ cả!
Khưóu bảo:
Xem cho
周
至!
周
至 [12]
Xem cho chu chí! chu chí
Ngỗng thưa:
Đă! Đă!
Khướu mừng lắm bảo rằng:
歡
輝!
歡
輝!
歡
輝!
Hoan huy! Hoan huy! Hoan huy!
nghĩa là:
Vui vẻ! Vui vẻ! Vui vẻ!
Truyên cổ trên đây là một truyện khôi hài, đặt trong khung cảnh một trường
nho học. Cả thầy lẫn tṛ đều là chim. Lời đối đáp giữa thầy tṛ bè bạn là
lời viết bằng chữ nho nhưng đọc theo âm Việt Nam, nghe ríu rít như tiếng
chim. Không ai là không cảm thấy ư ngựi viết dùng chữ nghĩa thánh hiền
nhại lời chim gà ngỗng để mua vui trọc cười.
Theo giới phê b́nh văn học [13] , thể văn này mang tên là macaronique, của
người Ư thường làm thơ khôi hài chen thêm tiếng la tinh, tiêu biểu là tác
phẩm Baldus của Teofilo Folengo, xuất bản vào năm 1517.
Đối chiếu h́nh ảnh Dương Trạm nhặt từng mẩu giấy có chữ thánh hiền đem đi
đốt, để tỏ ḷng tôn trọng chữ nghĩa Khổng học, với lời văn truyện Khướu
Dạy Học, lấy chữ nghĩa thánh hiền đọc nhại lời chim để mua vui trọc cười,
vậy mà truyện c̣n truyền tục tới nay, người đọc thấy rơ là đại chúng không
phải ai ai sùng kính đạo Khổng như thầy tṛ Phạm Tử Hư.
Nh́n chung cả ba truyện Tam Đại Nhà Con Gà, Thầy Đồ Ăn Bánh Rán và Khướu
Dạy Học, người đọc thấy cả ba truyện cùng lấy khung cảnh là việc học hành,
với vai chính là một ông đồ. Vai Ông Đồ trong truyện Tam Đại Nhà con Gà là
một ông thầy chữ nghĩa c̣n kém cỏi mà lại hay phô trương. Đặt cái kém cỏi
dốt nát cạnh cái nết phô trương hư danh là một đề tài trọc cười thông
dụng.
Truyện Thầy Đồ Ăn Bánh Rán là một truyện trọc cựi dưới một h́nh thức khá
xa lạ. H́nh thức này là h́nh thức trọc cười trong tập truyện cười với hai
vai chính là Ba Giai và Tú Xuất. Hành động của ông đồ trong Truyện Thầy Đồ
Ăn Bánh Rán là một hành động có thể gọi là bất lương: thầy pha ớt vào nước
tắm khiến học tṛ nhỏ cũa thầy nổi mẩn khắp người, là cha mẹ nó lo sợ; rồi
thầy nhân đó bầy ra lễ trừ ma trừ tà bắt cha mẹ tṛ đi mua bẩy đĩa bánh
rán về cúng lễ, nhân đó thầy có một bữa bánh rán no nê, rồi thầy lại mang
tṛ ra tắm nước mát khỏi bệnh do chính tay thầy gây ra.
Người đọc truyện Thầy Đồ Ăn Bánh Rán không khỏi liên tưởng tới truyện dưới
đây trong tập truyện Ba Giai Tú Xuất:
Mèo Biết Nói
Một lần nọ, Ba Giai nằm mơ thấy cháy nhà, liền bảo Tú Xuất
rằng:
Này bác ạ, đêm qua tôi nằm mơ thấy lửa, hẳn là có tài đây. Ta thử vào Hà
Đông làm canh sóc đĩa, may ra phất to th́ tha hồ có tiền chè chén.
Thế rồi bọn Ba Giai Tú Xuất, chừng năm sáu người kéo nhau vào Hà Đông đánh
bạc. Ngỡ là hốt được của thiên hạ, phen này sẽ bốc to, ngờ đâu mấy chàng
thua nhẵn củ kiệu, phải một phen nhịn đói giắt nhau cuốc bộ về Hà Nội.
Tới Cầu Giấy, các cậu đói mềm, lại thấy hai bên hàng quán tấp nập, hàng
phở, hàng cơm, thịt chó treo lủng lẳng, các cậu thèm rỏ răi, sờ túi chẳng
c̣n lấy một xu nhỏ. Ba Giai bảo Tú Xuất:
Cơm rượu ngon lành thế kia mà chúng ta chịu nuốt nước bọt th́ uổng thật.
Từ xưa đến nay, anh vẫn khéo là giỏi xoay xở, vậy đang lúc anh em đói mềm
thế này, anh hăy trổ tài đi cho anh em nhờ nào.
Tú Xuất đáp:
Th́ anh em hăy chầm chẫm một chút nào. Làm ǵ mà nóng thế!
Ba Giai nói tiếp:
Chẳng nóng th́ sao! Đói lả ra rồi c̣n ǵ. Anh có nhớ lúc ra về anh bảo là
đến Cầu Giấy th́ mời anh em đánh chén không? Giá anh nghe tôi giữ lấy vài
quan có phải bây giờ anh em không bị đói meo thế này không?
Tú Xuất thấy Ba Giai thúc tợn, nói:
Hăy thong thả một chút, để tôi đi xem qua một lượt các hàng đă.
Thế rồi, Tú Xuất để cả bọn đứng đó, một ḿnh đi khắp một lượt, hết hàng nọ
đến hàng kia. Hàng nào Tú Xuất cũng nh́n vào. Tới một hàng ở đầu giẫy, Tú
Xuất trông thấy cô hàng xinh xắn, má đỏ hây hây, bỗng dừng chân lại.
Trông thấy khách, cô hàng vội bỏ miếng trầu đang nhai, mời chào tíu tít:
Mời ngài vào sơi rượu đă. Hàng cháu sạch sẽ, ngon lành lắm. Ngài muốn dùng
ǵ cũng có ...
Được để tôi c̣n chờ mấy ông bạn đă.
Thế rồi Tú Xuất vẫy bọn Ba Giai, mời vào hàng. Tưởng là Tú Xuất nói đùa,
cả bọn ngơ ngác nh́n nhau, anh nọ đùn anh kia vào trước, rút cuộc chẳng có
anh nào dám vào.
Tú Xuất thấy vậy, thúc:
Ḱa vào đi các anh. Cứ để cô hàng phải mời măi. Ta vào cơm rượu đi, kẻo
tối ...
Nói xong, Tú Xuất dơng dạc bảo cô hàng:
Nào có rượu ngon, canh ngọt th́ dọn ra đây một mâm.
Thấy Tú Xuất gọi cơm rượu, cả bọn mới chắc dạ, bước vào hàng.
Cô hàng kéo ghế, dọn bàn, cười nói luôn miệng, Bộ răng cô đen nhánh như
hạt na, trông thật là duyên dáng.
Bẩm các ngài sơi ǵ ạ?
Chặt cho tôi một con gà luộc, vài khoanh gị lụa, hai khúc cá rán, và cho
tôi một chai rượu ngon ra đây.
Cô hàng lấy dao thớt, mang gà ra chặt. Môi người đều xanh cả mắt, nh́n
nhau không hiểu Tú Xuất trông vào đâu mà dám gọi hăng như thế. Có người
bụng bảo dạ có lẽ Tú Xuất c̣n găm ít tiền; nhưng có ngựi th́ lo ngay ngáy
v́ chỉ sợ ăn xong, anh em phải đánh bài tẩu mă, mà nó hô tuần đuổi bắt
được th́ cứ nhừ đ̣n.
Vài phút sau, cô hàng đă bê ra một mâm đầy thịt rượu đặt trước mặt khách.
Tú Xuất so đũa cho các bạn, nói:
Nào, bây giờ anh em ta chén đi nào. Cứ việc ăn uống cho no say, thiếu thức
ǵ các anh cứ việc gọi thêm, đừng ngại.
Nhà hàng có con mèo tam thể, thấy khách ăn uống, cứ lảng vảng chờ ăn. Tú
Xuất vừa uống rượu vừa vuốt ve con mèo, thỉnh thoảng lại gắp miếng cá rán
cho ăn. Con mèo thành quen, cứ sấn quanh bên cạnh Tú Xuất. Ư chừng đă no,
con mèo nằm queo ra làm một giấc ngủ ngon.
Cơm rượu xong, cô hàng đứng lên thu dọn mâm bát, lấy tăm nước cho khách.
Cả bọn lấm lét nh́n nhau, rồi trông trộm Tú Xuất xem chàng có hiệu lệnh ǵ
chăng. Tú Xuất th́ cứ thản nhiên, tṛ truyện cười nói, với cô hàng, không
tỏ vẻ ǵ băn khoăn lo ngại.
Bỗng, Tú Xuất ngồi xuống, chăm chú ngắm nghía con mèo một lúc, rồi làm bộ
ngạc nhiên đúng lên nói to lên rằng:
Ô! con mèo này mới quư hoá làm sao chứ! Cô hàng phúc đức lắm mới nuôi được
con mèo này.
Cô hàng bật cựi, trả lời:
Vâng, con mèo nhà cháu qúy hóa thật. Chỉ quư v́ một nết hay ăn vụng, rồi
lại hay bĩnh ra bếp. Chuột bọ thí làm loạn trong nhà mà mèo th́ cứ lành
như bụt.
Tú Xuất nghiêm giọng nói:
Ô hay! dễ cô cho tôi nói đùa sao? Cô không biết, chứ con tam thể này có
cái tướng kỳ dị lắm. Tiền vạn th́ kiếm dễ, chứ không dễ ǵ kiếm được con
mèo lạ như thế này.
Cô hàng vẫn cười, cho là khách trêu ghẹo ḿnh:
Thưa ông thế là thế nào?
Tú Xuất kéo xong một hơi thuốc lào, nói quả quyết.
Con mèo này chảng nhưng tinh khôn mà lại c̣n biết nói nữa.
Nói xong, Tú Xuất vứt mạnh chiếc xe điếu xuống bàn.
Cô hàng nghe nói cựi ngất nghẻo đáp:
Ông này nói kỳ quá! Đời thủa nào mà mèo lại biết nói!
Tú Xuất liền lại gần cô hàng nói:
Cô có đố tôi bảo nó nói cho cô nghe ngay bây giờ không?
Vâng, th́ ông bảo đi xem nào!
Tú Xuất hăm hở nói lớn:
Cô đánh cuộc với tôi cái ǵ nào, tôi lập tức bảo nó nói ngay cho mà xem.
Mấy người khách đang ngồi ăn ở bàn bên, thấy truyện nức cười như vậy cũng
bỏ cả đũa bát, đúng dậy xem. Cả những người bộ hành đang đi qua đó, thấy
trong nhà to tiếng, không hiểu đầu đuôi ra sao, cũng xúm lại xem đông đầy
cửa.
Tú Xuất lại nhắc lại, nói lớn:
Nào cô đánh cuộc với tôi cái ǵ nào? Một mâm rượu nhé!
Cô hàng cười toe toét, đáp:
Vâng, xin vâng. Nếu ông bảo nó nói được một tiếng, th́ nhà cháu xin mất
không bữa rượu, không lấy tiền của các ông nữa.
Cô nói thật đấy chứ!
Thật chứ dối ạ?
Tú Xuất cười ha hả, quay ra nh́n mọi người phân vua:
Đấy nhé! Các ông các bà làm chứng cho tôi nhé! Cô hàng đă cam đoan đánh
cuộc hễ con mèo nói được, th́ xin mất mâm rượu. Th́ đây, tôi xin bảo con
mèo nó nói cho mà xem. để cô hàng biết tài khôn ngoan của nó.
Đoạn Tú Xuất đến chỗ con mèo dang ngủ, xách tai mèo giơ lên, đem ra gần
chỗ cô hàng ngồi, vừa đi vừa dơng dạc nói:
Nào bây giờ mày nói lên cho cô hàng biết trí thông minh, xuy xét của mày
nhé ...
Rồi Tú Xuất giơ con mèo lên cao đến tận mặt, hỏi:
Ớ mèo! Bớ mèo! ‘Của’ cô hàng tṛn ... méo?
Vừa nói đến tiếng ‘méo’ Tú Xuất bấm mạnh móng tay vào tai con mèo, tưỏng
chừng đến thủng tai ra; con mèo đau quá, nhăn cả mơm, kêu
Méo! Méo!
Mọi người đúng xem cười ầm lên, bọn Ba Giai tưởng như bể bụng, ḅ lăn ra
đất, c̣n cô hàng th́ thẹn thùng, xấu hổ, mặt cứ đỏ như gấc chín, phải cúi
đầu dấu mặt đi cho đỡ ngượng.
Tú Xuất vứt con mèo xuống đất đành ‘huỵnh’ một cái, xoa tay nói:
Đấy nhé! Con mèo đă nói rồi nhé, lại nói nói khôn, có ư, có nghĩa, đủ biết
con mèo chẳng nhưng biết nói lại c̣n biết suy xét nữa.
...
Cô thách nó nói có một tiếng cũng là thua cuộc, nhưng đây nó lại nói hai
tiếng, thế là tôi bị thiệt rồi đấy nhé!
....
Chỉ mất có một mâm rượu mà cô đă biết được con mèo giá trị ... thật là rẻ
đó!
Rồi lại bảo bọn Ba Giai:
Thôi tiệc rượu thế là trang trải xong rồi, bây giờ ta chào cô hàng ra về
kẻo muộn ....
Cả bọn bưóc ra khỏi hàng, cười ồ. Cô hàng, mặt vẫn c̣n đỏ như say rượu,
đành mất bữa rưỡu, tuyệt nhiên không dám hé răng, nói nửa lời.
Xét trên cấu thức, truyện Thầy Đồ Ăn Bánh Rán và truyện Mèo Biết nói có
nhiều điểm tương đồng. Trước hết cả hai cùng được coi là truyện vui cười.
Hai là cả hai cùng chép truyện một thầy đồ thèm ăn bánh rán và một nhóm
bạn bè Ba Giai và Tú Xuất thèm một bữa rượu. Cả hai vai chính đều bày mưu
thiết kế cốt chỉ được thoả thích niềm ham muốn, bất kể là phải đánh lừa
hay làm hại người khác. Thầy đồ làm hại đứa học tṛ bé nhỏ đánh lừa cha mẹ
nó để đưọc ăn bẩy đĩa bánh rán. Tú Xuất đánh lừa cô hàng cơm, làm khổ con
mèo để có bữa rượu sau sưa khi trong túi không có tiền. Người đọc truyện
cười thỏa thích, trước những hành động bất lương của thầy đồ thèm bánh rán
và của Tú Xuất cùng đồng bọn đói một bữa rượu.
Cái cười này khiến người đọc nhớ tới cái cười vô lại, le rire
picaresque[14], khi đọc cuốn La Vie de Lazarillo de Tormès,[15] khiếm danh
tác giả, nguyên tác bằng tiếng Tây Ban Nha. Cuốn truyện này xuất bản lần
đầu tiên vào năm 1553 tại Anvers, từng đươc dịch sang nhiều thứ tiếng tại
Âu Châu. Cũng từng bị coi là sách cấm đọc trong hàng trăm năm. Sách viết
theo thể tự sự, kể lại những hành động bất lương của vai chính là
Lazarillo, một ngựi nghèo khó gốc tại Tormès. Truyện cũng được coi là là
một truyện khôi hài, đồng thời tŕnh bày quan điểm phê phán xă hội, dưới
thời cuối thời Trung Cổ, với những nề nếp khắt khe.
Đối chiếu những truyên trong tập Truyện Cổ Nưóc Nam, và trong tập Ba Giai
Tú Xuất, có cùng ư nghĩa với truyện La Vie de Lazarillo de Tormès, vượt
quá giới hạn bài viết này, và xin dành cho giới nghiên cứu chuyên môn.
Đằng khác, qua nhận xét về sự tương đồng giữa cuốn truyện Tây Ba Nha và
truyện Cổ Nước Nam và Truyện Ba Giai Tú
Xuất, trích dẫn trên đây, phải chăng người đọc không khỏi như thấy những
truyện trích dẫn nói trên, ít nhất, cũng có thể coi là phản ứng của văn
học dân gian dưới áp lực của văn học Trung Quốc đặt trên mức độ quốc học,
hay nói một cách ngắn gọn hơn nhưng truyện cười trích dẫn đó có màu sắc
của tính cải biến trong văn học dân gian hậu Bắc thuộc?
III
Trung Quốc có ba bộ tiểu thuyết rất được đông đảo người đọc, không những
tại Trung Quốc, mà tại khắp cơi Đông Á ham chuộng. Đó là bộ Tam Quốc Chí,
bộ Thủy Hử và bộ Tây Du Kư. Sau đây, cảo luận này xin xét qua cách đọc bộ
Tây Du Kư của người Đông Á như một bộ tiểu thuyết huyền bí, như một bô
kinh Đạo Giáo truyền phép dùng linh đan để luyện phép trường sinh bất tử
và sau cùng là cách biến cải của một tác giả khiếm danh Việt Nam khởi hứng
từ bộ Tây Du Kư sáng tác thành truyện cổ tích Người Đi T́m Kinh Phật.
Bộ Tây Du Kư chính là truyện Thầy Tam Tạng, đời nhà Đường, tên thật là
Trần Vỹ, sinh năm thứ mười sáu đời Tùy Văn Đế Vương (595 sau Tây Lịch) tại
huyện Câu Thị, nay là huyện Yêm Sưu, tỉnh Hà Nam Trung Quốc đi sang Ấn Độ
thỉnh kinh năm ngài mới vừa hai mươi bẩy tuổi. Truyện đi thỉnh kinh cũng
là một truyện có thực, chép trong sách Đại Đường Tây Vực Kư. Thầy Tam Tạng
đi thỉnh kinh một người một ngựa, đă tới được Ấn Độ sau khi vượt qua được
một trăm hai mươi tám phiên quốc với rất nhiều khó khăn thử thách. Chuyến
đi mất hai năm, chuyến về hai năm. Thầy Tam Tạng ở lại Ấn Độ mười ba năm,
học đạo tại chùa Na Lan Đà trong sáu năm, thời gian c̣n lại thầy đi viếng
thăm các di tích của Đạo Phật và thu thẩp kinh sách và phật tích. Ngày về
tới Trường An, thầy Tam Tặng mang theo về:
150 Xá Lợi tử (tinh cốt Đức Như Lai)
2 tượng Phật bằng gỗ đàn,
3 tượng phật bằng đàn hương
657 bộ kinh
cùng nhiều bảo vật khác.
Về tới Trường An, thầy Tam Tạng khởi đầu việc dịch kinh. Trong chín năm
(645-644) thầy dịch được cả thẩy bẩy mươi lăm bộ kinh, bộ Đạo Đức Kinh của
Lăo Tử và dịch bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận từ chữ Hán sang tiếng Phạn, cùng
sáng tác bộ Đại Đường Tây Vực Kư.
Trưa ngày 5 tháng 2 năm 664 thầy Tam Tạng mất tại chùa Ngọc Hoa, hưởng
dương 69 tuổi. Tục truyền có đến ba vạn người cất lều cư tang gần mô
thầy.
Truyện thầy Tam Tạng đi Ấn Độ thỉnh kinh, sau đó, trở thành nguồn văn liệu
cho nhiều tác giả viết thành tiểu thuyết hay thành tuồng tích. Điều đáng
nói là những tác giả này không lấy thầy Tam Tạng làm vai chính mà dùng vai
Tôn Ngộ Không, một nhân vật huyền hoặc nủa người nửa khỉ, theo hầu bảo vệ
thầy Tam Tạng trong chuyến du hành lịch sử này.
Dưới triều nhà Tống, truyện Tay Du Kư xuất hiện dưói h́nh thức truyện
truyền miệng, những người sống bằng nghề kể truyện bằng văn vần này, để
lại một vài văn bản gốc, ngày nay c̣n t́m thấy tại Nhật Bản dưói đầu đề
Đại Đường Tam Tạng Thủ Kinh Thi Thoại, và Đại Đựng Tam Tạng Thủ Kinh Kư,
in từ thời Nam Tống. Giới nghiên cứu cho rằng những tư liệu này do những
vị cao tăng Nhật Bản du học sang Trung Quốc mang về.
Truyện Tây Du Kư đời nhà Nguyên dưới h́nh thức một cuốn tiểu thuyết, mà
giới nghiên cứu văn bản ngày nay t́m thấy được là một tư liệu Hàn Quốc,
trong sách Phác Thông Sự Ngạn Giải, [phiên âm (ngạn giải) theo Hàn ngữ của
ông thông sự (thông ngôn) họ Phác]. Sách này vốn là một cuốn sách giáo
khoa dạy đàm thoại tiếng Trung Quốc cho người Hàn Quốc.
Những bản Tây Du Kư quen thuộc với Người Việt Nam là những bản dịch bộ Tây
Du Kư đời nhà Minh, của Ngô Thừa Ân.
