BỆNH
MẮT CƯỜM
(Cataract)
Mắt cườm là nguyên nhân gây mù ḷa nhiều nhất. Thế giới hiện nay có
khoảng 30 triệu người không may bị mù ḷa, trong đó 15 triệu trường
hợp là do mắt cườm.
Trong dân gian, có người dùng “mắt kéo mây” để chỉ bệnh mắt cườm,
nhưng chữ “kéo mây” hay làm ta nghĩ đến bệnh “mộng thịt ở mắt”
(pterygium).
Tốt hơn hết, ta nên dùng chữ “mắt cườm” để chỉ loại bệnh mắt có tên
tiếng Anh là “cataract”, cho rơ ràng, không sợ nhầm lẫn. (Chữ
“cataract” từ chữ La-tinh “catarractes”, có nghĩa là “thác nước”: ta
nh́n bằng mắt thường, từ ngoài vào, thấy thủy tinh thể người có mắt
cườm nặng trông như những ḍng nước cuồn cuộn của một thác nước đang
chảy). Không mấy người trong chúng ta thực sự hiểu bệnh mắt cườm là
ǵ.
I-
MẮT CƯỜM LÀ G̀?
Mắt ví như một máy ảnh, loại tự động điều chỉnh (auto focus). Ngay
phía trước máy ảnh có một ống kinh, giúp thu các h́nh ành bên ngoài
ta muốn chụp. Trong mắt cũng có một bộ phận nằm phía trước gọi là
thủy tinh thể (lens), giống như ống kính của máy ảnh.
Thủy tinh thể có nhiệm vụ điều chỉnh ánh sáng và các h́nh ảnh bên
ngoài cho rơ, rồi rọi chiếu chúng lên trên vơng mạc (retina, màn ảnh
nằm phía sau mắt, ví như phim của máy ảnh), giúp ta trông thấy mọi
vật bên ngoài được rơ ràng. Mắt cườm do sự mờ đục của thủy tinh thể.
Giống như trong một máy ảnh mua với giá tiết kiệm, dùng lâu, ống
kính đục dần, hết c̣n trong như ngày đầu ta mới đem máy về.
Nh́n thế giới sinh động bên ngoài qua một mắt bị cườm chẳng khác ǵ
ta từ trong nhà nh́n ra bên ngoài qua một kính cửa sổ dơ, lâu ngày
chưa lau.
Như vậy, qua một thủy tinh thể đục do cườm, mọi vật ta nh́n thấy
nḥa đi, không rơ nét. Đă thế, khi ta nh́n thẳng vào ánh mặt trời
hoặc ánh đèn xe, thị giác càng kém hơn do mắt bị chóa.
Nhiều vị không c̣n lái xe ban đêm, nhận ra các bảng chỉ dẫn bên
đường, hoặc đọc những hang chữ nhỏ trên báo chí được nữa.
I I- NGUYÊN NHÂN
Những nguyên nhân tạo ra cườm mắt:
-
Chấn thương mắt (trauma),
chất phóng xạ (radiation), các bệnh gây viêm mắt (inflammation),
những bệnh biến dưỡng và dinh dưỡng (metabolic and nutritional
diseases), chẳng hạn như bệnh tiểu đường, sự suy dinh dưỡng.
Ngoài ra, một số yếu tố cũng khiến ta dễ bị bệnh mắt cườm:
- Tuổi tác, trên 60 tuổi.
- Thuốc lá.
- Rượu.
- Tiếp xúc nhiều với ánh
sáng mặt trời.
-
Có tŕnh độ học vấn thấp.
- Dùng các thuốc Steroids
(như Prednisone) dài lâu.
I I I- CHỮA TRỊ
Khi cườm c̣n nhẹ, th́ chưa cần mổ. Thay kính cho hợp với t́nh trạng
mắt cũng giúp được phần nào. Nếu vết cườm không lớn lắm, có khi bác
sĩ cho nhỏ thuốc (thí dụ như phenylephrine) để cho con ngươi (pupil)
mở lớn ra một chút, ta sẽ nh́n rơ hơn. Nên mang kính râm nếu ra chỗ
nắng hay chỗ nào sáng quá để khỏi bị lóa.