Đối chiếu đời nhà Minh với những bản cổ hơn theo tư liệu t́m thấy ở Nhật
Bản và Hàn Quốc và những tuồng tích cổ là một vấn đề phức tạp mà giới
nghiên cứu c̣n đang đeo đuổi.
Riêng những chi tiết về đời tư của Tôn Ngộ Không cũng đă có những khác
biệt đáng lưu ư. Theo tuồng tích, đời Nguyên về Tây Du Kư, th́ Tôn Ngộ
Không không có cha mẹ anh chi em, bắt cóc nữ vương nước Kim Đỉnh làm vợ.
Trong tiểu thuyết Tây Du Kư đời Minh, th́ Tôn Ngô Không vốn từ ḥn đá nứt
mà sinh ra, không cha không mẹ không anh em, một thân phá phách thiên
đ́nh, nhưng không hiếu sắc. Phần trích dịch sang tiếng Đại Hàn đời nhà
Nguyên không nhắc tới truyện vợ con của Tôn Ngộ Không, nhưng nói tới vụ
Tôn Ngộ Không đánh cắp áo tiên của Tây Vương Mẫu, một chi tiết giống y hệt
nội dung các tuồng tích.
Ngược lại theo những truyện truyền miệng bằng văn vần đời Tống th́ vai
chính truyện Tây Du Kư là Hầu Hành Giả, tiền thân của Tôn Ngộ Không, không
vợ không con, như vậy chi tiết này có cả trong truyện truyền miệng đời
Tống và tuồng tích đ̣i Nguyên.
Về cách Tôn Ngộ Không bị trừng phạt, cũng như về những danh hiệu của Tôn
Ngộ Không có nhiều điểm tương đồng và khác biệt giữa các bản Tây Du Kư.
Đằng khác, trả lời câu hỏi ai là tác giả Tây Du Kư, cũng là một truyện
phức tạp trên văn đàn Đông Á. Ư kiến chung th́ Ngô Thừa Ân là tác giả bản
Tây Du Kư đời nhà Minh. Chủ trương này do hai nhà văn học nổi tiếng Trung
Quốc: Hồ Thích và Lỗ Tấn khởi xướng, căn cứ vào sự kiện cuốn Hoài An Phủ
Chí ghi tên Ngô Thừa Ân viết sách Tây Du Kư .
Giới phản đối, đặt câu hỏi là cuốn Tây Du Kư mà sách Hoài An Phủ Chí nói
tới đây là cuốn nào, v́ có nhiều sách mang tựa đề Tây Du Kư mà nội dung
không phải là truyện Tam Tạng đi thỉnh kinh. Nhà nghiên cứu Nhật Bản Ôta
Tatsuo cho là Ngô Thừa Ân chỉ là tác giả viết tuồng tích Tây Du Kư, dựa
trên lập luận là sách Hoài An Phủ Chí chỉ ghi tên những kinh sử tử tập mà
không lưu ư tới tiểu thuyết, dù là tiểu thuyết nổi tiếng.
Ngược lại giới bảo vệ thuyết của Hồ Thích và Lỗ Tấn, đối chiếu sách Tây Du
Kư của Ngô Thừa Ân với những tác phẩm khác của cùng tác giả, cùng so sánh
một số chi tiết trong truyện với những biến cố văn học và lịch sử đời
Minh, kết quả là làm nghiêng cán cân về thuyết Ngô Thừa Ân là tác giả Tây
Du Kư.
Đằng khác, việc phiên dịch này khởi đầu từ việc lựa chọn bản gốc. Người
đọc ngày nay có thể t́m thấy ba bản Tây Du Kư: một là bản do Chu Đỉnh Thần
soạn, phát hành từ đời Vạn Lịch (1573-1620); hai là bản do Ngô Thừa Ân
soạn phát hành năm Vạn Lịch 20 (1592); ba là bản do Dương chí Hoà biên
soạn, không ghi niên đại biên soạn và phát hành. Phan Quân đă dùng bản
thông dụng nhất là bản của Ngô Thừa Ân, đời nhà Minh, (1500-1582) biên
soạn.
Ngô Thừa Ân là con một thương gia, quê tại phủ Hoài An. Thủa trẻ ông là
một học sinh xuất sắc. Tính t́nh vui vẻ giỏi khôi hài. Ông không gặp may
mắn trên đụng khoa cử, thi hương nhiều khoa không đậu. Ông về sống tạm
tại Nam Kinh, sống bằng tiền viết mướn. Tới năm sáu mươi tuổi ông được bổ
làm một chức quan nhỏ, nhưng đời làm quan không hợp với ông, nên ông xin
từ quan và trở lại quê xưa, sống tới ngoài tám mươi tuổi. Bộ Tây Du Kư là
tác phẩm ông viết vào những năm cuối đời.
Bộ Tây Du Kư gốm 100 hồi, như lời Đường Tam Tạng tâu lên vua Đường Thái
Tôn [16] , kể lại truyện bốn thầy tṛ nhà sư Đường Tam Tạng cùng ba đồ đệ
là Tôn Ngộ Không, Trư Ngộ Năng và Sa Ngộ Tịnh và con ngựa trắng nguyên là
một con rồng mắc đọa, đi qua Tây Phương ṛng ră 14 năm, vượt qua nhiều
gian nan thử thách mới tới được núi Linh Sơn ra mắt Phật Tổ xin thỉnh
kinh. Dọc đựng đến nước nào củng tŕnh điệp thông quan cho các vua đóng
ấn làm bằng.
Thỉnh đưọc kinh, bốn thầy tṛ Đường Tam Tạng được tám vị Kim Cang Nổi gíó
bay trong hai ngày về tới Trường An. Tới kinh đô, Đựng Tam Tạng được vua
Đừng Thái Tôn mở tiệc đón tiếp tại điện Đông Các và ban cho một bài thơ
dài ngợi khen công lao Tây Du thỉnh kinh của Đường Tam Tạng.
Kế đó tám vị Kim Cang lại đằng vân, suốt tám ngày, đưa bốn thầy tṛ Đường
Tam Tạng cùng con Bạch Mă, tới điện Đại Hùng chầu Phật Tổ. Phật Tổ ngợi
khen công lao thỉnh kinh của Đường Tam Tạng cùng các đệ tử, phong cho
Đường Tam Tạng chức Chiến Đàng Công Đức Phật; tha cho Tôn Ngộ Không tội
loạn đả thiên cung, nay có công bảo hộ thỉnh kinh được phong chức Đấu
Chiến Thắng Phật. Trư Bát Giới, nghiệp duyên chưa dứt trọn vẹn song có
công gánh vác bảo hộ thỉnh kinh, được phong làm Tịnh Đàng Sứ Giả; Sa Ngộ
Tịnh được phong làm Kim Hân La Hán cũng v́ có công bảo hộ thỉnh kinh; con
Bạch Mă có công chở Thánh Tăng đi thỉnh kinh được phong chức Bát Bộ Thiên
Long.
Từ thế kỷ XVI tới nay đă rất nhiều người phê b́nh bộ Tây Du Kư. Tùy theo
nhăn quan, mỗi nguời t́m thấy một ư nghĩa của bộ tiểu thuyết. Sau đây,
người viết xin tóm tắt ghi lại ba ư nghĩa tiêu biểu:
- Một là ư nghĩa theo nhăn quan của Wu Zuxiang;
– Hai là ư nghĩa theo nhăn quan của Phan Quân, dịch giả bộ Tây Du Kư sang
tiếng Việt Nam;
– Ba là ư nghĩa theo nhăn quan của những phương sĩ Đạo Giáo, coi bộ sách
như một phổ kư dậy cách luyện linh đan để đạt tới cơi trường sinh bất tử.
Theo Wu Zuxiang[17], bộ Tây Du Kư viết dưới h́nh thức tiểu thuyết truyền
kỳ, nhưng đ̣ng thời có ư nghĩa xă hội hiện thực. Dưới nhăn quan đó vai
Đường Tam Tạng trở thành một vai phụ, trái lại vai Tôn Ngộ Không trở thành
vai chính, và là h́nh ảnh của một vị anh hùng nhân dân. Đằng khác, cốt
truyện đưa đoàn ngụi đi thỉnh kinh qua nhiều nưóc phiên thuộc nước Đại
Đường với những h́nh tượng những thần thánh cùng yêu ma mà tác giả dùng để
bày tỏ quan điểm riêng về mọi mặt của xă hội đương thời, với một giọng văn
khôi hài dí dỏm. Sau hết, Ngô Thừa Ân đă khéo léo đưa vào tác phẩm của ông
những h́nh tưọng có sẵn trong văn học nhân dân Trung Quốc và kinh sách đạo
Lăo và đạo Phật để phơi bày tính phản động của ba tôn giáo Nho Phật Lăo đè
nặng trên xă hội Trung Quốc thời nhà Đường.
Bẩy hồi đầu mô tả tích Tôn Ngô Không sinh ra đời, không cha không mẹ, nở
từ môt trái trứng nứt từ một tảng đá trên núi Hoa Quả Sơn tại nưóc Ngao
Lai. Tôn Ngộ Không khổ công tập luyện, trở thành thánh, đạt đưọc tới cơi
trựng sinh bất tử và đạt được bẩy mươi hai phép thần thông biến hóa. Với
tài sức đó, Tôn Ngô Không xuống nưóc phá Long Cung, lên trời phá Thiên
Đ́nh, khiến Long Vương phải phục ṭng, Ngọc Hoàng phải phong cho chức Tề
Thiên Đại Thánh. Cho tới một ngày Tôn Ngộ Không trổ tài nhảy vọt một bước
vượt 18 000 dặm, nhưng liền đó nhận ra rằng ḿnh chưa vượt khỏi ḷng bàn
tay Phật Tổ. Và bị Phật Tổ phạt giam dưới Ngũ Hành Sơn, tưọng trưng bàn
tay Phật Tổ.
Năm hồi, từ hồi 8 tới hồi 13 là truyện Đựng Tam Tạng sửa soạn đi thỉnh
kinh. 81 hồi kế tiếp kể lại những gian truân công khó của chuyến Tây Du.
Đi ngang Ngũ Hoành Sơn, Đường Tam Tạng giải thoát cho Tôn Ngộ Không và
nhận làm đệ tử đi theo bảo vệ ngài trên đường Tây Du. Tren đường, Tôn Ngộ
Không đánh bại Trư Bát Giới và bắt được thủy quái họ Sa. Cả hai cùng đưọc
Đựng Tăng thâu nhận làm đệ tử và đặt hiệu là Trư Ngộ Năng và Sa Ngô Tịnh.
Sau đó thầy tṛ Đựng Tam Tạng khuất phục được một con rồng và biến nó
thành mọt con ngựa trắng đặt tên là Bạch Mă.
Trong suốt 81 hồi liên tiếp nói trên trong bộ Tây Du Kư, nhà b́nh luận Wu
Zuxiang coi nhưng chiến thắng của Tôn Ngộ Không như biểu thị ḷng ước mơ
chiến thắng thiên nhiên của nhân dân; mọi h́nh ảnh những thần thánh trong
truyện đều là những h́nh ảnh tưọng trưng cho thiên nhiên. H́nh ảnh Tôn Ngộ
Không qua những chiến thắng đó, rồi bị giam dưới Ngữ Hoành Sơn là h́nh ảnh
của toàn thể nhân dân trong cuộc tranh đấu chống phong kiến, mà không
thành công lật đổ được chế độ phong kiến thời đó.
Việc Tôn Ngộ Không được giải thoát và được đi theo Đường Tam Tạng thỉnh
kinh, tiêu biểu cho sức mạnh của nhân dân nay đă có đường lối để đeo đuổi
trái với những vụ tranh đấu vô mục tiêu trưóc đó. Trước kia Tôn Ngô Không
phải nỗ lực chiến dấu mà không biết chiến đấu cho ai, và nay có chủ đích
là bảo vệ Đường Tam Tạng trong vụ Tây Du thỉnh kinh.
Wu Zuxiang nhận xét rằng những yêu ma quỷ quái mà Tôn Ngộ Không phải đối
đầu trong chuyến Tây Du thuờng lại là đệ tử của nhiều vị thần thánh linh
thiêng. Ông giải thích nhận xét này bằng cách đối chiếu với lịch sử nhà
Minh. Thủa đó, vua quan cường hào ác bá thựng dung túng cho đàn em hoành
hành bóc lột đè nén nhân dân. H́nh ảnh Tông Ngô Không dẹp các yêu ma qủy
quái tiêu biểu cho ḷng dân đời Minh nổi loạn không phải là chống đối
vương quyền mà muốn tiêu diệt bọn cướp ngày được giới quyền thế bao dung.
Đằng khác, trong nhiều vụ dẹp yêu ma quỷ quái, Tôn Ngộ Không thường tỏ ra
quá nghiệt ngă khiến Đựng Tam Tạng lên tiếng trách móc. Điểm này đặt Tôn
Ngộ Không đối nghịch với Đường Tam Tạng, như trong thực tế phe chủ chiến
đối nghịch với phe chủ ḥa trong việc dùng cách phủ dụ thay cho giết tróc
để dẹp loạn an dân.
Đặt Tây Du Kư là h́nh ảnh xă hội dưói triều nhà Minh, dưới mắt Wu Zuxiang,
vai Trư Bát Giới tiêu biểu cho đám tư sản phản động. Trong nhiều trường
hợp gặp khó khăn trên đựng Tây Du, Trư Ngộ Năng thựng tỏ ra thiếu tin
tưỏng, sinh nản chí. Nhiều lần v́ đàn bà mà nghĩ tới truyện bỏ dở việc
lớn. Hàng ngày th́ tham ăn tục uống, ham lợi trước mắt. Lúc vào cuộc giao
tranh thường tỏ ra nhát gan sợ chết. Lúc nh́n thấy thắng lợi th́ t́m cách
kể công. Tuy nhiên Trư Ngộ Không tính vốn thiện. Trong bốn tùy tùng theo
hầu Đựng Tam Tạng Tây Du, Trư Ngộ Không là người chịu phần lao lực nhất:
phải gồng gánh hành trang cùng lo nhiều việc cực khổ dơ bẩn khác. Dẫu cứng
đầu hay căi, nhưng cũng sẳn sàng nhận lỗi, do đó Trư Bát Giới dễ chiếm
được cảm t́nh của độc giả.
Vẫn coi Tây Du Kư là h́nh ảnh tiêu biểu xă hội nhà Minh, vai Sa Ngộ Tịnh
là h́nh ảnh của đám người gọi chung là lừng khừng. Họ thường nhút nhát rụt
rè, thiếu tinh thần tranh đấu, khiến nhiều phen bỏ lỡ cơ hội tốt đẹp, luôn
luôn cần đưọc kích thích lôi cuốn.
Những nhận xét của Wu Zuxiang về bốn vai chính trong Tây Du Kư không phải
là không xác đáng. Tuy nhiên ông dă dùng nhận xét đó để đối chiếu t́nh
tiết trong truyện với hoàn cảnh Trung Quốc dưới triều nhà Minh, đặc biệt
chú ư tới ư chí và thân phân ngựi dân den, dường như nặng phần gượng ép.
Ông dành h́nh ảnh Tôn Ngộ Không làm h́nh ảnh ngựi dân lành Trung Quốc đời
Minh, với đủ đức tính tốt, dư tài năng, làm người đọc liên tưỏng tới h́nh
ảnh những đồng chí hoàn thiện những cán bộ siêu phàm thời công sản toàn
thịnh; đồng thời toàn thể những ai không phải là đồng chí đều bị liệt vào
hàng tư sản phản động hay lưng khừng cần cho đi cải tạo.
Người đọc tự hỏi, ngày nay c̣n mấy ai đồng ư với Wu Zuxiang về ư nghĩa
cuốn Tây Du Kư như vậy?
Có điều chắc chắn rằng ư nghĩa chia cắt phân loại người dân như vậy khó có
thể tin được là ư nghĩ của ngựi Trung Quốc dưới triều nhà Minh, khi câu
nhân chi sơ tính bản thiện
chưa bị coi là sản phẩm của những kẻ bi coi không bằng một băi phân trâu.
Trong giới những nhà phê b́nh Tây Du Kư người Việt Nam phải kể tới bài phê
b́nh của Phan Quân, dịch giả bộ Tây Du Kư. Phân tách nội dung truyện Tây
Du Kư, Phan Quân coi bộ tiểu thuyết này là một truyện thần thoại, vừa có
tính hài hưóc trào lộng vừa bao hàm triết lư cao sâu. Điểm mâu thuẫn này
đă được Phan Quân phân giải rành rẽ. Theo ông một bộ tiểu thuyết thần
thoại, và truyện thần tiên thường khác xa một bộ tiểu thuyết tả chân. Tuy
vậy trong khung cảnh thần thoại giả tưỏng, ông vẫn nhận ra được bút thuật
của tác giả là một bút thuật phản ảnh đời sống thực tế của con người. Đi
xa hơn nữa, Phan Quân c̣n cho là “hầu hết các nhà viết truyện ngụ ngôn đều
dụng ư kư thác vào đó một sự trạng nào đó mà không thể nói lên bằng sự
thật bằng tiếng nói. Họ mượn h́nh thức`này h́nh thức nọ để nói lên một
cách kín đáo hơn” . Thế nên, truyện Tây Du Kư có thể coi là một bộ truyện
ghi lại h́nh ảnh của chế độ mục nát, bất công loạn lạc của nhữg đời vua
Chánh Đức, Gia Tĩnh, Vạn Lịch mà Ngô Thừa Ân đă không viết ra sự thật bằng
chữ mà mượn truyện Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh để chỉ trích một cách kín
đáo.
Dựa trên thân thế của Ngô Thừa Ân, tài cao, lận đận trường ốc, công danh
chẳng toại, đến già mới đưọc bổ vào chức huyện thừa, nghèo khổ không con,
Phan Quân coi ông như người bất đắc chí, và kết luận là với một thân thế
như vậy, nhất định tác giả có mệnh ư trong tác phẩm.
Chứng minh lập luận này, Phan Quân cho rằng Ngô Thừa Ân lấy mẫu mực con
người lư tưởng của ông mà dựng lên Tôn Ngô Không. Ngô Thừa Ân ước mong đem
tài sức ra phá tan những bất công xă hội đương thời, nên cho Tề Thiên Đại
Tháng lên phá thiên đ́nh. Nhưng tài không thắng nổi mệnh, thân ông suốt
đời không thành đạt biến thành h́nh ảnh Tôn Ngộ Không bị giam dưới Ngũ
Hành Sơn. Phan Quân không tạo ra một Tôn Ngộ Không thành một chiến sỉ bài
phong phản đế, như nhiều nhà phê b́nh theo học thuyết marxit thựng ca
tụng. Bởi lẽ Tôn Ngộ Không phá thiên đ́nh mà không có một lư tưởng không
đề ra một h́nh ảnh thiên đ́nh mới. Ngoài ra truyện Tây Du Kư viết ra đă
ngoài sáu trăm năm, lúc đó làm ǵ đă có ư thức phản phong phản đế. Tôn Ngộ
Không phá trời chỉ để cho hả giận, khi được trời phong cho làm Tề Thiên
Đại Thánh th́ hả hê ngoan ngoăn chui vào cái lồng danh vọng, mà chẳng hay
là ḿnh đă vào lồng như ông Hy Văn Nguyễn Công Trú bốn trăm năm sau.
Cũng như đa số người Đông Á, tác giả Ngô Thừa Ân, tin tưởng là dương sao
âm vậy. Mọi truyện xẩy ra ở trần gian này đều có thể xẩy ra trên thiên
đ́nh hay trên đất Phật. Thế nên, trời Phật thần thánh linh thiêng cũng
chằng khác ǵ những ông vua ông chúa nơi trần thế. Thần thánh dùng yêu
quái, như vua chúa dùng thủ hạ, hiếp đáp dân đen. Trong suốt bộ Tây Du Kư,
nhiều lần biết được cội rễ của đám yêu quái, Tôn Hành Giả tới thẳng chủ
chúng mà trách móc bảo thu về. Như vậy Tôn Hành Giả dùng cách chiêu ḥa,
dẹp được yêu ma mà không tốn sức, không gây đổ máu, không gây thêm hận
thù. Phải chăng đó cũng là giải pháp yên dân mà Ngô Thùa Ân mơ ước?
Phan Quân kết thúc bài b́nh luận bộ Tây Du Kư bằng một trang nói về Ảnh
Hưởng Truyện Tây Du Đối với Phật Giáo.
Ông bác bỏ ư kiến của nhiều ngựi, mà ông coi là mới xem qua Tây Du, cho
là bộ truyện này gầy ảnh hưởng tốt cho Phật Giáo, với lư do là sách Tây Du
Kư có nhiều đoạn đề cao quyền lực và ḷng nhân của Phật.
Trong hồi thứ 100 sách Tây Du Kư, qua lời tâu của Đường Tam Tạng có đoạn:
Tôi đến núi Linh Sơn ra mắt Phật tổ xin thỉnh kinh. Phật Tổ sai Ác Nang
tôn giả và Ca Diếp tôn giả, dẫn chúng tôi lên lầu đăi yến và phát kinh.
khi đến tủ để kinh, Ác Nang tôn giả có hỏi tôi: “Đem lễ vật ǵ thỉnh
kinh?” Tôi không đem lễ vật, nhưng ngài không nài ép, phát kinh tử tế.
Đoạn chúng tôi tạ ơn Phật Tổ ra về. Bỗng một trận gió thổi mạnh, một người
hiện xuống giựt kinh bay đi, đệ tử tôi đuổi theo, người ấy quăng kinh
xuống đất, văi rơi tứ tung. Nh́n thấy kinh không có chữ nào, chúng tôi sợ
hăi trở vào bạch Phật Tổ, xin đổi kinh khác, Và tố cáo hai vị tôn giả đ̣i
lễ vật không có, nên phát kinh giấy trắng. Phật Tổ dạy là v́ thỉnh kinh
không lễ nên phát kinh vô tự, hai vị ấy trách vô lễ chứ không tham tài.
Bởi vậy tôi dâng b́nh bát khâm tử làm lễ thỉnh kinh. Hai vị tôn giả bèn
đổi kinh có chữ.
Từ đoạn trên dây, Phan Quân lập luận:
Lại như Ác Năng, Ca Diếp, đệ tử của Phật, mà cung đ̣i ăn hối lộ, lúc Tam
Tạng đến thỉnh kinh không có lễ vật, phát kinh không chữ, rồi lại xiết
b́nh bát.
Trời Phật sao lại có tâm trạng không khác loài người.
Lập luận của Phan Quân trên đây có nhiều điểm bất công với Ác Nang và Ca
Diếp. Phan Quân tố cáo hai vị tôn giả này đ̣i lễ vật, không có, nên phát
kinh giấy trắng. Thật ra, theo lời Phật Tổ dạy, và Đường Huyền Tăng tóm
tắt, là v́: thỉnh kinh không lễ nên phát kinh vô tự.
Trở lại hồi 99, qua lời Phật Tổ, Ngô Thừa Ân có nói rơ về nghi lễ thỉnh
kinh [18] :
Trước đây, các săi mới tu nơi này có đem kinh xuống nước Xá Vệ mà tụng cầu
an và siêu độ cho Triệu trưởng giả. Nhà họ Triệu huờn công ba thăng gạo,
và vàng bạc một ít, ta c̣n nói Triệu trưởng giả bỏn sẻn sau con cháu không
được giầu sang. Nay thày tṛ ngươi đến tay không, mà thỉnh bấy nhiêu kinh,
c̣n than thở ǵ nữa. Kinh giấy trắng ấy là kinh vô tự, quư hơn kinh hữu
tự, nhưng v́ chúng sanh xem không được, nên ta phải cho đổi.
Lời Phật dạy trích dẫn cho biết hai điều:
Một là: nghi lễ người đến thỉnh kinh thường tự nguyện cúng dàng đức Thế
Tôn.
Hai là: kinh không chữ quư hơn kinh có chữ.
Về điểm thứ nhất, lời Ngô Thừa Ân, trong trích dẫn trên đây không khác lời
kinh Phật chép trong kinh Trường A Hàm, quyển 2, phần 1, Kinh Du Hành thứ
2, đoạn 1[19] về việc cúng dựng lúc ra mắt Phật:
Đức Thế Tôn lại bảo A-Nan và đại chúng đi đến nước Tỳ Xá Ly (Vesali) do
con đường Bạt Kỳ và nghỉ ở một gốc cây. Lúc đó có một dâm nữ tên Am Bà Bà
Lê (Ambapali) vừa nghe Phật cùng đệ tử đến đó, liền sửa xa giá đi đến chỗ
Phật dể bái dường. Khi đi đến nơi , nàng dược thấy bóng đức Thế Tôn diện
mạo đoan chính, tưóng tốt dầy đủ như mặt trăng giữa đám sao. Nàng rất hoan
hỷ, xuống xe đi bộ tới chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi ngồi sang một bên.
Đức Thế Tôn thuyết pháp cho nàng, nghe xong nàng phát tâm vui mừng quỳ
bạch Phật rằng: “Bắt đầu từ nay con quy y ngôi Tam Bảo. Mong Phật nhận lời
cho con được được làm Ưu Bà Di ở trong chánh pháp, con thề trọn đời không
sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
Cầu thỉnh Phật cùng đại chúng ngày mai thọ lănh một bữa cơm của con cúng
dường, đến tối th́ xin nghỉ lại vườn của con”. Phật làm thinh nhận lời.
[...] Mai đức Thế Tôn cùng 1250 tỳ kheo nghiêm chỉnh y bát đến chỗ thỉnh
cúng. Sau khi an tọa, nàng Am Bà Bà Lê đích thân dâng cơm cúng Phật và
chúng tăng. Khi Phật thọ trai, rửa bát, sửa lại bàn ghế xong, nàng Am Bà
Bà Lê đem nước đựng trong cái b́nh vàng đến dâng Phật rửa, rồi nàng đến
trước Phật bạch rằng: “Các viên lâm lầu quán trong thành Tỳ Xá Ly này, chỉ
có viên quán của con đây tốt hơn cả. Nay con muốn dâng cúng lên Như Lai,
cầu xin ngài thương xót nạp thọ.” Phật bảo: “Ngươi đem khu vườn này dâng
cho Phật là bậc đứng đầu và chiêu đề tăng th́ thật là quư hóa, v́ nhờ đây
mà Như Lai có đủ 6 vật cần thiết là viên lâm, pḥng xá, y bát, nên dẫu các
ma vương, đế thích, phạm thiên hay trời có đại thần lực cũng không ai xứng
đáng lănh sự cúng dường này.” Nàng Am Bà Bà Lê y lời, dâng khu vựn cho
Phật và chiêu đề tăng. Phật nhận lănh
Nàng Am Bà Bà Lê, tự nguyện đến ra mắt Phật, tự nguyện xin đem lâm viên
lầu quán của nàng cúng dường đức Thế Tôn ngay khi xin ra mắt Phật, xin
thỉnh Phật thuyết pháp.
Nhiều người đọc nghĩ rằng đoạn kinh Trường A Hàm trên đây biểu thị sự phân
công phân nhiệm giữa người xuất gia và ngựi tại gia: người xuất gia hành
tu giải thoát và giảng pháp cho người tại gia; người tại gia lo tứ sự cúng
dường gồm chỗ ở, thực phẩm, thuốc men y áo. Trong thực tế hàng ngày, người
lên chùa lậy Phật không ai lên tay không, bao giờ cũng đem theo hương hoa
trái cây, và tùy hỷ góp tiền nhiều it vào thùng công đức.
Thế nên, khi đến thỉnh kinh và không dâng lễ Phật là một sơ xuất của đoàn
thầy tṛ Đường Tam Tạng. Theo lời kể truyện của Ngô Thừa Ân, Thầy tṛ
Đường Tam Tạng phạm sơ xuất này hai lần.
Lần thứ nhất, Đường Tăng viện cớ đựng xá xa xôi, không sắm sửa lễ vật.
Hai vị tôn giả trao kinh không chữ. Nhiên Đăng Cổ Phật biết tự sự, e người
Đông Đô xem kinh không chữ không được, uổng công Đường Tam Tạng vất vả
thỉnh về, bèn sai Bạch Hùng tôn giả đuổi theo lấy lại kinh vô tự và bảo
bốn thầy tṛ Đường Tăm Tạng quay lại thỉnh kinh hữu tự.
Lần thứ hai, Đường Tam Tạng tái phạm sơ xuất này là khi nhận lănh kinh hữu
tự, khiến tôn giả Ác Nang lại phải hỏi lễ vật thỉnh kinh thêm một lân nữa.
Đường Tam Tạng mới chợt nhớ có b́nh bát bằng vàng đem ra cúng dường.
Ngoài ra, người đọc thấy như Tôn Ngộ Không cũng biết truyện thông thường
cần có lễ vật lúc ra mắt Phật xin thỉnh kinh, qua lời tâu lên vua Đường
Thái Tôn[20] :
Lúc ở phủ Kim B́nh, tôi lấy được sừng Tê Giác, ḷng thành dâng Phật [...]
nhưng khi ra mắt Phật Tổ để tŕnh bày việc hai tôn giả phát kinh giấy
trắng cũng vẫn buộc tôi hai tôn giả hỏi nghi lễ thỉnh kinh là cố t́nh đ̣i
tiền hối lộ.
Người đọc tới đây, it ai không bỡ ngỡ về truyện đ̣i hối lộ tại đất Phật.
Nhưng suy nghĩ lại, chẳng ai không thán phục bút pháp khôi hài của Ngô
Thừa Ân trong đọan này.
Thật vậy theo nhà viết kịch Ben Jonson [21] người Anh Quốc th́ truyện khôi
hài, humour, là truyện vui cười, phi lư, ngựi nói kể cho ngựi nghe mà
khiến người nghe tin là thật, rồi liền đó vỡ lẽ ra là truyện đùa. Truyện
đ̣i hối lộ là truyện không thể có đưọc trên đất Phật, mà Ngô Thừa Ân đă
bịa ra làm cho người đọc tin là thật, suy nghĩ kỹ thêm ai cũng liền biết
là truyện trọc cười. Đó là tài khôi hài của Ngô Thừa Ân.
Thật thế, thầy tṛ Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh, mang theo điệp thỉnh
kinh, đến nước nào xin chiếu khán nưóc ấy, chẳng khác ǵ sứ giả của vua
nhà Đường. Ngày ra đi, vua Đường Thái Tôn ban cho Đường Tam Tạng một b́nh
bát bằng vàng. Người tu hành không ai dùng b́nh bát vàng, khiến người đọc
có thể hiểu rằng, theo ư nhà vua, trao b́nh bát vàng đó cho Đường Tam
Tạng, để tới đất Phật, Đường Tam Tạng có lễ vật cúng dường đức Thế Tôn,
theo đúng nghi lễ thỉnh kinh. Trong truyện, Ngô Thừa Ân làm người đọc tin
là Đường Tam Tạng quên mất chiếc b́nh bát vàng này, nên không có lễ vật ra
mắt thỉnh kinh. Rồi tới lần thứ hai, tôn giả Ác Năng nhắc tới lễ vật thỉnh
kinh mới chợt nhớ là có b́nh bát và lấy làm lễ vật cúng dường thỉnh kinh.
Đẳng khác, hai tôn giả Ác Năng và Ca Diếp không cố ư lấy b́nh bát vàng để
chia nhau làm của riêng. Điều đó chứng tỏ không có truyện hai tôn giả này
đ̣i hối lộ rồi ‘xiết b́nh bát’, và hai vị tôn giả chỉ muốn duy tŕ nghi lễ
thỉnh kinh, đúng như lời Phật Tổ cho hay là ngài đă biết truyện nay, hai
người phát kinh không lỗi.
Viết ra một truyện không có thực mà khiến ngựi đọc tin là thực, rồi suy
nghĩ người đọc mới nhận ra là truyện hài hước bịa đặt: bút pháp Ngô Thừa
Ân quả là một bút pháp khôi hài.Với bút pháp này, Ngô Thửa Ân quả đă làm
đám ngựi trẻ đọc say mê và ngựi đọc lớn tuổi đọc rổi ngẫm nghĩ đó và
cười đó.
Trở lại truyện phát kinh không chữ. Ngày nay, kinh vô tự không phải là một
h́nh ảnh xa lạ trong văn học Việt Nam. Trong Bắc Hành Tạp Lục, kết luận
áng thơ dài Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thach Đài,
梁
昭
明
太
子
分
經
石
臺,
Nguyễn Du viết:
纔
知
無
字
是
真
經
Tài tri vô tự thị chân kinh
dịch là:
Rằng kinh không chữ chính là chân kinh
Câu thơ này dẫn người đọc về bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng:
菩
提
本
無
澍
Bồ đề bản vô thụ
明
鏡
亦
非
臺
Minh kính diệc phi đài
本
來
無
一
物
Bản lai vô nhất vật
何
處
惹
塵
埃
Hà xứ nhạ trần ai
nghĩa là:
Bồ đề chẳng phải cây
Gương sáng chẳng phải đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào vướng trần ai.
Phùng hữu Lan giảng là: [22]
Hai câu đầu của bài kệ của Huệ Năng ư nói: người ta không thể diễn tả đưọc
chân lư tuyệt đối. Hai câu sau ư nói: người ta không thể tu hành để đạt
được chân lư tuyệt đối ấy. Không thể tu hành không có nghĩa là không tu
hành, mà có nghĩa là: xem không tu hành là tu hành.
Thế nên, phải chăng theo Ngô Thừa Ân, khi Đường Tam Tạng đến thỉnh kinh
không theo nghi lễ thông thường, không có lễ vật thỉnh kinh, nào có khác
ǵ có dâng lễ thỉnh kinh; thế th́, kinh không chữ khác ǵ kinh có chữ?
Đằng khác, khi Đường Tam Tạng dâng b́nh bát vàng làm lễ vật thỉnh kinh,
th́ hai vị tôn giả phát kinh có chữ. Thế th́ câu truyện thỉnh kinh không
lễ vật, phát kinh không có chữ trên đây là thật mà là đùa. Phải chăng đó
là bút pháp khôi hài của Ngô Thừa Ân theo đúng lời mô tả chữ khôi hài của
Ben Jonson trích dẫn trên đây?
Câu truyện kinh vô tự c̣n dài, vượt quá giới hạn bài viết này, vậy người
viết xin tạm ngưng tại đây, chờ quư vị trưởng thượng chỉ giáo.
Nh́n sang phiá Đạo Giáo, có rất đông những nhà b́nh giải dựa theo niềm tin
Đạo Giáo coi bộ Tây Du Kư như một cuốn sách dậy cách luyện nội đan để đạt
được phép trường sinh bất tử.
Tiêu biểu cho giới b́nh giải này, trong thế kỷ thứ XVII, có Uông Tượng Húc
汪
像
旭 viết cuốn Tây Du
Chứng Đạo Thư
西
遊
證
道
書 năm 1663; sang
thế kỷ XVIII có Trần Sỉ Bân
陳
士
斌, viết cuốn Tây Du
Chân Thuyên
西
遊
真
詮, năm 1780; rồi
sang thế kỷ thứ XIX có Lưu Nhất Minh,
劉
一
明 xuất bản cuốn Tây Du Nguyên Chỉ,
西
遊
原
旨 năm 1820. Mỗi nhà
b́nh giải có một nhăn quan riêng để giải thích bộ Tây Du Kư. Nhưng cả ba
cùng chủ trương là tác giả bộ Tây Du Kưkhông phải là Ngô Thừa Ân đời Minh,
mà là một phương sĩ thuộc phái Toàn Chân
全
真, biệt hiệu là
Khâu Xử Ky,
邱
處
機, (Khâu Trường
Xuân,
邱
長
春, 1148-1227) người đời Nguyên. Điều đoan quyết này một phần
dựa trên sự kiện là bộ Tây Du Kư là một bộ kinh của Đạo Giáo, viết dưói
dạng khôi hài, như nhiều bộ kinh Đạo Giáo khác, để ngựi đệ tử Đạo Giáo
theo đó mà thực hành phép tu luyện nội đan với mục đích thành tiên bất tử.
Gần đây, Vương Quốc Quang [23] chứng minh rằng, những chương thứ 32 tới
66, sách Tây Du Kư là những chương hợp thành một bộ sách dậy luyện khí
công và chuyển vận nội công trong nội thân. Tiếp theo Vương Cương [24]
tiếp tục công tŕnh của Vương Quốc Quang chứng minh rằng những chương sách
Tây Du Kư từ 66 tới 100 bàn về phép luyện nội đan, và phép tu thân.
Bài viết này phỏng theo một công tŕnh của Jennifer Oldstone-Moore [25] ,
và dựa theo lập luận của Vương Quốc Quang và Vương Cương, dẫn tới việc t́m
hiểu, theo ngôn từ Đạo Giáo, ba chương 44, 45 và 46 sách Tây Du Kư [26] ,
ghi lại truyện khó khăn thầy tṛ Đường Tam Tạng trải qua tại Xa Tŕ Quốc.
Đối chiếu lời sách Tây Du Kư với tài liệu cổ, cho thấy tác giả Tây Du Kư
thường dùng h́nh ảnh làm biểu dụ cho phép luyện đan và điều ḥa nội công.
Trong ba chương này, biểu dụ là chiếc hà xa, mà dịch giả gọi là chiếc xe
gỗ đá để mô tả việc khổ công luyện phép điều công để đạt tới đưọc phép
trường sinh. Xử dụng hà xa là bước đầu trong Tiểu Chu Thiên (ṿng trời
nhỏ) trong công tŕnh luyện tập này. Ngoài ra, ba chương sách này này c̣n
ngầm răn dậy người luyện công phải t́m đưọc đúng thầy để học đạo, mới mong
tránh được những hậu quả tai hại do truyện luyện công, cũng như uống linh
đan, không đúng phép cùng sự rối loạn tĩnh tâm gây nên. Giới nghiên cứu
đồng ư rằng sách Tây Du Kư mô tả tỷ mỷ công tŕnh tu tập qua h́nh ảnh
những khó khăn mà thầy tṛ Đường Tăng hàng ngày trong cuộc hành tŕnh phải
khổ công đương đầu. Mỗi cảnh giới đoàn người thỉnh kinh đi qua tiêu biểu
cho một cơ quan trong cơ thể con người. Thế nên, ngược lại, muốn thấu
triệt lời sách Tây Du Kư, người đọc cần có một căn bản vũng vàng về việc
luyện công hay dùng linh đan.
Hành tŕnh qua Xa Tŕ Quốc, không chỉ là những h́nh ảnh để giảng giải cách
luyện công, mà c̣n là một truyện khôi hài xâu đậm. Theo chương 44 truyện
Huyền Tăng cùng, Tôn Ngộ Không, h́nh thù như con khỉ, Chư Bát Giới mặt mũi
tựa con heo và Sa Môn và con ngựa quư Long Mă, đang đi trên một băi cát
ven sông, bỗng nghe tiếng rên rỉ than van. Tôn Ngô Không đằng vân thám
thính, thấy một đoàn tỳ kheo gồm 500 người đang mệt nhọc đẩy một chiếc hà
xa chất đầy gỗ đá lên ngưọc dốc tích quan (dốc xương sống). Ngạc nhiên hơn
nữa là có hai đạo gia thuộc phái Toàn Chân, đang tiến tới gần đoàn tỳ
kheo. Đoàn tỳ kheo như sợ hăi, hùa nhau cố sức đẫy cỗ xe hà xa đi nhanh
hơn. Tôn Ngô Không lại được cho biết là mấy năm trước đây nước Xa Tŕ này
bị nạn hạn hán. Nhà vua truyền cho tỳ kheo Phật giáo làm lễ cầu đảo như vô
hiệu. Bỗng nhiên không biết từ đâu tới ba đạo sĩ tên là Hổ Lực Đại Tiên,
Lộc Lực Đại Tiên và Dương Lực Đại Tiên, và được nhà vua cho mời làm lễ cầu
mưa. Nước Xa Tŕ v́ vậy thoát nạn hạn hán. Và v́ vậy ba vị đạo sĩ được nhà
vua tin cẩn, không những được trọng thưởng hậu hỹ mà con được giao quyền
quản thúc đám tỳ khẻo, và tha hồ tác oai tác quái.
Tôn Ngộ Không liền ra tay sửa đổi t́nh thế tại nước Xa Tŕ, vung thiết
bảng băm hai đạo sĩ nát như tương. Rồi một đẩy chiếc hà xa tụt dốc, vỡ tan
thành muôn mảnh.
Đêm hôm đó Tôn Ngộ Không lại cùng Chư Bát Giới và Sa Tăng trá h́nh thành
ba đạo sĩ vào quán Tam Thanh, vật đổ tương Nguyên Thủy, Thái Thương, và
Linh Bửu ném xuống ao, rồi cả ba leo lên bàn thờ, giả làm tượng Tam Thanh
ngồi ăn hết cả hoa qua bánh trái. Bất ngờ có một tiểu đạo sĩ nhận ra là có
người ngồi trên bàn thờ hô hoán cầu cứu tới ba vị Đại Tiên vào truy xét
quanh bàn thờ. Chẳng t́m được ai, lại khấn vái xin nước kim đơn để uống
cho đạt được tới cơi trường sinh bất tử. Tương kế tựu kế, Tôn Ngô Không,
Trư Bát Giới và Sa Tăng lừa ba Đại Tiên tiểu tiện vào những lọ quư của ba
Đại Tiên đặt lên bàn thờ giả làm nước kim đan. Phát giác được quỷ kế, ba
Đại Tiên cùng bọn tiểu tiên vây đánh Tôn Ngô Không Chu Bát Giới và Sa
Tăng. Ba người phải đằng vân về chùa Sắc Tứ Trí tạm trú qua đêm.