Khi nào cần giải phẫu:
Mắt cườm cần phải mổ, nếu ở vào những trường hợp sau đây:
1-
Khi thử (đo) thị lực, dù
có mang kính, mà không được tới 20/50. Thị lực 20/50 nghĩa là ǵ? Ở
Việt Nam, thử mắt (đo thị lực) tính từng 1/10. Mắt tốt nhất là
10/10, kém dần đi là 9/10, 8/10, v . v... Ở Mỹ, người ta thường dùng
bảng Snellen, tinh theo một kiểu khác hẵn. Mắt tôt nhất là 20/20.
Mắt 20/50 có nghĩa là ḿnh thấy một vật ǵ cách xa 20 feet chỉ rơ
bằng người mắt tốt nh́n cách xa 50 feet.
2-
Khi mắt bị mờ đến nỗi cản
trở những hoạt động cần thiết hằng ngày, như lái xe, đọc sách, v v…
3-
Khi mắt bị lóa quá mức
(trường hợp bị đục ở phía sau thủy tinh thể).
Ngày nay ở Mỹ, mổ cườm mắt đă trở thành một nghệ thuật, không làm
đau đớn người bệnh. Mổ cườm mắt thực hiện chỉ trong ṿng 30 đến 60
phút. Trong suốt cuộc mổ, người bệnh vẫn tỉnh táo, và sau đó ra về
trong ngày, không phải nằm lại bệnh viện.
95% người sau khi mổ cườm, thị giác sẽ trở lại rất tốt. Khoảng 5% số
người c̣n lại, mổ xong vẫn không trông rơ nhiều, là v́ bị thêm các
bệnh của vơng mạc (retinal diseases), hoặc v́ các biến chứng do phẫu
thuật (nhiễm trùng, tróc vơng mạc, thủy tinh giả đặt vào bị lệch, v
v . . ).
Thời gian đă qua rồi, những ngày trước, khi mổ cườm, có thể nói, mắt
bị tách hẳn ra làm hai mảnh để cố lấy cườm ra. Giờ đây, mổ cườm được
làm qua những vết rạch nhỏ xíu. Dưới kính phóng đại cực mạnh, bác sĩ
dùng một dụng cụ siêu âm đặc biệt để thực hiện cuộc giải phẫu. Sau
khi thủy tinh thể bị cườm được lấy ra, một thủy tinh thể nhân tạo
được đặt vào mắt để thay thế cho cái cũ. Chúng ta cứ để nó ở đấy
suốt đời.
Ngay buổi tối hôm giải phẫu, người mổ cườm đă có thể hoạt động b́nh
thường trở lại, đọc sách, đi bộ, ăn uống, xem truyền h́nh, và đa số
có thể đi làm lại sau một tuần. Người mổ cườm thường sẽ nh́n rơ,
không phải đeo kính sau mổ. Một số vị cần đeo kính để lái xe ban đêm
hoặc đọc sách.
IV- NẾU KHÔNG MỔ TH̀ SAO?
Nếu không mổ, một khi mắt bị cườm nặng đến độ khiến ta không c̣n
nh́n được rơ. Người bị mắt cườm, v́ mắt kém., có thể gây tai nạn lúc
lái xe, găy xương do té ngă, không muốn đi đến đâu, chẳng muốn giao
thiệp với ai ( social isolation) và mất đi sự tự lập, phải trông nhờ
vào người khác trong cuộc sống hằng ngày. Nhiều vị người nhà cho
rằng đă lẫn, nhưng sau khi mổ cườm mắt, tinh thần các vị khá hơn,
bớt cả lẫn.
Rơ ràng, mắt bị cườm khiến cuộc đời ta mất nhiều thi vị.
Giải phẫu chữa mắt cườm cần đến khi cuộc sống của ta bắt đầu mất vui
do cườm làm thị giác ta kém nhiều. Hầu hết người được mổ chữa cườm,
kể cả những vị mang bệnh tiểu đường, mắt lại sáng, và rất hài ḷng
sau giải phẫu.
Tài liệu tham khảo;
1-
www.cataractwashers.com
2-
Vi.wikipedia.org/wiki/cuom-thuy-tinh-the-mat
Danquyen.com/benhmatcuom.htm