Sáng ngày hôm sau, Đường Tăng cùng ba đồ đệ vào triều vua nước Xa Tŕ xin
đổi điệp thông hành. Đồng th́ lại có ba vị đạo sư vào tŕnh tấu. Nh́n thấy
bốn thầy tṛ Đường Tam Tạng, Hổ Lực Đại Tiên tŕnh lại việc đêm qua Tôn
Ngộ Không cùng Chu Bát Giới và Sa Tăng đến phá phách đàn lễ, và vụ đuổi
bắt không kịp. Vua nước Xa Tŕ truyền đem bốn thầy tṛ Đường Tăng ra chém.
Tôn Ngô Không biện bác khiến vua nước Xa Tŕ phân vân. Ngay lúc đó lại có
hương lư xin yết kiến, tâu tŕnh trời thiếu mưa, xin đảo hạn cứu mùa màng.
Nhân thế nhà vua cho phép thầy tṛ Đựng Tăng đấu phép củng ba Đại Tiên.
Bắt đầu là việc cầu mưa. Hổ Lực Đại Tiên trổ tài gọi gió gọi mưa; nhưng
Tôn Ngộ Không, đằng vân ngăn các thần gió thần mây thần mưa giúp Hổ Lực
Đại Tiên, và yên cầu những vị thần này trợ giúp ḿnh. Kết quả việc Hổ Lực
Đại Tiên đảo vũ không thành, và Tôn Ngộ Không thắng thế.
Ba đại tiên không chịu thua, bầy thi tài Vân Thê Hiển Thánh, ngồi yên hàng
giờ trên ghết đặt trên đài cao. Đường Tam Tạng quen ngồi thiền nên nhận
thi tài cùng Hổ Lực Đại Tiên. Hổ Lực dùng mưu gian toan hại Đường Tăng,
nhưng không qua nổi mắt Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không, tức giân, tương kế
tụu kế phản công khiến Hổ Lực rớt xuống chân đài gần bỏ mạng. Lộc Lực Đại
Tiên cũng không chịu thua, đề nghị thi tài thuật Bàng Xai Mai, bỏ một vật
vào tủ kín, ai đoán trúng th́ thắng. Qua ba lần thi tài, cả ba lần Tôn Ngộ
Không dùng thuật pháp thay đổi vật dấu trong tủ kín và thầy tṛ Đường Tam
Tạng lại thắng cuộc. Lần thi tài thú ba là thi chặt đầu, mổ bụng và tắm
dầu sôi, lần lượt Tôn Ngộ Không thắng Hổ Lực Đại Tiên, khiến đạo sĩ này
hiện nguyên h́nh là con hổ lông vàng mất dầu; rồi tới Lộc Lực Đại Tiên
thua Tôn Ngộ Không trong cuộc thi mổ bụng củng hiện nguyên h́nh thành con
nai trắng; sau hết Dương Lộc Đại Tiên thua Tôn Ngộ Không trong cuộc đua
tắm vạc dầu khiến thịt da tiêu tan chỉ c̣n bộ xưong dê. Vua nước Xa tŕ,
làm bài điếu thơ tế ba cố quốc sư như sau:
Gẫm lại làm người khó lắm thay
Quốc sư phép tắc chửa cao tay
Kêu mưa hú gió tài th́ khá
Mổ ruột tắm dầu chước chẳng hay
Kinh địch với trời kh́nh khó nổi
Chống ngăn cùng Phật chống sao tày
Công linh mấy chốc trôi ḍng nước
Cuộc thế hư nên chút rủi may.
Giới nghiên cứu đồng ư rằng theo nghĩa đen, ba Đại Tiên bỏ mạng chỉ v́ đă
học đạo tại chốn bàng môn tà phái. nên tài nghệ không đáng so với Tôn Ngộ
Không, một đệ tử chân truyền của nhà Phật. Theo sát cốt truyện, ba Đạo
Tiên này, ỷ mạnh mà đè nén đám 500 tỳ kheo bắt đẩy chiếc hà xa lên dốc
tích quan. Ngoài ra, ba Đạo Tiên này vốn là môn đệ bàng môn tà phái nên
chỉ học phép luyên thân mà không học phép tu tâm, bởi thế tài nghệ không
đạt được tới chốn toàn vẹn.
Giới nghiên cứu xác nhận rằng, để nhận nghĩa bóng của ba chương sách Tây
Du Kư trên đây, cùng tầm quan trọng của việc luyện nội đan,
內
丹, cần đối chiếu ba chương sách này với nhưng đoạn tương ứng
trong sách Phác Thông Sự Ngạn Giải bằng tiếng Đại Hàn.
Đoạn Xa Tŕ Hà Xa trong sách Pháp Thông Sự Ngạn Giải bắt đầu bằng một cuộc
đối thoại giũa hai người bạn về cái thú đọc bộ Đường Tam Tạng Tây Du Kư.
Người thứ nhất hỏi: “Đọc Tây Du Kư anh thấy hay dở ra sao?” Người thứ hai
trả lời: “Tay Du Kư là một bộ tiểu thuyết sống động. Lúc buồn buồn đọc
thấy vui. Ông có đọc đoạn thầy tṛ Huyền Tăng đi qua xú Xa Tŕ chưa?”
Trong sách Pháp Thông Sự Ngạn Giải, vị Đaọ Tiên chính tên là Bá Nhăn Đại
Tiên, một tay đàn áp đám tỳ kheo v́ thiên kiến chứ không phải do đă thắng
cuộc cầu đảo. Cũng như trong truyện Tây Du Kư, Tôn Ngộ Không đánh thắng Bá
Nhăn Đạo Tiên không cần đến sự trợ lực của Trư Ngộ Không và Sa Ngộ Tỉnh.
Tôn Ngô Không thắng Bá Nhăn Đại Tiên trong cả ba trận thi tài tựa như
trong Tây Du Kư. Bá Nhăn Đạo Tiên có hai đồ đệ, - tên là Lộc B́ chừ không
phải Lộc Lực - Lộc B́ bị chết trong cuộc thi tắm trong vạc dầu thay v́ thi
mổ bụng nhu trong Tây Du Kư. Giống như trong Tây Du Kư, Bá Nhăn Đạo Tiên,
chết trong cuộc thi chém đầu và hoá ra con hổ cụt đầu.
Chính v́ hai điểm khác nhau như trên giữa Tây Du Kư và Pháp Thông Sự Ngạn
Giải mà giới nghiên cứu t́m ra ư nghĩa của Tây Du Kư dạy phép luyện nội
đan. Một là chiếc hà xa đẩy ngược dốc tích quan; hai là ba vị đạo tiênHổ
Lực, Lộc Lực và Dương Lực, lần lưọt chết thảm v́ bị chặt đầu, mổ bụng và
tắm vạc dầu.
Đối chiếu với sách cổ, Anthony Yu [27] thấy là tác giả Tây Du Kư viết đọan
tỷ thí cầu đảo, trong truyện xứ Hà Xa, dựa vào tiểu sử Phật Bất Không,
trong Tống Cao Tăng Truyện. Đàng khác, Lưu Tồn Nhân [28] đă lấy truyện Hà
Xa để đề ra mối tương quan giữa tập tục của Giáo Phái Toàn Chân và tiểu
thuyết Tây Du Kư.
Hai danh từ tích quan, tức xương sống, và hà xa là hai danh từ thông dụng
trong phép nội đan
內
丹 một phép tu luyện
thành tiên trường sinh bất tử, phát hiện sau phép ngoại đan
外
丹 dùng linh đan.
Linh đan thường thuờng được tôi luyện công phu từ những kim loại và linh
dưọc khác. Trái lại, phép nội tán dùng phép nhập định củng nhiều phương
pháp tu tập khác để hưóng dẫn khí huyết trong cơ thể theo ư muốn để đạt
dược phép trường sinh thành tiên bất tử.
Phép nội tán phát xuất từ thời nhà Đường nhà Tống. Theo phép này th́ tu
tâm và luyện tập thân thể bổ túc cho nhau trong việc luyện phép trựng
sinh. Nguyên tác chính của nội tán là phép phản hồi
反
回 tạo nên ḍng
nghịch lưu
逆流 hay nghịch hành
逆
行 bằng phép nhập
định làm đổi chiều lưu hành của khí huyết cũng như tinh dịch trong cơ thể.
Khi nhập định để tạo ra ḍng nghịch lưu, người tu luyện phải thực hành
phép nội quan
內
觀 để theo rơi ḍng nghịch lưu trong cơ thể. Theo ngôn ngữ Đạo
Giáo, mỗi cơ quan trong thân thể con người thựng tương ứng vói một cơ sở
ở ngoại cảnh. Cái đầu tương ứng với núi Côn Lôn
崑
崙, cuống họng với
một cái tháp cao 12 tầng, và cuối cùng là vĩ lư
尾
閭 tương ứng với trái thận và bộ phận sinh dục. Tích quan hay
xương sống cũng là một cơ sở, dẫn từ xương cùng lên tói đầu phải qua một
cái cổng và ba chướng ngại vẫt. Trong phép nhập định ḍng tinh khí
精
氣, (semen) và ḍng thần khí
神
氣 đi ngược xương
sống lên tới óc. Phải mất rất nhiều công phu tu luyện mới đạt được tới kết
quả này.
Hà xa là h́nh ảnh chiếc xe chở khí huyết ngược tích quan, xương sống về bộ
óc. Đó chính là phép nội đan của phái Chung Ly
鐘
離 của Đạo Giáo, do
Chung Ly Quyền
鐘
離
權, người đời Hán và
đệ tử là Lữ Đồng Tân
呂
潼
賓 phát hiện nay c̣n
chép trong chương Luận Hà Xa,
論
河
車 sách Chung Lư
Truyện Đạo Tập,
鐘
呂
傳
道
集 . Trong chương Luận Hà Xa, Chung Ly giảng là với phép nhập
định, người tu tiên hướng ḍng nghich lưu đưa tinh khí thần khí lê tới Nê
Hoàn
泥
丸 (năo) vào Hoàng Đ́nh
黃
庭, rồi tới Đan Điền
丹
田, qua ba chăng ấy
tinh khí và thần khí lần lượt biến thành ngọc dịch
玉
液 và kim dịch
金
液. Tùy theo nhiệm sở, Chung Ly đặt tên cho ba hà xa đó theo thứ
tự là dương xa
羊
車, lộc xa
鹿
車 và đại ngưu xa
大
牛
車. Cả ba loại hà xa
này cùng phăi qua nhất tràng tam quan
一
撞
三
關. trong việc
chuyển vận đái vật nhi tố đan
戴
物
而
做
丹.
Tác phẩm nói trên của Chung Ly là một kinh điển quan trọng của phái Toàn
Chân thuộc Đạo Giáo. Sau khi Vương Triết
王
晢 ngựi sáng lập ra
phái Toàn Chân, chầu trời, phái này tách ra làm hai: Bắc Tông và Nam Tông.
Bắc Tông do Khâu Trường Xuân, một cao đồ đứng đầu các đệ tử của Vưong
Triết chủ trương. Theo lịch sử, Khâu Trường Xuân từng đưọc bệ kiến Thành
Cát Tư Hăn năm 1222 và là người mà các tín đồ Toàn Chân coi là tác giả bộ
Tây Du Kư và coi bộ tiểu thuyết này như bí phổ dạy phép nội đan.
Giới nghiên cứu cho rằng phép nội đan của Bắc Tông, chép trong sách Bí
Truyền Chính Dương Chân Nhân Linh Bảo Tât Pháp,
秘
傳
正
陽
真
人
靈
寶
畢
法 là phép nội đan có từ đời nhà Tống. Phép nội đan này dùng
nhập định tâp trung tinh, khí, thần rồi hướng thành ḍng ngược chiều với
ḍng luân lưu của cơ thể, chay ngưọc xương sống lên óc. Lên tới óc ḍng
tinh khí thần đó đổ xuôi xuống nuôi cơ thể người luyện pháp.
Baldrian-Hussein, Farzeen [29] , tả chi tiết phương pháp này trong cuốn
Procédés secret du Joyau magique, với những khó khăn khi ḍng tinh, khí,
thần ngược xương sống, qua ba ải, lần lượt tiêu biểu bằng dương xa, lộc xa
và kim ngưu xa.
Phép nội đan của Bắc Tông hoàn toàn là một phép dùng nhập định, khác hẳn
phép Hoàn Tinh Bổ Năo của Nam Tông. Phép nội đan của Nam Tông có từ đời
nhà Hán và chép trong sách BăoPhác Tử. đời Lục Triều, và quen gọi là phép
Hoàn Tinh Bổ Năo. Theo phép này người luyện phép, lúc sắp xuất tinh, dùng
ngón tay bóp mạnh ngọc hành để khỏi xuất tinh, tinh khí chạy ngược lên đầu
nuôi óc. Henri Maspéro mô tả phép này đầy đủ trong cuốn Le Taoism [30] .
Qua nhưng vaqan bản về phép nội đan Bắc Tông, người đọc thấy là nhhung
h́nh ảng trong đoạn sách Tây Du Kư, kể truyện đoàn người thỉnh kinh phải
đương đầu tại nước Hà Xa, có những điểm đáng ghi nhân như sau:
– nhưng h́nh ảnh này không có trong bản Pháp Thông Sự Ngạn giải;
- những h́nh ảnh đó tương ứng với nhiều bộ phận trong cơ thể con người.
Bắt đầu là h́nh ảnh tích quan, tức xương sống tiêu biểu bởi cái dốc mà đám
500 tỷ kheo phải khó nhọc đẩy chiếc hà xa. Chiếc hà xa lúc này chở đầy đá
đất chậm chạp nặng nhọc lên dốc, tiêu biểu cho cái khó khăn của ngựi
luyện nội đan, ngưng tụ đước tinh, khí, thần và khó khăn đẩy đám tinh khí
và thần đó ngược lên xương sống.
Tiếp theo, truyện Tây Du Kư kể tới tích ba Đại Tiên, tương ứng với ba ải
mà người luyện nội đan phải đẩy ḍng tinh, khí và thần đi qua. Hổ Lực Đại
Tiên, tiêu biểu cho Kim Ngưu Xa, phải vượt qua ải tại cổ người luyện nội
đan. H́nh ảnh ḍng tinh khí thần vướt qua ải này tương ứng với h́nh ảnh Hổ
Lực Đại Tiên bị mất đầu. Lộc Lực Đại Tiên tiêu biểu cho cửa ải ở khúc bụng
người luyện nội đan. H́nh ảnh ḍng tinh khí thần vượt qua ẳi này tương ứng
với h́nh ảnh Lộc Lực Đại Tiên bị mổ bụng. H́nh ảnh ḍng tinh, khí, thần
xuống tới ải ở phần bụng dưói bàng quang đựng nước tiểu cũa người luyện
nội đan, lại thêm nhiệt đô tại phần này luôn luôn cao nên tương ứng với
h́nh ảnh một chiếc vạc dầu Đẩy được ḍng tinh khi và thần qua ải thứ ba
này là h́nh ảnh Dương Lực Đại Tiên bị tiêu sác trong vạc dầu. Cái chết của
cả ba Đại Tiên tiêu biểu cho niềm nguy hiểm cho nhưng ai học phép nội đan
không có thầy, và học được phép lạ theo bàng môn tà đạo. Ngược lại, Tôn
Ngộ Không, theo Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh, lại là đệ tử của chính phái,
nên có sức mạnh thần thông đồng thời có chính nghỉa nên đánh đâu thắng đó.
Sau hết, tổng kết về toàn thể ba hồi 44, 45 và 46 sách Tây Du Kư là một
vấn đề mà giới phê b́nh không nhất trí. Theo Plaks [31] , th́ chủ y cả ba
hồi này là đặt vấn đề tu tâm cao hơn truyện tu thân trong việc luyện phép
nội đan. Trái lại, theo Jennifer Oldstone-Moore th́ truyện tu tâm và tu
thân quan trọng như nhau trong việc luyện nôi đan, qua nhưng h́nh ảnh
tŕnh bày trong ba hồi này. Phải trái ra sao phải chăng chỉ có ai có kinh
nghiệm bản thân về việc luyện nội đan mới trả lời nổi?
Trên đây là hai thí dũ về việc đọc và b́nh giảng bộ Tây Du Kư. Câu hỏi kế
tiếp là đọc tiểu thuyết Tây Du Kư có gợi hứng sáng tác cho người Việt Nam
không?
T́m trong truyện cổ tích Việt Nam người đọc t́m thấy truyện ngắn:
Người Đi T́m Kinh Phật [32]
Ngày xưa, ở đất miền Nam có một nhà sư dốc một ḷng tu hành tên là Nguyễn
Được. Một hôm nằm mộng thấy Bồ Tát hiện ra bảo: “Ngày mai ngươi cùng các
môn đệ hăy đi về phía Tây. Nếu ngươi vượt qua được nhưng gian nan lao, khổ
hạnh trên đường thử thách th́ sẽ t́m thấy Chân Kinh, và đọc dược Chân kinh
th́ sẽ đắc đạo thành chánh quả”
Hôm sau, nhà sư theo lời báo mộng, cùng các môn đệ lên đường, nhắm về
hướng Tây mà đi. Ngày đi đêm nghỉ, đoàn người áo vàng lặng lẽ chân dẫm
đất, tay lần tràng hạt, theo đúng lời phát nguyện khi ra đi là không ai
thốt ra lời nào trước khi t́m thấy chân kinh. Họ không quản nắng mưa, dói
khát, sống nhờ của thập phương. Mỗi khi họ đi qua các làng, dân chúng đem
thức ăn uống ra đứng hai bên đường chực sẵn để trút vào bát của đoàn Phật
tử. Có khi họ đi hàng mấy ngày không gặp một ai, đành nhịn đói chịu khát,
hoặc hái hoa trái bên đường ăn cho đỡ dạ. Con đường đi càng dài, hàng ngũ
các môn đệ càng thưa dần. Người v́ bệnh tật không thể lê chân đi đưọc nữa,
người th́ tự xét ḿnh kiếp này c̣n vụng đường tu, khó ḷng đi tới nơi để
thành đạo, đành dừng lại ở một nơi để tu hành, người th́ thấy đường dài
khó khăn, mất dần ḷng tin mà quay trở lại.
Cho đến một ngày kia, chỉ c̣n trơ trọi một ḿnh nhà sư họ Nguyễn trên con
đường vắng vẻ đi về phương Tây. Các thần linh hiện ra giúp nhà sư vượt qua
những trở ngại chồng chất liên tiếp trên đường. Có khi vừa lên dến đỉnh
một ngọn núi cao, nhà sư đă được thần linh đưa qua một núi khác, khỏi phải
xuống núi hiểm nghèo, rồi lại phải leo dốc khổ nhọc. Mặc dù ngăn núi cách
sông, đường đi muôn vàn trở ngại, nhà sư vẫn quyết một ḷng đi cho đến
đích.
Dấu chân nhà sư ngày nay c̣n in trên các ngọn núi đă đi qua. Một hôm nhà
sư đi đến bờ biển, không trông thấy thuyền bè, không một bóng người, và
trước mặt là biển cả mênh mông. Nhà sư vẫn không nản chí, ḷng tưởng tới
Phật, chân cứ bước tới, nghĩ rằng niềm tin sẽ giúp ḿnh vượt khỏi trùng
dương. Thế rồi nhà sư đi xuống nước, sóng khỏa đến nửa thân. Bỗng thấy một
con cá ḱnh bơi vào đưa lưng cho nhà sư ngổi lên. Nhà sư điềm nhiên ngồi
lên lưng con cá lón, nổi tiếng ăn thịt người, để cho cá phóng chở ra khơi.
Ban ngày cá kinh theo hướng mặt trời, ban đêm theo hướng sao, cứ thế mà
bơi theo con đường thẳng hướng về phía Tây. Gặp hôm nắng cháy thiêu người,
có từng đàn hải điểu bay đến tụ họp trên đầu nhà sư để làm bóng che như
một đám mây. Buổi chiều có từng đàn ong bay đến đem mật đặt lên môi nhà
sư.
Cá ḱnh chở nhà sư đi đă không biết bao nhiêu ngày đêm, một hôm bỗng dưng
lại nói rằng: “Mô Phật, nhà sư đi t́m Chân Kinh để được đắc đạo có thể
nghe lời thỉnh nguyện của tôi được không?” Nhà sư trả lời :”Được”, quên
rằng ḿnh đă phạm vào lời nguyện giữ yên lặng cho đến khi t́m thấy Chân
Kinh. Cá ḱnh kể lể: “Từ mấy ngàn năm nay tôi đă trựng trai để chuộc tội
lỗi trưóc kia. Tôi bị bắt buộc phải ăn thịt, trong khi tôi đă kinh sợ mùi
thịt và đă quên cả vị cá tôm. Xin nhà sư hăy cầu nguyện cùng Đúc Phật cho
tôi thoát được ṿng khổ ải này”. Nhà sư đáp lại: “Được”, phạm vào lời
nguyện lần thứ hai.
Ḱnh ngư lại tiếp tục bơi về phương Tây, cho đến một hôm th́ thấy bờ. Nhà
sư Nguyễn Được trở lên đất liền, thấy một ngôi chùa bỏ hoang, trong đó có
để một chồng sách kinh, song nhà sư Nguyễn Dược đă hai lần phạm lời
nguyện, nên chỉ đọc ra được có một câu đầu: “Nam mô bỏn sư Thích Ca Mầu Ni
Phật.”
Nhà sư không nản chí, gấp kinh lại, bỏ vào đẫy rồi trở lại bờ biển, lên
lưng cá trở về. Trong khi vượt biển, nhà sư mải mê theo lời kinhđă đọc
được, không để ư đến vẻ buồn rầu của ḱnh ngư. Lúc thấy đất liền, cá ḱnh
ngừng lại hỏi rằng: “Nhà sư có nhó đạt lời thỉnh nguyện của tôi lên Đức
Phật chăng? Tôi c̣n phải ở trong ṿng khổ ải trầm luân này bao lâu nữa?”
Nguyễn Được đang thiền định, nghe nói giật ḿnh, để rơi cả đẫy đựng kinh
xuống biển. Cá ḱnh ngỡ là vật cứu rỗi của nhà sư ban cho, liền đớp lấy
nuột vào bụng cả pho Chân Kinh.
Nhà sư lảo đảo bước lên bờ, thẫn thờ đi, miệng vẫn th́ thầm câu kinh đă
học được, không ngờ là cá ḱnh đă đưa ḿnh dạt lên đảo Phú Quốc. Trong mấy
năm c̣n sống, nhà sư đêm ngày vẫn thác mắc nghĩ đến cuốn Chân Kinh. Đến
khi gần chết, Nguyễn Được khắc lên đá núi Băi Sập và núi Thạch Động câu
kinh ḿnh đă học được.
Về sau để ghi nhớ việc t́m Chân Kinh đă sẩy đến cho Thầy và mong cho thầy
sớm được Phật độ, các môn đệ lấy gỗ chạm h́nh con cá ḱnh để làm mơ tụng
kinh. Rồi từ đó, các nhà tu hành mỗi khi tụng kinh đều gơ vào đầu cá ḱnh
và đọc câu: “Nam mô bổn sư Thích Ca Mầu Ni Phật.”
Đối chiếu toàn bộ Tây Du Kư với truyện Người đi T́m Kinh Phật một cách
tổng quát cho thấy hai văn phẩm này có chung một cốt truyện. Đó là truyện
đi về phương Tây trải nhiếu khó khăn để thỉnh kinh. Nhưng nếu đối chiếu ư
ngoài lời, hai cuốn truyện này có nhiều điểm khác nhau hơn là giống nhau.
Bắt đầu là ư chí đi thỉnh kinh. Trong Tây Du Kư, vua Đường Huyền Tôn được
Phật Quan Âm cho biết tại chùa Lôi Âm bên nưóc Thiên Trúc có ba tạng kinh
của Phật Tổ, nên nhà vua t́m người có ḷng thành đi Tây Phương thỉnh kinh.
Nhà sư Huyền Trang tự nguyện phụng chỉ ra đi, vua cấp thông hành cho Đường
Huyền Tăng, ban thêm một b́nh bát bàng vàng, hai tên tùng giả và một con
ngựa đỡ chân.
Trong truyện Người Đi T́m Kinh Phật, một vị Bồ Tát hiện lên cho nhà sư
Nguyễn Được biết là ngày mai cùng môn đệ lên đường đi về phía Tây, nếu
vượt qua đưọc gian lao thử thách th́ sẽ t́m được Chân Kinh và sẽ đắc đạo.
Như vậy Đường Huyền Tăng tuân lệnh vua đi Tây Trúc thỉnh kinh, được vua
đặt pháp danh là Đường Tam Tạng, được vua nhận làm ngự đệ, Nhận danh vọng
và pháp danh,Tôn Ngộ Không lẫy lừng lên đường. Nhà sư Nguyễn Được ra đi
cùng môn đệ, chân dẫm đất, tay lần tràng với một lời tự nguyện nếu chưa
t́m thấy Chân Kinh th́ chưa nói một lời.
Dọc đường, Đường Tam Tạng thu nạp Tôn Ngộ Không, tài nghệ xuất chúng, từng
lên phá thiên đ́nh khiến Ngọc Hoàng phải phong chức Tề Thiên Đại Thánh Để
cầu ḥa, rồi thâu nạp Trư Ngộ Giới một hảo hán tham ăn, tục uống, si mê
đàn bà con gái nhưng chịu khó gồng gánh dọc đường và sau cùng thu nạp Sa
Ngộ Tịnh tính khí rụt rè nhút nhát chăn nuôi ngựa cho Đường Tăng. Người
đọc thấy cảm dường như cả ba vai Tôn Ngộ Không, Trư Ngộ Giới và Sa Ngộ
Năng như ba bộ mặt con người của Đường Tam Tạng. Lúc nhận làm ngự đệ của
vua Đựng cũng như nhân pháp danh Đường Tam Tạng, Huyền Tăng sung sướng
chẳng khác ǵ Tôn Ngộ Không được Ngọc Hoàng phong cho làm Tề Thiên Đại
Thánh. Nhận lănh nhiệm vụ đi Tây Trúc thỉnh kinh, dầu biết là chuyền đi
đầy gian nan nguy hiểm, Huyền Tăng có nét giống Tôn Ngộ Không chẳng sợ
hiểm nguy lên phá thiên đ́nh. Xuốt 81 đại nạn trên đựng đi thỉnh kinh,
nhiều lúc Huyền Tăng v́ chữ từ bi cũng có khi yếu ḷng như Trư Bát Giới,
cũng có lần dụt dè như Sa Ngộ Năng. Phải có sức mạnh cùng trí thông minh
tài tháo vát của Tôn Ngộ Không cùng sự trợ giúp hữu ích khi cần của Trư
Ngộ Năng và Sa Ngộ Tĩnh, Đường Tang mới đến được núi Linh Sơn thỉnh kinh.
Trái lại, đám môn đệ của nhà su Nguyễn Đưọc thưa dần cho tới lúc chỉ c̣n
có một ḿnh nhà sư tiếp tục cuộc hành tŕnh. Trời Phật thần thánh luôn
luôn phù hộ độ tŕ cho thầy tṛ Đường Tăng. Mỗi khi bị yêu ma cản đựng
Tôn Ngộ Không biết sức mỉnh không thắng nổi là một lần Tôn Ngộ Không bay
đi cầu viện trời Phật thần thánh, không lần nào lời cầu viện của Tôn Ngộ
Không không được chấp nhận. Thầy tṛ Đường Tăng lại một lần thoát nạn.
Suốt thời gian vượt biển, sư Nguyễn Được cũng đưọc trời Phật che chở. Ngồi
trên lưng ḱnh ngư, nếu trời quá nắng th́ có chim biển tụ thành đàn như
đám mây che nắng , hay có đàn ong bay đến nhả mật trên môi nhà sư Nguyễn
Được.
Con ḱnh ngư giữ một vai quan trọng trong truyện Người Đi T́m Kinh Phật là
h́nh ảnh biến cải của một con rùa thần Thủy Nguyên, tu luyện đă lâu năm
trả ơn Tôn Ngộ Không. Truyện tóm tắt như sau :[33]
Thầy tṛ Đường Tăng đến sông Thông Thiên, được biết là Linh Cảm Đại Vương
hàng năm bắt dân phải hiến đồng nam đồng nữ ăn thịt. Tôn Ngộ Không và Trư
Bát Giới trá làm đồng nam đồng nữ ác chiến với Linh Cảm Đại Vương. Linh
Cảm Đại Vương biết sức, ở trên bộ, không địch nổi bèn trốn vè thủy động.
Rồi lập kế làm nước sông Thiên Thông đóng băng, thầy tṛ Đường Tăng nóng
ḷng tới được đất Phật, vượt sông trên mặt băng. Ra tới giữa sông Linh Cảm
Đại Vương làm băng tan, và bắt được Đường Tăng. Đồ đệ Đường Tăng không
thắng nổi Linh Cảm Đại Vương ở dưới nước để cứu thầy. Tôn Ngộ Không phải
đi cầu viện Phật Bà Quan Âm. Nghe tin Đường Tăng mắc nạn, Phật bà vội vă
xách rỏ ra đi, không kịp cả trang điểm. Đến bến sông Thông Thiên, Phật bà
niệm chú bắt Linh Cảm Đại Vương, hiện nguyên h́nh là một con cá vàng bỏ
vào rỏ. Đường Tăng một lần nữa thoát nạn lớn. Dân chúng khắp vùng, nhớ ơn
Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới sắp sửa thuyền bè đưa đoàn người thỉnh kinh
qua sông. Liền khi đó có một con rùa hiện ra xin đưa bốn thầy tṛ Đường
Tăng và con ngựa qua sông. Tôn Ngộ Không sợ lại bị trúng quỷ kế, dọa đánh
chết rùa. Rùa nói: “Tôi vốn là Thủy Nguyên, tu luyện dă lâu năm, nay cám
ơn Đại Thánh đến đây cứu giúp, sao lại đ̣i đánh tôi.” Rồi Thủy Nguyên nói
tiếp: “Nguyên ông bà tôi đều ở sông này tu hành có công, sau lập dinh Thủy
Nguyên mà ở. Chẳng ngờ cách đây chín năm, nước sông dâng cao, con quái kia
từ đâu đến chiếm Thuỷ Nguyên Động, đuổi gia đ́nh tôi đi. Nay nḥ Đại Thánh
thỉnh Bồ Tát bắt con quái ấy, gia quyến tôi được trở về đoàn tụ. V́ vậy
tôi mang ơn.”
Tôn Ngộ Không bảo Thủy Nguyên ḅ lên mé sông, rồi bốn thầy tṛ cùng con
ngựa cùng lên lưng Thủy Nguyên. Thủy Nguyên ḅ xuống nước, vưon ḿnh lội
như bay, chẳng mấy chốc sang tới bờ bên kia. Qua đến bờ, Đường Tam Tạng
chắp tay tạ ơn Thủy Nguyên. Thủy Nguyên nói: “Tôi chẳng mong việc đáp đền.
Song nghe đồn Phật Tổ bên Tây Phương biết việc vị lai quá khứ, vậy xin gởi
ḷi nhờ sư phụ đến đó hỏi xem tôi tu đă hơn một ngàn ba trăm năm, cớ sao
không hóa đưọc h́nh người, mặc dầu biết nói và sống lâu.”. Đường Tam Tạng
nhận lời hỏi giúp. Thủy Nguyên vẫy đuôi lặn xuống sông, bốn thầy tṛ Tam
Tạng ngắm hưóng tây thẳng tiến.
Trong toàn bộ Tây Du Kư, Thủy Nguyên chỉ hiện ra có một lần này. Rồi đến
đoạn Đường Tam Tạng ra mắt Phật Tổ tại núi Linh Sơn, quá bận rộn về truyện
kinh không chữ và kinh có chữ, đọc giả không thấy Đường Tăng chuyển đạt
câu hỏi của Thủy Nguyên lên Phật Tổ.
Trở lại truyện Người Đi T́m Kinh Phật, ḱnh ngư giữ vai tṛ quan trọng,
không những đă đưa nhà sư Nguyễn Được vượt biển tới đất có ngôi chùa cổ
tàng kinh, rồi đưa về tới đảo Phú Quốc, mà cá ḱnh đă hai lần làm nhà sư
phạm lời nguyện giữ im lặng cho tới khi t́m thấy chân kinh; và lần thú hai
là lần cá ḱnh xin hỏi nhà sư đă chuyển lời cá ḱn khẩn cầu nguyện Phật Tổ
cho thoát kiếp khổ ải làm cá ḱnh. Câu cá ḱnh năn nỉ nhà sư tương tự như
câu Thủy Nguyên nhờ Đường Tam Tạng hỏi Phật Tổ. Lời cá ḱnh kể lể như sau:
“ Từ mấy ngàn năm nay tôi đă trường trai để chuộc tội lỗi trước kia. Tôi
bị bắt buộc phải ăn thịt, trong khi tôi đă kinh sợ mùi thịt và đă quên cả
vị tôm cá. Xin nhà sư hăy cầu nguyện cùng Đức Phật cho tôi thoát được ṿng
khổ ải này.”
Đối chiếu lời Thủy Nguyên nói với Đường Tam Tạng với lời ḱnh ngư nói với
nhà sư Nguyễn Được, người đọc thấy hai lời đó có điểm tương đồng và khác
biệt. Thủy Nguyên xin Phật Tổ, thần thông biết rơ việc quá khứ tuơng lai,
cho biết tại sao tu tập suốt một ngàn ba trăm năm qua mà chưa được làm
người. Ḱnh Ngư, đă trường trai cả ngàn năm qua, nay xin nhà sư Nguyễn
Được cầu Đức Phật cho sớm thoát ṿng khổ ải. Thủy Nguyên xin Phật Tổ trả
lời một câu hỏi; ḱnh ngư xin Phật tổ ban ơn để sớm thoát ṿng khổ ải.
Lời cá ḱnh cầu Phật ban ơn cho sớm thoát ṿng khổ ải là một điểm người
đọc thường gặp trong văn học Việt Nam. Câu số 19 bài Chiêu hồn Thập Loại
Chúng Sinh, Nguyễn Du viết [34] :
Muôn nhờ Đức Phật từ bi
Trong bài Thanh Giang Tự Tỵ Thử,
青
江
寺
避
暑, Nguyễn Khuyến
viết:
但
求
人
世
憐
Đăn cầu nhân thế liên
dịch là:
Đoái thương nhân thế muôn vàn cậy trông
Hai nhà thơ, một làm thơ nôm, một làm thơ Việt Âm, như cùng gặp tác giả
khuyết danh truyện Người Đi T́m Kinh Phật, cả ba cùng tin tưởng ở phép
Phật từ bi. Phải chăng đó là một căn tính của người Việt Nam tin ở Đạo
Phật?
Bởi đă hai lần phạm lời phát nguyện, giữ im lặng cho tới khi t́m được Chân
Kinh, khiến khi có Chân Kinh trong tay nhà sư Nguyễn Được chỉ đọc ra được
một câu đầu:
Nam mô bổn sư Thích Ca Mầu Ni Phật.
Khi về gần đến đảo Phú Quốc, cá ḱnh hỏi nhà sư rằng: “Nhà sư có nhớ đạt
lời thỉnh nguyện của tôi lên Đúc Phật chăng? Tôi c̣n phải ở trong ṿng khổ
ải trầm luân này bao lâu nữa?”. Câu hỏi này làm nhà sư đang nhập thiền
giật ḿnh, để rơi cả cái đẫy đựng kinh xuống biễn. Cá Ḱnh ngỡ là vật cứu
rỗi của nhà sư ban cho, liền đóp lấy cái đẫy để kinh vào bụng. Thế là sau
cả một công tŕnh đi t́m Chân Kinh, nhà sư Nguyễn Được chỉ đọc được chín
chữ trên đây. Nhà sư Nguyễn Được nắm được trong tay bản Chân Kinh có chữ
mà cũng như Chân Kinh không chữ.
Người đọc truyện nhớ tới năm chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” của phái Tịnh Độ
Tông, đọc theo dịch âm chứ không theo nguyên âm Sancrist hay dịch nghĩa.
Truyền thuyết nói[35] một số tín đồ nhiệt thành đă niệm câu này một ngày
hơn mười vạn lần. Lập lại danh hiệu của đức Phật A Di Đà, tín đồ Tịnh Độ
Tông mong đạt tới điều quen gọi là an tâm. Đó là pháp môn Niệm Phật.
Phải chăng niệm chín chữ:
Nam mô bổn sư Thích Ca Mầu Ni Phật
là niệm danh hiệu Đức Phật Thích Ca, người đầu tiên trong lịch sử đă mang
bản nguyện của Phật A Di Đà đến cho chúng sinh. Nhắc tới danh hiệu của đức
Phật Thích Ca, phải chăng cũng nhắm cùng một mục tiêu an tâm như nhắc tới
danh hiệu Đức Phật A Di Đà ? Phải chăng đó cũng là pháp môn Niệm Phật?
Như vậy, nếu nhà sư Nguyễn Đuợc là một môn đệ phái Tịnh Độ Tông, phải
chăng chín chữ
Nam mô bản sư Thích Ca Mầu Ni Phật
cũng đủ coi là đủ đền bù cho công tŕnh của ngài đi t́m Chân Kinh ?
Phải chăng, như vậy truyện Người Đi T́m Kinh Phật trong toàn bộ truyện dân
gian, đáng được coi là một biến cải của bộ Tây Du Kư của Trung Quốc.
IV
Đi xa hơn nữa vào việc nghiên cứu nhưng biến cải từ văn học Trung Quốc
sang văn học dân gian Việt Nam xin dành cho giới nghiên cúu. Tương tự, xét
những biến cải từ văn học Trung Quốc sang thơ văn Việt Âm cũng như sang
văn học nôm là một vấn đề rộng lớn, giúp người đọc nhận diện ra được văn
học Việt Nam trong văn học Đông Á bên cạnh văn học Nhật Bản và Đại Hàn.
Những trang kế tiếp tŕnh bày một vài ư niệm về việc tự dịch tác phẩm văn
học trong khuôn khổ việc nghiên cúu văn học hậu ngoại thuộc. Vấn đề này
trong một vài năm nay sôi động trong giới nghiên cứu văn học cũng như
trong trào lưu nghiên cứu hậu ngoại thuộc.
Trong văn học Việt Nam, cho tới đầu thế kỷ XX, khi chữ nho mất địa vị độc
tôn, có rất đông tác giả chỉ sang tác bằng chữ nho. Một số nhỏ sáng tác
vừa bằng chữ nho vừa chữ nôm, tiêu biểu là Nguyễn Trăi (1380-1442) đề lại
Úc Trai Thi Tập bằng chữ nho và Quốc Âm Thi Tập bang chũ nôm. Vua Lê Thánh
Tôn (1442-1497) có nhiều thơ xưóng họa trong hội Tao Đàn bằng chữ nho và
một số thơ nôm. Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) có Bạch Vân Am
Tập bằng chữ nho và Bạch Vân Quốc Ngữ Thi bằng chữ nôm. Sang đời nhà
Nguyễn có Nguyễn Du để lại ba tập tho chữ nho Thanh Hiên Thi Tập, Nam
Trung Tạp Ngâm và Bắc Hành Tạp Lục cùng nhiều thơ chữ nôm. Mối tương quan
giữa thơ chữ nho và thơ chữ nôm của nhưng nhà thơ kể trên là một vấn đề
chưa có ai nghiên cứu tựng tận.
Đằng khác, có Cao Bá Quát (?-1854) chỉ làm thơ chữ nho. Hồ Xuân Hương,
ngưọc lại chỉ làm thơ chữ nôm.
Giữa hai chiều hướng sang tác này có Nguyễn Khuyến (1835-1909) là một nhà
thơ sáng tác cả bằng chữ nho và chữ nôm; trong đó có nhiều bài ghi rơ là
tự dịch từ những bài chữ nho.
Trên thi đàn thế giới, chỉ có một số không ngoài vài mươi nhà thơ tự dịch
thi văn phẩm của chính ḿnh như Nguyễn Khuyến. T́m hiểu phương pháp tự
dịch của Nguyễn Khuyến, dùng những phưong pháp nghiên cứu việc tự dịch của
những nhà thơ nhà văn tự dịch này là chủ đích của những trang kế tiếp
Giới nghiên cúu thường nhắc tới Rabindranath Tagore (1861-1941), người xứ
Bengali. Với thi phẩm mang tựa đề Gitanjali: Song Offering ông đă đoạt
giải Nobel năm 1913. Từ 1912 tới 1921 ông dịch tiếp năm tập thi tuyển cùa
chính ông.
Đồng thời với Rabindranath Tagor, có Stefan George (1868-1933), người Đức,
từ nhỏ đă nói thông thạo tiếng Đức và tiếng Pháp. Sau đó ông học thêm
nhiếu tiếng khác như cổ ngữ Hy Lạp, Latanh, Tây Ban Nha, Ư, Anh, Hoà Lan,
Ba Lan và NaUy. Khi khởi nghiệm văn thơ Stefan George thú thục là, biết
quá nhiều ngoăi ngữ khiến ông không biết viết bằng tiếng nào nữa. Sau đó
ông trở thành một nhà thơ nổi tiếng tại Đức khiến năm 1933 phong trào Quốx
Xă Đức cố t́nh lôi cuốn ông vào hang ngũ. Sau khi ông chết, thơ ông xuất
bản năm 1934 và 1936, trong tập Schlussband có hai bài thơ tiếng Anh nổi
tiếng: Those Who Lived in Dreams và You Boldly Ceased to Love the God of
Yore, cùng ba bài tiếng Pháp: Proverbes, Frauenlob và D’Une Veillée, do
chính ông tự dịch từ bản tiếng Đức.
Tiếp theo Tagor và George, giới nghiên cứu chú ư tới nhà thơ người Ư
Giuseppe Ungarenti (1888-1970), ngưói xú Tuscan, nhưng gia đ́nh lập nghiệp
tại Alexandra, Ai Cập. Ở nhà ông nói tiếng Ư, đi học ông học tiếng Pháp,
ông biết qua một đôi chút tiếng Ả Rập. Lớn lên ông đi Pháp du học và kết
bạn cùng các thi văn nghệ sĩ đương thời như Apollinaire, Picasso, và sang
tác đều đặn bằng tiếng Pháp và tiếng Ư, và tự dịch khá nhiếu thi phẩm của
ông từ tiếng Ư sang tiếng Pháp. Ngược lại ông dịch nhiếu thơ của
Shakespeare và Blake cùng một số nhà thơ Ba Tây sang tiếng Ư.
Gần nay hơn, có nhà văn ḍng giơi qúy tộc người Nga Vladimir Nabakov
(1899-1977). Ông di tản ra khỏi nưóc Nga năm 1920, sống tại Pháp, nói viết
thông thạo tiếng Pháp, Anh và tiếng Nga. Ông nghiên cứu cả ba nền văn học
Nga, Anh và Pháp. Năm 11 tuổi, ông dịch cuốn The Headless Horseman của
Mayne Reid từ tiếng Anh sang tiếng Pháp. Cho tới năm 1938, ông sang tác
bằng tiếng Nga. Sau đó số độc giả đọc tiếng Nga cạn dần, ông quay sang
dịch thuật giửa ba thứ tiếng Nga, Pháp và Anh. đồng thời bắt đầu sang tác
bằng tiếng Pháp. Sừa soạn di cư sang Hoa Kỳ, ông tự dịch sang tiếng Anh
hai tác phẩm: Kamera Obskura/Laughter in the Dark và Otchayanie/Despair.
Sang Hoa Kỳ, ngược lại với Ugaretti, quay về tiếng mẹ đẻ, Nabakov ngưng
sang tác bang tiếng Nga, mà chuyên viết bằng tiếng Anh. Năm 1955, ông xuất
bản cuốn tiểu thuyết Lolita nổi tiếng thế giới.Trong nhưng năm dậy học tại
Đại Học Cornell, ông hoàn tất một phương pháp dịch thuật, tŕnh bày trong
cảo luận “The Art of Translation”. Giới nghiên cứu t́m ra là chính ông đă
đi ngưọc lại phương pháp dịch thuật đề nghị trong cảo luận này khi ông
dịch các văn hào Nga như Puskin và Lenmontov và nhất là trong việc tự dịch
các tác phẩm của ông.
Tác giả tự dịch, thứ năm, thường được giới nghiên cứu bàn tới là Julian
Green (1900-1998) gốc người Hoa Kỳ. Tiếng mẹ đẻ của ông là tiếng Anh, nói
trong nhà, khi gia đ́nh ông sống tại Paris. Nhưng bà giáo tại gia trông
coi ông trong những năm ông bắt đầu đi học là người Pháp khiến chính mẹ
ông bảo là ông nói tiếng Anh với giọng Pháp. Ông khôn lớn vói hai thứ
tiếng Anh và Pháp. Sau thế chiến thứ nhất, ông trở lại Hoa Kỳ theo học đại
học (1919-1922) Trong thời gian này ông xuất bản tác phẩm đầu tay The
Apprentice Psychiatris.
Trở lại Paris ông sang tác bằng tiếng Pháp trong suốt hai chục năm. Trong
thế chiến thứ hai ông về sống tại Hoa Kỳ, tiếp tục việc dịch thuật và sang
tác bằng tiếng Anh. Sau thế chiến thứ hai ông trở lại Pháp, tiếp tục việc
sáng tác bằng tiếng Pháp và tới năm 1971 ông được bầu vào Hàn Lâm Viện
Pháp Quốc. Ông là ngựi ngoại quốc đầu tiên có được vinh dự này. Bài diễn
văn nhậm chức của ông mang đầu đề Qui sommes nous/Who are we? Ông dường
như là người đầu tiên trong thế hệ ông viết những tác phẩm song ngữ, trang
tiếng Anh đối diện vói trang tiếng Pháp. Khác với Nabokov chật vật viết
bằng tiếng Anh, Julian Green giống như Giuseppe Ungaretti đổi ngôn ngữ từ
tiếng Anh sang tiếng Pháp rất dễ dàng.
Sau Julian Green vài ba năm có nhà viết kịch ngựi Ái Nhĩ Lan Sammel
Beckett (1906-1989) là một nhà văn tự dịch hầu như trọn vẹn mọi tác phẩm
của ông từ tiếng Pháp sang tiếng Anh hay ngược lại. Tiếng Anh là tiếng mẹ
đẻ của ông. Ông học sinh ngữ, chuyên về chữ Pháp và chữ Ư tại Trinity
College Dublin. Trong ba năm 1928-1930, đi thực tập tại Pháp, ông bắt đầu
sáng tác bằng chữ Anh cho tới hết thập niên 1930. Tới 1937 ông định cư tại
Paris và bắt đầu làm thơ chữ Pháp và khởi công dịch cuốn tiểu thuyết
Murphy của ông sang tiếng Pháp, từ trước khi hoàn thành bản tiếng Anh. Ông
xuất bản cuốn Murphy tiếng Anh năm 1938 và bản tiếng Pháp năm 1942. Trong
thời gian ở Paris, ông kiếm sống bằng cách dịch các nhà thơ tiếng Anh, Tây
Ban Nha, Đức và Pháp, cũng trong thời gian đó ông gặp nhà văn Joyce cùng
nhiều họa sĩ nổi danh khác. Thời đó (1941-1945) Paris đang bị quân đội Đức
chiếm đóng, ông tham gia phong trào kháng chiến và phải sống trong ṿng
trốn tránh. Trong chín năm sau 1946-1955 ông sáng tác hoàn toàn bằng tiếng
Pháp, như ông ghi lại trong bài From an Abandoned Work (1957). Từ đó ông
lại sáng tác bằng tiếng Pháp và tiếng Anh và tự dịch ngưọc lại, như hồi
trước năm 1937.
Để phân tích việc tự dịch của Nguyễn Khuyến, cảo luận này khai thác thành
quả của Jan Walsh Hokenson và Marcella Mielson, tổng hợp những công tŕnh
nghiên cúu về những tác giả tự dịch tác phẩm kể trên.
Khởi đầu là công tŕnh nghiên cứu thơ tự dịch của Rabindranath Tagore từ
tiếng Bengali sang tiếng Anh. Các nhà b́nh thơ thời đó đồng ư là
Rabindranath Tangor đă sửa đổi cả lời thơ, nhịp thơ, cảnh thơ ư thơ của
nguyên bản để có một bản dịch hoàn chỉnh theo đúng luật thơ Edwardian. Mục
tiêu của việc tự dịch của Rabindranath nhắm vào những độc giả người Âu
Châu. Ông đă thành công rực rỡ. Tập thơ dịch của ông được tái bản nhiều
lần với những lời đề tựa của những thi sĩ nổi tiếng tỷ như W.B. Yeats, và
có bài lại được André Gide dịch sang tiếng Pháp, Juan Ramón dịch sang
tiếng Tây Ban Nha. Tập thơ tự dịch của Rabindranath Tagor được coi là tiêu
biểu cho tiếng nói của người phương Đông huyền bí trầm tĩnh từ cuối trời
xa vọng tới nhắn nhủ với người phương Tây sôi động trong đời sống vật
chất, ngày châu Âu đang bi lôi cuốn vào thảm họa của thế chiến thứ nhất.
Hàn lâm viện Thụy Điển ca tụng bản thơ tự dịch của Rabindranath Tagor là
một aesthetic theism, ngoài ra c̣n nhân đó ghi nhận ảnh hưởng của việc
truyền bá đạo Cơ Đốc tại một vùng xa xôi như :[36]
A revival and regeneratuion of the vernacular language, i.e. its
liberation from the bondage of an artificial tradition.
Ngày nay, giới b́nh thơ, trái lại, phê b́nh việc tự dịch thơ của
Rabindranath Tagor như sau:
In fact, the sheer artificial of Tagor’s Edwardian style in English
actually effaced the richer vernacular poetry of his Bangali text. In what
can only be called Tagore’s English pseudo-style, the flatness of the
poetry derives from the text’s superficial equilibriums, patently
constructed to imitate an extant model, stilling even the radically
foreign echoes of his Hindu imagery.
Từ khi thế chiến thứ nhất bùng nổ, tập thơ Gitaljali của Rabindranath
Tagore mất dạng trên văn đàn tại Anh Quốc.
Điểm đáng ghi nhận khác là, không nhất thiết việc dịch thơ Á Đông sang
tiếng Âu Châu phải theo các thể thơ cũng như dung những h́nh ảnh của thi
ca Âu Châu. Trái lại có nhiều dịch giả như Judith Gautier năm 1885 và Paul
Louis Couchoud năm1906 dịch hài cú Nhật Bản đă không ngần ngại biến cải
luật thơ Âu Châu.
Trở lại việc tự dịch thơ của Nguyễn Khuyến, và tin ở ḷi ghi trong các di
cảo, Nguyễn Khuyến thường tự dịch từ bài chữ nho thành bài chữ nôm.
Bài nổi tiếng nhất là bài:
山
茶
Sơn Trà
春
來
客
贈
我
山
茶
Xuân lai khách tặng ngă sơn trà
醉
裡
矇
矓
不
辨
花
Tuư lư mông lung bất biện hoa
白
髮
蒼
顏
吾
老
矣
Bạch phát thương nhan ngô lăo hĩ
紅
袍
金
帶
子
真
耶
Hồng bào kim đái tử chân da
尋
常
細
雨
驚
穿
葉
Tầm thường tế vũ kinh xuyên diệp
蕭
瑟
晨
風
怨
落
茄
Tiêu sắt thần phong oán lạc gia
近
日
相
看
惟
以
鼻
Cận nhật tương khan duy dĩ tị
了
無
香
氣
一
呵
呵
Liễu vô hương khí nhất kha kha.
dịch là:
Tạ Lại Người cho Hoa Trà
Tết đến người cho một chậu trà
Đương say ta chẳng biết rằng hoa
Da mồi tóc bạc ta già nhỉ
Áo tía đai vàng bác đấy a
Mưa bụi những khinh phường xỏ lá
Gió to lại sợ nó rơi già
Xem hoa ta vẫn xem bằng mũi
Chẳng thấy mùi hương một tiếng khà.
Hoa trà là một loài hoa rất đẹp nhưng không có hương thơm.
Tương truyền, Chu Mạnh Trinh đương thời làm Án Sát tại Hà Nam, nhân dịp
tết gửi tặng Nguyễn Khuyến một chậu hoa trà. Hồi này, cụ Tam Nguyên mắt đă
ḷa, nên nghĩ rằng ông Án Chu có ư xỏ xiên.
Nguyên do là vào năm 1905, nhân cuộc thi vịnh Kiều tại Hưng Yên, Chu Mạnh
Trinh dự thi và được giải nhất về thơ nôm. Nguyễn Khuyến làm chủ khảo kỳ
thi này. Khi ông đọc bài Vịnh Sở Khanh của Chu Mạnh Trinh, có câu:
Làng nho người cũng coi ra vẻ
Bợm x̣ ai ngờ mắc phải tay.
Nguyễn Khuyến, lẩy Kiều, phê:
Rằng hay th́ thật là hay
Nho đối với xỏ lăo này không ưa.
Chu mạnh Trinh tuy trúng giải nhất nhưng vẫn hận Nguyễn
Khuyến, nhân dịp tết tặng Nguyễn Khuyến chậu hoa trà, hữu sắc vô hương,có
ư nói Nguyễn Khuyến chỉ có danh Tam Nguyên nhưng thực ra vô tài.
Bài Sơn Trà này Nguyễn Khuyến làm để trả đũa Chu Mạnh Trinh.
Quay lại truyện tự dịch thơ. Điểm đặc sắc nhất là Nguyễn Khuyến đă tư dịch
bài thơ Sơn Trà theo luật đường thất ngôn bát cú thành một bài thơ nôm
cũng theo luật đường bẩy chữ tám câu. Hơn nữa, lại là một bản dịch nguyên
vận. Đó là một việc dịch thuật khó có ai sánh kịp. Ngoài ra ông giữ nguyên
vẹn ư thơ trong bản chữ nho. Trong câu thứ ba, bốn chữ
白
髮
蒼
顏, nghĩa là tóc trắng mặt xanh, Nguyễn Khuyến thay bằng từ ngữ
da mồi tóc bạc; trong câu năm, ba chữ
子
真
耶 nghĩa là thật
ngươi a đổi thành ba chữ bác đó a. Biến đổi mấy chữ trong hai câu thơ này,
Nguyễn Khuyến đă biến đổi hai câu thơ chữ nho thành hai câu thơ hoàn toàn
bằng chữ nôm. Trong câu thứ năm, ba chữ
驚
穿
葉, kinh xuyên diệp
nghĩa là sợ xiên lá, Nguyễn Khuyến tự dịch thành bốn chữ: kinh phường xỏ
lá. Trong câu thứ sáu ba chữ
怨
落
茄 oán lạc gia, dịch
sát nghĩa là oán rơi đài, cũng dịch thành bốn chữ: sợ nó rơi già. Người
đọc thấy là Nguyễn Khuyến tự dịch rất sát nguyên bản chữ nho, nhưng cái
khéo của ông là đă dùng những tiếng đồng âm để tạo nghĩa mới cho câu thơ.
Hai chữ xiên lá hóa ra xỏ lá tức phường đểu cáng, chữ rơi già, tức rụng
dài đồng âm, theo cách đọc của người miền bắc, với hai chữ dơi già, h́nh
ảnh tiêu biểu của hạng ngựi đáng khinh.
Phải chăng với tài chơi chữ cao siêu đến vậy mà Nguyễn Khuyến đă trả đũa
được Chu Mạnh Trinh? Phải chăng cũng v́ tài chơi chữ này mà bài thơ nôm
được truyền tụng trong đại chúng?
Đối Chiếu với Rabindranath Tagore đă đổi lời thơ, ư thơ, thể thơ của bài
thơ nguyên bản bằng tiếng Bengali, để bài thơ dịch được người Âu Mỹ ưa
chuộng, Nguyễn Khuyến giữ nguyên vẹn ư thơ lời thơ, cả vần thơ nguyên bản
nhưng chơi chữ bằng nhửng tiếng đồng âm để được người đọc thơ nôm hâm mộ.
Theo giới nghiên cứu, bài thơ nguyên bản và bài dịch của Rabindranath
Tagore cũng như của Stefan George là hai sáng tác gần như không có liên
quan mật thiết với nhau nhắm vào hai giới đọc giả khác nhau. Nguyên bản
chữ nho và bản tự dịch chữ nôm là hai sáng tác liên quan mật thiết với
nhau, bản dịch có thể có ư ngoài lời khác với nguyên bản chữ nho: ư ngoài
lời đó phải hiểu bằng cách dùng những chữ đồng âm.
Đối chiếu cách tự dịch thơ của Nguyễn Khuyến với cách tụ dịch của Giuseppe
Ungaretti người đọc thấy hai cách tự dịch khác hẳn nhau. Nhà thơ người Ư
Quốc dường như không muốn cho người đọc thấy mối tương quan giữa nguyên
bản và bản tự dịch. Trong nhiều bài, ông thay đổi cả cách tŕnh bày bài
thơ, tỷ như bài Soldati
Ông sang tác tại tiền tuyến năm 1918:
SOLDATI
Si sta come
d’automno
sugli alberi
le flogi
(Vita, p.87)
Hai nhà b́nh thơ Jan Walsh Hokenson và Marcella Munson dịch sang tiếng Anh
là :
SOLDIER
They are like
Of autumn
On the trees
The leaf
Và chính Giuseppe Ungaretti tự dịch sang tiếng Pháp thành:
MILITAIRES
Nous sommes
telle en automne sur
L’arbre la feuille
(Guerre, 22).al
Câu thơ nguyên bản tiếng Ư tŕnh bày thành cột dọc. Câu thơ tự dịch tiếng
Pháp tŕnh bày theo ḍng ngang thành nhiều nhóm chữ cách nhau bằng những
khoảng trắng, dài ngắn khác nhau, để ngựi ngâm ngắt câu khác nhau, v́
Giuseppe Ungaretti không chấm câu. Việc đổi h́nh dạng đứng doc của bài thơ
nguyên bản thành nằm ngang trong bản dịch đă giúp tác giả thành công trên
hai mặt, một là cho thấy hai bài thơ sáng tác tại hai thời điểm khác nhau;
hai là hai bài thơ hướng về hai đám độc giả khác nhau.
Trái lại, không những Nguyễn Khuyến ghi rơ tại cuối bài thơ dịch nôm dịch
từ bài nguyên bản Việt Âm nào, mà thường th́ ông cố giữ cho nguyên bản và
bản tự dịch có cùng một thể dạng. Thể dạng này không nhất thiết phải cùng
theo thể thơ Đường. Người đọc thơ Việt Âm và người đọc thơ nôm đều có cảm
tưởng là tác giả sáng tác cả hai bài với cùng một hứng thơ.
Thí dụ như bài:
裴
園
舊
宅
歌
Bùi Viên Cựu Trạch Ca
四
十
年
今
日
賦
歸
來
Tứ thập niên kim nhật phú quy lai
松
松
匊
匊
梅
梅
Tùng tùng cúc cúc mai mai
膘
然
有
丘
壑
林
泉
之
逸
趣
Phiêu nhiên hữu khâu hác lâm
tuyền chi dật thú
彭
澤
素
琴
吟
舊
句
Bành Trạch tố cầm ngâm cựu cú
溫
公
樽
酒
樂
餘
春
Ôn Công tôn lửu lạc dư xuân
東
風
回
首
淚
沾
巾
Đông phong hồi thủ lệ triêm cân
渺
茫
際
滄
海
桑
田
經
幾
度
Diểu mang tế thương hải tang điền
kinh kỷ độ
君
莫
嘆
魯
侯
之
不
遇
Quân mạc than Lỗ Hầu chi bất ngộ
鬅
鬆
白
髮
復
何
為
Bằng tông bạch phát phục hà vi
歸
去
來
兮
胡
不
歸
Quy khứ lai hề hồ bất quy.
Tác giả tự dịch là:
Trở Về Vườn Cũ
Vườn Bùi chốn cũ
Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây
Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây
Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế
Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế
Ôn Công rượu nhạt chuốc chiều xuân
Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn
Tính thương hải tang điền qua mấy lớp
Người chớ giận Lỗ Hầu chẳng gặp
Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi
Muốn về sao chẳng về đi.
Dẫu viết bằng chữ nho, nhưng âm điệu bài Bùi Viên Cựu Trạch Ca là âm điệu
một bài ca trù. Đó cũng là âm điệu bài Trở Về Vườn Cũ. Nội dung hai bài
hệt như nhau, nói lên niềm hân hoan của tác giả, trở lại chốn cũ sau bốn
chục năm xa cách. Cái vui của tác giả ngày nay là vun trồng mấy cây cảnh
thay v́ đi t́m vui tại chốn suối rừng, là đánh đàn là uống rượu, gạt bỏ sự
đời thay đổi, chẳng c̣n giận v́ không được gặp Lỗ Hầu lỡ dịp trổ tài an
dân trị nước, bởi lẽ trên đầu ông, tóc đă bạc, đă đến lúc phải lui về
vườn.
Qua những bài tự dịch nôm này, Nguyễn Khuyến đưa vào ḍng thơ nôm những
điển tích như Ôn Công Tư Mă Quang khi về ẩn dật uống rượu giải buồn, với
Đào Tiềm và cây đàn không dây v́ Đào Tiềm chỉ muốn thưởng thức nhạc mà
không muốn nghe tiếng tơ rung, và Lỗ B́nh Công, người mà Mạnh Tử muốn gặp
không được gặp khiến mất cơ hội giúp nước.
Đằng khác, không phải Nguyễn Khuyến luôn luôn giữ một thể thơ trong cả
nguyên bản và trong bài tự dịch, mà nhiều khi ông đổi thể thơ ngũ ngôn
thành thể thơ thất ngôn, tỷ như hai bài dưới dây. Bài thư nhất là bài :
遺
囑
文
Di Chúc Văn
我
年
值
八
八
Ngă niên trị bát bát
我
數
逢
九
九
Ngă số phùng cửu cửu
嗟
哉
我
德
涼
Ta tai ngă đức lương
壽
紀
邁
先
考
Thọ kỷ mại tiên khảo
嗟
哉
我
學
淺
5Ta tai ngă học thiển
魁
然
占
龍
首
Khôi nhiên chiếm long thủ
豈
非
先
考
齡
Khởi phi tiên khảo linh
留
以
錫
爾
父
Lưu dĩ tích nhĩ phụ
豈
非
先
考
名
Khởi phi tiên khảo danh
10不
做
以
留 ư¬
Bất tố dĩ lưu hậu
平
日
無
寸
功
B́nh nhật vô thốn công
俯
仰
已
慚
負
Phủ ngưỡng dĩ tàm phụ
足
矣
亦
何
求
Túc hỹ diệc hà cầu
死
葬
勿
淹
久
Tử táng vật yêm cửu
15死
幸
得
全
歸
Tử hạnh đắc toàn quy
葬
幸
得
親
附
Táng hạnh đắc thân phụ
棺
衾
不
可
美
Quan khâm bất khả mỹ
只
以
斂
足
手
Chỉ dĩ liễm túc thủ
具
饌
不
可
豊
Cụ soạn bất khả phong
20只
以
答
奔
走
Chỉ dĩ đáp bôn tẩu
不
可
寫
祝
文
Bất khả tả chúc văn
不
可
為
對
句
Bất khả vi đối cú
不
可
設
銘
旌
Bất khả thiết minh tinh
不
可
題
神
主
Bất khả đề thần chủ
25不
可
達
門
生
Bất khả đạt môn sinh
不
可
訃
僚
友
Bất khả phó lieu hữu
賓
客
不
可
招
Tân khách bất khả chiêu
賵
吊
不
可
受
Phúng điếu bất khả thụ
此
皆
累
於
生
Thử giai lụy ư sinh
30死
者
亦
兮
有
Tử giả diệc hề hữu
惟
以
重
吾
過
Duy dĩ trọng ngô quá
囂
然
眾
多
口
Hiêu nhiên chúng đa khẩu
唯
於
葬
之
日
Duy ư tang chi nhật
旗
扁
導
前
柩
Kỳ biển đạo tiền cữu
35于
工
八
九
人
Vu công bát cửu nhân
吹
送
列
左
右
Xuy tống liệt tả hữu
草
草
死
葬
完
Thảo thảo tử táng hoàn
酹
我
以
杯
酒
Lỗi ngă dĩ bôi tửu
爰
題
墓
石
碑
Viên đề mộ thạch bi
40皇
阮
故
休
叟
Hoàng Nguyễn cố hưu tẩu.
Tác giả tự dịch là
Di Chúc
Kém hai tuổi xuan đầy chín chục
Số sinh ra gặp lúc dương cùng
Đức thầy đă mơng ṃng mong
Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy
5Học chẳng có rằng hay chi cả
Cưỡi đầu người kể đă ba phen
Tuổi là tuổi của gia tiên
Cho nên thầy được hưỏng niên lây dầy
Ấy thủa trước ông mày chưa đỗ
10Hoá bây giờ để bố làm xong
Ơn vua chút chửa đền công
Cúi trông thẹn đất ngẩng trông thẹn trời
Sống được tiếng trên đời trọn vẹn
Chết đưọc về quê quán hương thôn
15Mới hay trăm sự vuông tṛn
Sống lâu đă trải chết chon chờ ǵ
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt
Kín chân tay đầu gót th́ thôi
Cỗ đừng to lắm con ơi
20Hễ ai chạy lại khuyên mời người ăn
Tế đừng có viết văn mà đọc
Đối trướng đừng gấm vóc làm chi
Minh tinh con cũng bỏ đi
Mời quan đề chủ con th́ chớ nên
25Môn sinh chẳng tống tiền đạt giấy
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi
Khách quen chớ viết thiếp mời
Ai đưa phúng điếu c̣n thời chớ thu
Chẳng qua nợ để cho người sống
30Chết đi rồi c̣n ngóng vào đâu
Lại mang cái tiếng to đầu
Khi nay bầy biện khi sau chê bàn
Cờ biển của vua ban ngày trước
Khi đưa thầy con rước đầu tiên
35Lại thuê một lũ phường kèn
Vửa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng
Việc tống tang nhung ngăng qua quit
Cúng cho thầy một ít rượu hoa
Đề vào mấy chữ trong bia
40Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đă lâu.
Với những bạn đọc không quen đọc thơ Việt Âm, bản dịch xuôi
dưới đây, cố gắng theo sát nguyên bản, sẽ là một dụng cụ cho thấy bút
thuật tự dịch của Nguyễn Khuyến.
Văn Di Chúc
Ta đến tuổi tám tám
Số gặp hạn dương cửu
Than ôi đức ta mỏng
Tuổi thọ hơn tuổi ông
5Than ôi sức học nông
Nghiễm nhiên chiếm đầu rồng
Há chẳng nhờ tuổi ông
Lưu lại dành cho ta
Há chẳng phải danh ông
10Không đạt để đời sau
Suốt đời ta vô công
Nh́n đất trời hổ ḷng
Thế đủ chẳng cầu hơn
15Chết chôn chớ để lâu
Chết may được vẹn than
Được chôn gần cha mẹ
Quan khâm chẳng cần đẹp
Cần gói kín tay chân
20Đủ đăi người tới giúp
Không được viết văn tế
Không được viết câu đối
Không được đặt minh tinh
Không được đề thần chủ
25Không thông báo học tṛ
Không cáo phó bè bạn
Không được mời quan khách
Không nhận đồ phúng viếng
Rồi chỉ khổ người sống
30Người chết chẳng hưởng ǵ
Chỉ nặng tội cho ta
Ồn ào them đ́ều tiếng
Duy có ngày cất đám
Cờ biến rưóc đi trưóc
35Thợ kèn tám chin người
Hai bên quan tiễn đưa
Qua loa chôn cho xong
Đổ cho ta chén rượu
Rồi khắc trên bia đá
40Mộ hưu quan nhà Nguyễn.
Bài thứ hai là bài:
輓
同
年
雲
亭
進
士
Văn Đồng Niên Vân Đ́nh Tiến Sĩ
楊
尚
書
Dương Thượng Thư
已
矣
楊
大
年
Dĩ hỹ Dương đại niên
雲
樹
心
懸
懸
Vân thụ tâm huyền huyền
回
憶
登
科 ư¬
Hồi ức đăng khoa hậu
與
君
晨
夕
聯
Dĩ quân thần tịch liên
5相
敬
且
相
愛
Tương kính thả tương ái
遭
逢
如
夙
緣
Tao phùng như túc duyên
有
時
出
京
路
Hữu thời xuất kinh lộ
空
山
聞
落
泉
Không sơn văn lạc tuyền
有
時
上
高
閣
Hữu tḥi thượng cao các
10歌
兒
鳴
素
絃
Ca nhi minh tố huyền
有
時
對
君
飲
Hữu thời đối quân ẩm
大
白
浮
八
延
Đại bạch phù bát diên
有
時
與
論
文
Hữu thời dữ luận văn
東
壁
羅
簡
編
Đông bích la giản biên
15厄
運
逢
陽
九
Ách vận phùng dương cửu
斗
升
非
貪
天
Đẩu thăng phi tham thiên
予
老
公
亦
老
Dư lăo công diệc lăo
解
組
歸
田
圓
Giải tổ quy điền viên
往
來
不
數
得
Văng lai bất sác đắc
20一
遇
三
年
前
Nhất ngộ tam niên tiền
執
手
問
衰
健
Chấp thủ vấn suy kiện
語
言
殊
未
愆
Ngôn ngữ thù vị khiên
公
年
少
予
歲
Công niên thiểu dư tuế
予
病
疑
公
先
Dư bệnh nghi công tiên
25忽
聞
公
訃
至
Hốt văn công phó chí
鷙
起
皇
皇
然
Kinh khởi hoàng hoàng nhiên
予
起
不
厭
世
Dư khởi bất yếm thế
而
公
爭
上
仙
Nhi công tranh thưọng tiên
有
酒
為
誰
買
Hữu tửu vi thuỳ măi
30不
買
為
無
錢
Bất măi vi vô tiền
有
詩
為
誰
寫
Hữu thi vi thùy tả
不
寫
為
無
箋
Bất giả vô vi tiên
陳
蕃
榻
不
下
Trần Phồn tháp bất hạ
伯
牙
琴
亦
然
Bá Nha cầm diệc nhiên
35公
既
棄
予
去
Công kư khí dư khứ
予
亦
不
公
憐
Dư diệc bất công liên
老
人
哭
無
淚
Lăo nhân khốc vô lệ
38何
必
強
而
漣
Hà tất cưởng nhi liên.
Tác giả tự dịch là:
Khóc Bạn
Bác Dương thôi đă thôi rồi
Nước non man mác ngậm ngùi ḷng ta
Nhớ từ thủa đăng khoa ngày trước
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau
5Kính yêu từ trước tới sau
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời
Cũng có lúc choi nơi dặm khách
Tiếng suối tuôn róc rách lưng đèo
Có khi tầng gác cheo leo
10Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang
Cũng có khi rượu ngon cùng nhắp
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân
Có khi bàn soạn câu văn
Biết bao đông bích điển phần trước sau
15Buổi dương cưu cùng nhau hoạn nạn
Phận đẩu thăng chẳng dám than trời
Bác già tôi cũng già rồi
Biết thôi thôi thố th́ thôi mới là
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác
20Trước ba năm gặp bác một lần
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can
Tuổi tôi lại c̣n hơn tuổi bác
Mà tôi đau trước bác mấy ngày
25Ai ngở bác vội về ngay
Chợt nghe tôi đă chân tay rụng rời
Ai chẳng biết chán đời là phải
Vội vàng chi đă mải lên tiên
Rượu ngon không có bạn hiền
30Không mua không phải không tiền không mua
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai ai biết mà đưa
Giường kia cheo nhưng hững hờ
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương
Tuổi già giọt lệ như sương
Hơi dâu ép lấy đôi hang chứa chan.
Dịch nghĩa như sau:
Viếng Bạn Đồng Khóa Vân Đ́nh Tiến Sĩ Dương Thượng Thư
Ôi bác Dương mất rồi
Mây phủ cây sầu lắng
Nhớ lại từ thi đỗ
Sớm tối luôn có nhau
5Kính nhau cùng mến nhau
Gặp gỡ nhờ duyên trời
Ngày cùng nhau chẩy kinh
Núi vắng vẳng suối reo
Buổi cùng nhau leo gác
10Nghe ca nhi đàn hát
Buổi cùng nhau say sưa
Rượu Đại Bạch chứa chan
Buổi cùng nhau luận văn
Phủ Đông Bích đầy sách
15Phận rủi gặp dương cưu
Đấu trời chẳng dám tham
Tôi già bác cũng già
Trả ấn vua về vườn
Chẳng được gặp nhau luôn
20Lần gặp ba năm trước
Cầm tay hỏi yếu mạnh
Nói năng chưa lu lẫn
Tuổi bác thua tuổi tôi
Mà tôi đau trước bác
25Chợt nghe tin cáo phó
Tôi giật ḿnh kinh hoàng
Tôi đâu không chán đời
Bác dành lên tiên trước
Có rượu uống cùng ai
30Không mua chẳng không tiền
Có thơ chẳng muốn viết
Không viết chẳng thiếu giấy
Giường Trân Phồn chẳng hạ
Đàn Bá nha đem đốt
35Bác bỏ tôi ra đi
Tôi cũng chẳng luyến tiếc
Người già khô nước mắt
38Can chi gượng xụt xùi.
Đổi thể thơ năm chữ của nguyên bản thành thể thơ song thất lục bát trong
bản tự dịch, Nguyễn Khuyến tăng số 200 chữ của nguyên bản bài Di Chúc Văn
lên tớ́ 280 chữ trong bản tự d̏ch Di Chúc. Người đọc cả nguyên bản và bản tự dịch thấy là số
80 chữ mà Nguyễn Khuyến đưa vào bản dịch đă biến đổi một văn bản thơ chữ
nho, giữ đặc tính nghiêm khắc của Nho Học, dầu là trong t́nh thân mật giữa
cha với con thành lời gửi gắm đằm thắm của ngựi cha với đàn con. Lời thơ
trong bản chữ nho khô khan như một bản mệnh lệnh không mấy khác những bài
thơ viết gửi con của Đào Tiềm trong văn học Trung Quốc. Lời thơ trong bản
tự dịch như lời dặn ḍ giảng giải thân thiết giữa bố với con chẳng xa ǵ
những câu ca dao Việt Nam.
Tương tự, Nguyễn Khuyến tăng số chữ 190 chữ trong bài Văn Đồng Niên Vân
Đ́nh Tiến Sĩ Dương Thương Thư lên 266 chữ trong bài Khóc Bạn đă biến cải
một bài thơ của một vị Tam Nguyên khóc một vị tiến sĩ thượng thư thành bài
khóc bạn của một ngựi mới mất bạn thân, hồi tưỏng lại những kỷ niệm xưa,
từ buổi thiếu thời đến khi cùng về già, linh động thắm thiết như ngựi bạn
hiện đang c̣n ngồi đối diện với tác giả, và chẳng khác ǵ cảnh ông bạn tới
chơi nhà, ngày con cháu ông đi vắng, chợ th́ xa, khiến ông chẳng những
không có cơm gà cháo gỏi, mà cũng chằng có cả quả cà bát canh mướp đăi
bạn, ngay đến miếng trầu đón bạn cũng không, nhưng hai ta vẫn là một ta.
Bút thuật tự dịch của Nguyễn Khuyến tăng số chữ nguyên bản để tự dịch, có
nhiều điểm tưong đồng và khác biệt với bút thuật tụ dịch của Rabindranath
Tagor. Tha65t vậy, nhà thơ Rabindranath Tagor đổi thể thơ Bengali thành
thể thơ Edwardian dể bản tự dịch dễ đọc hơn cho người đọc Âu Châu; cũng
như Nguyễn Khuyến đổi thể thơ ngũ ngôn thông dụng trong văn học Trung Quốc
thành thể thơ song thất lục bát thịnh hành thủa đó tại Việt Nam. Điểm khác
nhau là Rabindrath chuyển biến thơ Bengali thành thơ Anh Quốc giới thiệu
thơ của dân bản địa với dân mẫu quốc. Nguyễn Khuyến, ngược lại, đưa bản tự
dịch ra khỏi văn học Trung Quốc về văn học Việt Nam.
Đối chiếu với Stefan George, một nhà thơ mà giới nghiên cứu mô tả việc tự
dịch thơ của ông từ tiếng Pháp sang tiếng Đức như sau [37] :
Schooling himself in their linguistic properties and literary traditions,
George was interested in the differences between languages, especially the
constrastive modes of syntax and phonic sub-systems, which he enjoyed
re-creating in Germany to revitalize that language.
Người đọc thấy là: làm thơ Việt Âm là sở trường của Nguyễn Khuyến, một môn
học mà ông đă dùi mài để đổ đầu ba kỳ thi; chắc chắn là ông thông hiểu
thấu đáo âm luật trong việc làm thơ Đường, đồng thời ông nổi tiếng hay thơ
nôm, chác chắn là ông cũng thông hiểu những khác biệt trong việc làm thơ
Đường và làm thơ nôm song thất lục bát, với những kiến thức vững chắc đó,
ông tự dịch thơ Đựng sang thơ song thất lục bát, không những để tạo cho
riêng ông cái thú làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ mà c̣n nhân đó đưa bài thơ tự
dịch ra xa vùng ảnh hưởng của thơ Đường. Phải chăng đó là điểm Nguyễn
Khuyến tương đồng với Stefan George? Điểm đáng lưu ư là không phải là hễ
giỏi làm thơ Việt Âm là giỏi làm thơ nôm. Cao Bá Quát thú nhạn rằng ông
không làm được thơ nôm v́ ông chưa hề được học làm thơ nôm.
Đối chiếu việc tự dịch thơ của nhà thơ Ư Quốc Giuseppe Ungaretti với việc
dịch thơ của Nguyễn Khuyến, người đọc thấy nhà thơ người Ư cố t́nh thay
đổi cách tŕnh bày của nguyên bản và bài tự dịch; xuất bản hai bài thơ vào
hai thời điểm khá xa nhau, thay đổi lời thơ để cho thấy hai bài thơ như
hai văn bản độc lập. Trái lại, qua hai bài Khóc Bạn và Di Chúc trên đây,
so với hai nguyên bản không ai có thể bảo đó là hai cặp thi phẩm độc lập:
dẫu viết trong hai ngôn ngữ, khác nhau về thể thơ, lời thơ, nhưng cảnh thơ
và ư thơ vẫn là một.
Đối chiếu việc tư dịch của Julian Green với việc tự dịch của Nguyển
Khuyến, người đọc nhận thấy nhiều điểm tương đồng. Julian Green gốc người
Hoa Kỳ nhưng ông thông thạo tiếng Pháp đến mức đổi từ tuếng Anh sang tiếng
Pháp không cần mảy may cố gắng. Có nhà phê b́nh đă viết rằng trên bao b́a
tác phẩm cũa Julian Green thựng có ghi “Julian Green traduit par Julien
Green”, nhưng đúng hơn th́ nên đọc ngược lại là Julien Green traduit par
Julian Green. Nhiều nhà phê b́nh khác c̣n cho là việc tự dịch của Julian
Green không chỉ là việc chuyển ngữ của một tác phẩm mà là việc sáng tác
hai tác phẩm cùng một đề tài với hai giọng văn khác nhau. Việc đổi giọng
văn là chủ ư của tác giả hướng tác phẩm để hợp với ngôn ngữ người đọc.
Đằng khác dùng hai giọng văn là dụng ư bài tỏ hai ḍng văn hóa Anh Pháp
trong tác phẩm song ngữ của ông, và để giúp người đọc tác phẩm dễ bề thông
cảm với cả hai ḍng văn hóa đó. Điểm tương đồng giữa Nguyễn Khuyến và
Julian Green là không những ông rất giỏi thơ Việt Âm và thơ nôm, mà c̣n
thấu triệt cả hai ḍng văn hóa Trung Quốc và Việt Nam.
Đọc bài Di Chúc Văn bằng chữ nho và bài Di Chúc bằng chữ nôm, người đọc
thấy ngoài biến cải văn học, Nguyễn Khuyến c̣n cho thấy nhưng biến cải tập
tục trong nếp sống hàng ngày, xa dần phong tục Trung Quốc.
Thật vậy, trong bài Di Chúc, Nguyễn Khuyến đạn ḍ con ông mười sáu điều,
trong số đó có mười điểm không làm: quan khâm không cần đẹp, không làm cỗ
to, không viết văn tế, không làm câu đối, không đặt minh tinh, không đề
thần chủ, không báo tin cho học tṛ, không cáo phó vói bạn bè, không mời
khách khứa, không nhận phúng viếng ; và chỉ có năm điều phải làm: chết
chôn ngay đừng để lâu, cờ biển rước trưóc quan tài, thuê phường bát âm,
rót rượu xuống đất, khắc mộ bia.
Mười điều không làm là mười điều ông giảm thiểu việc tổ chức lễ an tang
của chính ông, cũng phải kể thêm điểm ông muốn khi ông năm xuống thời được
chôn cất sớm. Những điêu không này, ở thời của ông, ở địa vị của ông trong
xă hội là những điều mọi thế gia đều làm trong ngày đám, ông dặn con không
làm chính là điều ông đă đi trước những biến cải tập tục xă hội Việt Nam
đương thời c̣n dựa trên tập tục Trung Quốc.
Biến cải thể thơ ngũ ngôn của bài Di Chúc Văn nguyên bản bằng chữ nho
thành bài tự dịch nôm Di Chúc theo thể song thất lục bát, bút thuật tự
dịch của Nguyễn Khuyến tương đồng với bút thuật tự dịch của Samuel Becket,
qua nhận xét của Ruby Cohn như sau: [38]
[…] the French is more reduced and the English more amplified , the
English has added color and detail of objects and situation where the
French is more colorless and spare, the English narrator is more
differentiated as a distinct presence where the French narrator seems a
neutral copher.
Với Samuel Becket bản tiếng Pháp là nguyên bản, bản tiếng Anh là bản tự
dịch, tương ứng với bản chữ nho của Nguyễn Khuyến là bản gốc vả bản chủ
nôm là bản tự dịch, thế nên nhận xét của Ruby Cohn về Sammuel Beckett có
thể áp dụng với trường hợp tự dịch của Nguyễn Khuyến.
Tỷ như câu thứ ba trong bài Di Chúc Văn:
嗟
哉
我
德
涼
Ta tai ngă đức lương
Nghĩa là
Than ôi đức ta mỏng
Nguyễn Khuyến tự dịch thành:
Đức thầy đă mỏng ṃng mong
Chữ ngă trong nguyên bản thành chữ thầy trong bản tự dịch. Chữ lương là
mỏng trong bản gốc thành chữ nhái ba mỏng ṃng mong, những biến cải đó
biến cải cảnh thơ khô khan trong bản gốc thành cảnh thắm thiết giữa cha và
con trong bản nôm.
Rồi tới hai câu 9 và 10:
豈
非
先
考
名
Khởi phi tiên khảo danh
不
做
以
留 ư¬
Bất tố dĩ lưu hậu
Nghĩa là:
Chẳng là danh của cha ta
Không đạt là để dành cho ta
Và Nguyễn Khuyến tự dịch là:
Ấy thủa trước ông mày chưa đỗ
Hoá bây giờ để bố làm xong
Những chữ ông mày, và lời tự xưng là bố đều là những chữ Nguyễn Khuyến
thêm vào bản tự dịch, gợi lên cảnh thân mật giữa tác giả và con để biến
cải cảnh thơ mang mầu sắc Trung Quốc của nguyên bản thành cảnh cha con
thắm thiết trong bản tự dịch. Biến cải này chẳng khác ǵ những biến cải mà
Ruby Cohn nhận thấy trong những bản tự dịch của Sammuel Beckett từ bản chữ
Pháp sang bản chữ Anh, như trích dẫn trên đây.
Trong hai bài Văn Đồng Niên Vân Đ́nh Tiến Sĩ Dương Thưọng Thư và bản tự
dịch Khóc Bạn, của Nguyễn Khuyến đă đưa vào văn học Việt Nam những biến
cải của riêng ông trên một vấn đề gai góc của triết học Đông và Tây
phương: vấn đề đó là vấn đề t́nh bạn.
Thật vậy, t́nh bạn là một vấn đề quen thuộc của nhiều nhà thơ Đựng và
cũng là vấn đề mà Khổng Tử từng nhiều lần đề cập tới trong sách Luận Ngữ.
Sách Đường Thi Tam Bách Thủ chép bài Mộng Lư Bạch
夢
李
白 của Đỗ Phủ có hai
câu tha thiết :[39]
故
人
入
我
夢
Cố nhân nhập ngă mộng
明
我
長
相
憶
Minh ngă trường tương ức.
Nghĩa là:
Người xưa vể trong mộng
Rơ ta dài nhớ mong
Lư Bạch thẳng thắn bày tỏ t́nh cảm trong bài Tặng Mạnh Hạo
Nhiên
贈
孟
浩
然 :
[40]
吾
愛
孟
夫
子
Ngô ái Mạnh Phu Tử
Mạnh Hạo Nhiên chia tay cùng Vương Duy, quay về núi hái thuốc,
viết bài Lưu Biệt Vương Duy
留
別
王
維 viết câu:
知
音
世
所
稀
[41] Tri âm thế sở hi
Nghĩa là:
Đời này vắng tri âm
Vương Duy mở đầu bài Tặng Bùi Địch,
贈
裴
迪 có hai câu :
[42]
不
相
見
Bất tương kiến
不
相
見
來
久
Bất tương kiến lai cửu
Nghĩa là:
Chẳng gặp nhau
Chẳng gặp nhau bấy lâu
Năm chũ câu đầu thu lại c̣n ba, rồi lập lai cả ba trong câu
thứ hai khiền người đọc thơ thấy như Vương Duy nghẹn ngào nhớ người bạn
trẻ, nói không hết câu để rồi phải lặp lại câu nói dở dang.
Mở sách Luận Ngữ, thiên Học Nhi, chương 1, Khổng Tủ viết :
[43]
有
朋
自
遠
方
來
Hữu bằng tự viễn phương lai
不
亦
樂
乎
bất diệc lạc hồ
Nghĩa là:
Có bạn từ xa tới
Chẳng đáng vui chăng
Trung Quốc đă dùng câu này để mở Thế Vận Hội 2008 tại Bắc
Kinh, năm 2008.
Luận Ngữ, quyển III, thiên 4: Công Dă Tràng.chương 16 có câu:
[44]
善
與
人
交
thiện dữ nhân giao
久
而
敬
之
cửu nhi kính chi
nghĩa là:
Khéo kết bạn là
giữ cung kính được lâu dài
Luận Ngữ, quyển III, thiên 4: Công Dă Tràng, chương 25 chép
tiếp [45]:
朋
友
信
之
Bằng Hữu tín chi
Nghĩa là:
Bạn bè tin nhau
Luận Ngữ quyển II, Vi Chánh, chương 22, chép lời Khổng Tử bàn
về chữ tín [46] :
人
而
旡
信
Nhân nhi vô tín
不
知
其
可
也
bất tri kỳ khả dă
Nghĩa là:
Người mà không tin
chẳng biết làm nên việc ǵ
Trong sách Nho Giáo, Trần Trọng Kim căn cứ vào mấy chương Luận Ngữ trên
dây kết luận về t́nh bằng hữu như sau [47]:
Người ta trong xă hội, giao thiệp với nhau, bao giờ cũng phải lấy chữ tín
làm trọng.
Trở lại sách Luận Ngữ, quyển 6, thiên 12 Nhan Uyên, chương 23, chép lời
Khổng Tử khuyên Tử Cống cư xử với bạn bè như sau [48] :
忠
告
而
善
道
之
Trung cáo nhi thiện dạo chi
不
可
則
止
bất khả tắc chỉ
毋
自
辱
焉
Vô tự nhục yên
Nghĩa là:
Bạn có điều lầm lỗi
nên khéo khuyên bảo
băn chẳng nghe chẳng nói thêm
khỏi tự chuốc nhục.
Tương tự, sách Luận Ngữ, Quyển II Thiên thứ 4, Lư Nhân, chương 26, chép
lời Tử Dư :
朋
友
數
斯
疏
矣
Bằng hữu sác tư sơ hỹ
Nghĩa là:
Bạn bè khuyên can nhiều
ấy là ĺa xa vậy
Ngược lại, sách Luận Ngữ, quyển VII, thiên thứ 13 Tủ Lộ, chương 28 chép
lời Khổng Tử khuyên: [50]
朋
友
切
切
偲
偲
bằng hữu thiết thiết ty ty
Nghĩa là:
bạn bè phải thành thật khuyên nhủ
Trở lại bài Khóc Bạn của Nguyễn Khuyến và qua những trích dẫn sách Đường
Thi Tam Bách Thủ và sách Luận Ngữ trên đây, người đọc nhận thấy các nhà
Thơ Đường thường dùng thơ để bài tỏ t́nh cảm của ḿnh đối với bạn và sách
Luận Ngữ chỉ nhắm nói tới t́nh bạn lồng trong chữ tín và nhấn mạnh trên
cách cư sử đối vói bạn để tránh những điều hiểu lầm.
Trở lại bài Khóc Bạn trên đây, Nguyễn Khuyến, không giăi bày t́nh cảm với
Dương Khuê, không nói tới bổn phận làm bạn, có thể tại bài thơ làm khi
Dương Khuê mới mất, mà chỉ nhắc lại những kỷ niệm đẹp mà ông đă sống cùng
Dương Khuê, kể từ ngày hai người do duyên trời quen biết nhau khi cùng thi
đỗ, rồi cùng vào kinh, rồi đi nghe hát, đi ăn uống tiệc tùng, cùng luận
bàn văn chương, cho tới khi về già, vài ba năm mới có dịp gặp lại nhau, để
rồi nay nghe tin Dương Khuê về cơi tiên, khiến ông đau buồn mà không c̣n
nước mắt khóc bạn.
Rơ ràng là cả bài thơ việt Âm và bài Khóc Bạn bằng chữ nôm, Nguyễn Khuyến
đă không c̣n dùng nhửng h́nh ảnh của t́nh bạn của những nhà thơ lớn đời
Đường cũng như của sách Luận Ngữ về t́nh bạn. Phải chăng là Nguyễn Khuyến
đă bước một bước dài, đưa thơ Việt Âm và thơ nôm ra xa vùng ảnh hưởng của
thi ca và kinh điển Trung Quốc?
Một điểm đáng để ư khác trong ḍng thơ tự dịch của Nguyễn Khuyến là tính
tạp chủng, hybridité trong việc chơi chữ của Nguyễn Khuyến.
Theo giới nghiên cứu văn học hậu ngoại thuộc, th́ một văn bản có t́nh tạp
chủng, nếu tác giả là người thuộc cuốc, viết bằng ngôn ngữ mẫu quốc và
chơi chữ bằng cách dịch những danh từ, từ tiếng mẹ đẻ sang tiếng mẫu quốc,
để tạo ra những chữ mới trong ngôn ngữ mẫu quốc, đôi khi với chủ đích chọc
cười.
Nguyễn Khuyến là một thi hào có biệt tài tạo chữ tạp chủng. Trong Bài Sơn
Trà ông đă dùng hai chữ xuyên diệp
穿
葉 để dịch hai chữ
xỏ lá và hai chữ lạc già
落
笳 để dịch chữ rơi
đài và đọc theo âm người Bắc là rơi già.
Thí dụ thứ hai chứng tỏ tài chơi chữ tạp chủng trong mạch thơ tự của
Nguyễn Khuyến là bài:
蟬
師
Thiền Sư
人
謂
先
生
愛
我
兒
Nhân vị tiên sinh ái ngă nhi
愛
兒
之
母
有
誰
知
Ái nhi chi mẫu hữu thùy tri
ʬ
橋
舊
句
非
無
謂
Giá kiều cựu cú phi vô vị
攬
鏡
前
因
只
自
悲
Lăm kính tiền nhân chỉ tự bi
只
恐
世
間
無
寡
婦
Chỉ khủng thế gian vô quả phụ
莫
言
天
下
欠
蟬
師
Mạc ngôn thiên hạ khiếm thiền sư
愛
兒
欲
為
愛
兒
教
Ái nhi dục vị ái nhi giáo
校
得
而
成
母
又
癡
Giáo đắc nhi thành mẫu hựu si.
Tác giả tự dịch là:
Thầy Đồ Ve Gái Hóa
Người bảo rằng thầy yêu cháu đây
Thầy yêu mẹ cháu có ai hay
Bắc cầu câu cũ không hờ hững
Cầm kính t́nh xưa vẫn đắng cay
Ở góa thế gian nào mấy mụ
Đ́ ve thiên hạ thiếu chi thầy
Yêu rồi cũng muốn cho thầy dậy
Dậy cháu xong rồi mẹ cháu ngây.
Hai chữ thiền sư trong đầu đề bài thơ Việt Âm quả là hai chữ Nguyễn Khuyến
tạo ra theo lối chơi chữ tạp chủng của riêng ông. Không có tự điển Trung
Quốc nào có hai chữ
蟬
師 này. Nhưng nếu
dịch nguyên văn sang tiếng nôm là Ve Thầy th́ đúng là đầu đề bài thơ với
đại ư là người quả phụ ve ông thầy, rước thầy về dậy con. Nhưng không hiểu
sao đầu đề bài thơ tự dịch lại đổi là Thầy Đồ Ve Gái Hóa, đặt thầy đồ vào
vai chủ động không đúng hẳn với nội dung cả hai bài nguyên bản và tự
dịch.
Ngoài truyện chơi chữ trong đề bài thơ, Nguyễn Khuyến c̣n dùng ca dao tạo
nên điển tích trong thơ Việt Âm. Trong câu thứ ba, hai chữ giá kiều nghĩa
là bắc cầu do câu ca dao:
Muốn sang th́ bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ th́ yêu lấy thầy
Hai chữ lăm kính trong câu thứ tư do câu ca dao:
Trách người quân tử vô t́nh
Có gương mà để bên ḿnh không soi
Hiểu những chữ giá kiều và lăm kính như vậy, giới b́nh thơ Nguyễn Khuyến
cho là bài thơ là lời người đàn bà góa chê thầy đồ nhát gan không dám dấn
thân trong truyện ve gái. Hiểu như vậy, đầu đề Thiền Sư dịch sát nghĩa là
Ve Thầy rất hợp với nội dung bài thơ.
Người đọc thơ c̣n nhận ra lối chơi chữ tạp chủng của Nguyễn Khuyến trong
đầu đề bài
武
夫
隊 Vũ Phu Đội, mà
tác giả tự dịch thành Đống Ông Cuội . Chữ vũ phu
武
夫 có hai nghĩa. Một là kẻ ỷ mạnh vơ đoán thô tục và hai là một
loại đá trắng có vân hồng quen gọi là đá cuội. Nguyễn Khuyến chơi chữ tạp
chủng, ghép với chữ đội
隊, nghĩa là đống để
dịch từ ngữ nôm đống ông Cuội. Chữ Cuội đây dựa vào thành ngữ nói dối như
cuội. Nhưng đằng khác, bài tự dịch chép dưới đây, mang tựa đề:
Vũng Lội Làng Ngang
Đầu đường ngang có một chỗ lội
Có miếu ông Cuội cao ṿi vọi
Đàn bà đến đó vén quần lên
Chỗ thời đến hang chỗ đến gối
Ông Cuội ngồi trông mỉm miệng cười
Cái ǵ trắng trắng như con cúi
Vội vàng khép nép đứng liền thưa
Trót dại hở hang xin xá tội
Ông rằng: Mày cũng chẳng tội ǵ
Chỉ tội làm ông cứng con buội
Muốn tốt mày về bảo làng mày
Ra đây ông cho giống ông Cuội
Cho nên làng ấy sinh ra người
Sinh ra rặt những thằng nói dối.
Nội dung bài Vũng Lội Làng Ngangcho người đọc thấy lời thơ
Nguyễn khuyền chẳng mấy khác lời văn tự dịch của Nobokov dưới lời phê b́nh
của Jane Grayson :
Nabokov consistenly enhances the sexual into the erotic […] adds more
humor […] and wordplay, accumulates color symbolism and themique
indicators.
Nguyễn Khuyến c̣n dùng lối chơi chữ tạp chủng này trong đầu đề bài Thất
Tam Tam, thường được dịch nôm thành Mất Ba Ba.
Văn học Việt Nam c̣n có một ḍng thơ quen gọi là hát nói. Đó là những áng
thơ sáng tác để kép hát đệm đàn và cô đầu gơ phách và hát theo những điệu
cổ truyền. Trong mỗi bài hát nót thựng có một số câu không hạn định viết
bằng chữ nho, tŕnh bày chủ ư của bài hát. Câu chữ nho này có thể do tác
giả sang tác hay trích dẫn thơ cổ Trung Quốc. Thề nên hát nói có thể coi
là một ḍng thơ dung kỷ thuật tạp chủng.
Vấn đề tạp chủng trong văn học là một vấn đề hệ trọng trong vùng Trung Mỹ,
dưới ảnh hưởng của hai ngôn ngữ Tây Ban Nha và Anh ngữ. Đó cũng là vấn đề
phiên âm tên người tên đất, tại Việt Nam, vào hồi đầu thế kỷ XX, cũng như
việc phiên âm tên thánh trong việc dịch Kinh Thánh ngày nay. Những vấn đề
này hiện c̣n bỏ ngỏ chờ giới nghiên cứu giải quyết.
Gom ư
Gần đây, nhiều cộng đồng người Việt Nam di tản tại khắp nơi trên thề giới,
thường bàn đế vấn đề bảo tồn truyền thống với mục đích bảo vệ văn hóa Việt
Nam trước trào lưu hoàn vũ hóa.
Bước đầu của việc bảo trợ truyền thống là nhận diện ra được truyền thống.
Cảo luận này đề nghị ứng dụng những thành quả của trào lưu hậu ngoại thuôc
và việc đi t́m căn tính của văn học hậu Bắc Thuộc tại Việt Nam để như một
trong những phương pháp khởi dầu cho công tŕnh t́m hiểu truyền thống.
Tương lai sẽ cho biết hiệu quả của phương pháp này đối chiếu với hiệu quả
của những phương pháp khác.
[1] Terry Eagleton, Literary Theory. An Introduction, Oxford, Basil
Blackwell, 1983, p.18.
[2] Jean Marc Moura, Critique Postcoloniale et Littératures Francophones
Africaines, Développement d’une philologie contemporaine, in Fictions
Africaines et Poscolonialisme, Harmattan, Paris, 2002, p. 67-82.
[3] Nguyễn Dữ, Truyền Kỳ Mạn Lục Toàn Tập, bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn
Triện, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 131-137
[4] Vũ Ngọc Khánh, Thần Hoàng Làng Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh NIên Hà
Nội, 2002, tr.
[5] Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sữ Yếu, Xuân Thu xuất bản tại Hoa
Kỳ, tr.303.
[6] Truyện cổ Nưóc Nam, sách đă dẫn, tr. 111-112.
[7] Ḥn tức là viên tṛn, cũng có thứ bánh gọi là bánh ḥn tṛn, ḿnh to
hơn bánh rán, nhưng không tẩm mật.
[8] Vũ Ngọc Khánh, Kho Tàng Các Ông Trạng Việt Nam,Nhà Xuất Bản Văn Hóa,
Hà Nội, 1995, tr. 512-515.
[9] Nguyễn Dữ, Truyền Kỳ Mạn Lục Toàn Tập, sách đă dẫn, tr. 132.
[10] Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Truyện Cổ Nước Nam,tập 2, sách đă dẫn, tr.
35-37
[11]
周
至 cũng như
周
到 chu đáo.
[12] Georges Minois, Histoir du rire et de la dérision, Arthème Fayard,
Paris, 2000, p. 272.
[13] Đồ Nam, Ba Giai Tú Xuất, không ghi tên nhà xuất bản, nơi cùng năm
phát hành, tr. 46-50.
[14] Georges Minois, sách dă dẫn, tr. 273.
[15] La Vie Lazarillo de Tormès, Traduction de Bernard Sesé, Flammarion,
Paris 1994.
[16] Ngô Thừa Ân, Tây Du Kư chương 100, sách đă dẫn tr. 996-1008.
[17] Wu Zuxiang, Pilgrimage to the West and its Author, in Excerpts from
the Thrê Classical Chinese Novels,
[18] Ngô Thừa Ân, Tây Du Kư B́nh Khảo, sách đă dẫn, tr. 983
[19] Thích Thiện Siêu, Kinh Trường A Hàm, Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản,
Phật Lịch 2530 (1986), tr. 60
[20] Ngô Thừa Ân, Tây Du Kư B́nh Khảo, sách đă dẫn, tr. 1000.
[21] Georges Minois, Histoire du rire et de la dérision, Arthème Fayard,
Paris 2000, p. 275.
[22] Phùng Hữu Lan, Lịch Sử Triết Học Trung Quốc, tập II, bản dịch của Lê
Anh Minh, Nhà xuất bản Khoa Học Xă Hội, Hà Nội, 2006, tr. 448-449.
[23]
王
國
光 ,
西
遊
記
別
論,
上
海 1990.
[24]
王
崗,
西
遊
記 ,
一
個
完
整
的
道
教
內
丹
修
鍊
過
程, Tsing Hoa Journal of Chinese Studies, no. 25, 1995, pp.
51-86.
[25] Jennifer Oldstone-Moore, Alchimy and Journey to The West, The
Cart-Slow Kindom Episode, Journal of Chinese Religious, no. 26, 1998, pp.
51-66.
[26] Ngô Thừa Ân, Tây Du Kư, bản dịch của Phan Quân, Đại Nam tái bản tại
Hoa Kỳ, tr. 418-452.
[27] Anthony Yu, Religion and Literature in China: The ‘ObscureWay’ of tha
Journey to the West. In Tradition and Creativity: Essays on East Asian
Civilization, edited by Ching-I Tu, 109-154. New Brunswisk, NJ.
Transaction Books 1987.
[28] Lưu Tồn Nhân (Liu Ts’un-yan) Toàn Chân Giáo Ḥa Tiểu Thuyết Tây Du Kư
(全
真
教
和
小
說
西
遊
記, Part 4-5, no. 236 August 1985: 237 Semtember 1985.
[29] Baldrian-Hussein, Procédés Secret du Joyau Magique, Les deux Oceans
Paris, 1987.
[30] Henri Maspéro, Le Taoisme, Gallimard, Paris 1971, p.557.
[31] Andrew H. Plaks, Allegory in Hsi-yu Chi and Hung Lou Meng in Chinese
Narrative: Critical and Theorical Essay, Princeton University Press, 1987,
pp. 163-202.
[32] Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư, tập 2, Quốc Hoa Saigon,
không rơ năm in, tr.182-183.
[33] Ngô Thừa Ân, sách đă dẫn Tập 2, hồi thứ 49, tr. 480-481.
[34] Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh, Nguyễn Du Toàn Tập, tập 2, một nhóm
tác giả, Văn Học Hà Nội 1996, tr. 402.
[35] Suzuki, Daisetz teitaro, Thiền Luận, tập II, bản dịch của Tuệ Sĩ, Đăi
Nam tái bản tại Hoa kỳ, tr. 485-486.
[36] Jan Walsh Hokenson & Marcella Munson, ibid. p. 174.
[37] Jan Walsh Hohenson & Marcella Munson,The Bilingual Text, Hystory &
Theory of Literary Self Translation, ibid., p. 171
[38] Trích theo Jan Walsh Hokenson & Marcelle Munson, ibid. p. 193.
[39]
李白
詩
選,
劉
逸
生
主
編,馬
里
千
選
注,
三
聯
書
店,
香
港 1998, 164.
[40]唐
詩
三
百
首, ibid. 156
[41]
王
維
詩
選,
陳
東
華
註,
大光出版社,
香港 1976, 36.
[42] Luận Ngữ, bản dịch của Lê Phục Thiện, nhà xuất bản Văn Học Hà Nôi
1992. Tr.1
[43] Luận Ngũ sách đă dẫn, tr. 151
[44] Luận Ngữ sách đă dẫn, tr.164
[45] Luận Ngữ sách đă dẫn, tr. 58
[46] Trần Trọng Kim, Nho Giáo, quyển thượng, Tân Việt, tr. 132.
[47] Luận Ngữ, sách đă dẫn, tr. 439.
[48] Luận Ngữ, sách đă dẫn, tr. 481
[49] Người viết xin cáo lỗi cùng bạn đọc v́ chưa kiếm ra đượcnguyên bản
Việt Âm bài Vũ Phu Đội.
[50] Jane Walsh Hokenson & Marcella Munson, ibid. p. 180..</br.